Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh bắc ninh thời kỳ đẩy mạnh cnh, hđh đất nước ...

Tài liệu Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh bắc ninh thời kỳ đẩy mạnh cnh, hđh đất nước

.DOC
103
314
74

Mô tả:

1. Tính cấp thiết của đề tài Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng giai cấp công nhân nước ta hiện nay đang trở thành một vấn đề rất hệ trọng để phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mục tiêu mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” có thực hiện được hay không, thực hiện như thế nào và bằng cách nào tuỳ thuộc vào những biến đổi và phát triển mới về chất của giai cấp công nhân với tư cách là một giai cấp cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam; lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước; cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của CNH, HĐH, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh hiện nay đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của mình. Công tác xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, tay nghề với giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống của công nhân. Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đã và đang tạo ra những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vươn lên làm tròn vai trò lịch sử của mình. Song, chính sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh vì mục tiêu “đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp” cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ” làm luận văn tốt nghiệp.
3 Mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng giai cấp công nhân nước ta hiện nay đang trở thành một vấn đề rất hệ trọng để phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mục tiêu mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” có thực hiện được hay không, thực hiện như thế nào và bằng cách nào tuỳ thuộc vào những biến đổi và phát triển mới về chất của giai cấp công nhân với tư cách là một giai cấp cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam; lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước; cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Ninh. Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của CNH, HĐH, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập 4 kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh hiện nay đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của mình. Công tác xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, tay nghề với giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống của công nhân. Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đã và đang tạo ra những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vươn lên làm tròn vai trò lịch sử của mình. Song, chính sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh vì mục tiêu “đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp” cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức. Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ” làm luận văn tốt nghiệp. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luận giải rất sâu sắc trong các tác phẩm kinh điển. Đó là những di huấn có tính chất “kim chỉ nam” cho các Đảng cộng sản trên thế giới trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát triển giai cấp công nhân. Trên thực tế, đề tài về giai cấp công nhân nói chung và vai trò của nó nói riêng được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, đầu tư nghiên cứu. Không chỉ các nước XHCN mà ngay cả một số nước tư bản cũng tổ chức các cơ quan, các viện chuyên nghiên cứu về giai cấp công nhân. 5 Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân cũng đã được Đảng ta đề cập rất nhiều trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Đặc biệt Đảng ta cũng đã có Nghị quyết chuyên đề, đề cập đến xây dựng giai cấp công nhân như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong giai đoạn mới”; và gần đây, Hội nghị lần thứ Sáu, BCHTƯ Đảng khoá X, Đảng ta đã ra Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Thông qua các các văn kiện đó của Đảng, đã chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề mà Đảng ta đề cập trong các văn kiện, nghị quyết đó mới chỉ là những vấn đề chung nhất, mang tính định hướng cho việc xây dựng và phát triển giai cấp công nhân trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở đường lối, quan điểm, Nghị quyết của Đảng, đã có rất nhiều công trình khoa học nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam ở những khía cạnh khác nhau, tiêu biểu như: Về lịch sử giai cấp công nhân, phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam: Trần Văn Giàu, giai cấp công nhân Việt Nam- Sự hình thành và phát triển, Nxb Sự thật, Hà Nội 1961; Nguyễn Công Bình- Vũ Huy Phúc, Một số vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Lao động, 1974; Lịch sử phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, 1977. Trong các công trình đó, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc sự ra đời của giai cấp công nhân, của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam; những đóng góp to lớn của giai cấp công nhân , phong trào công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp giải phóng dân tộc. Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng, các tác giả đưa ra 6 những dự báo khoa học về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân, của phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới. Về giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước: Nguyễn Văn Tư, Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội 1992; Văn Tạo, Đổi mới tư duy về giai cấp công nhân- kinh tế tri thức và công nhân trí thức, Nxb CTQG, Hà Nội 1997; Cao Văn Lượng, CNH, HĐH và sự nghiệp phát triển của giai cấp công nhân, Nxb CTQG, Hà Nội 2001; “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay”, Đề tài QX. 99. 04 của Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, năm 2001; Viện Công nhân và Công đoàn, Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong những năm đầu thế kỷ XXI (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Lao động, Hà Nội 2002; Viện Công nhân và Công đoàn, Một số vấn đề cơ bản về xây dựng và phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH, Nxb Lao động, Hà Nội 2004; Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội 2004... Một số luận án, luận văn bàn về vấn đề này như: “Giai cấp công nhân Việt Nam- vai trò và xu hướng phát triển biến động về cơ cấu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Luận án PTS triết học của Bùi Đình Bôn, năm 1996; “Ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở nước ta hiện nay” của Dương Thị Thanh Xuân, Luận án tiến sĩ triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị- Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2007; Nâng cao chất lượng đội ngũ công nhân các doanh nghiệp, công nghiệp nhà nước trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Luận văn Thạc sĩ của Phạm Văn Thịnh; Trí thức hoá công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (qua thực tế một số doanh nghiệp nhà nước), Luận văn Thạc sĩ của Bùi Thị Kim Hậu... 7 Về cơ bản, các công trình và đề tài khoa học đã đi sâu luận giải và làm sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng đối với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trong đó, nhấn mạnh vai trò nòng cốt, lực lượng tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Trên cơ sở thực tiễn công cuộc đổi mới và thực trạng giai cấp công nhân, các tác giả đã đưa ra những dự báo mang tính khoa học về xu hướng biến đổi cơ cấu, và đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước. Ngoài những công trình khoa học nói trên, xung quanh vấn đề giai cấp công nhân cũng có nhiều bài nói, bài viết của các nhà khoa học đề cập, được đăng tải trên các tạp chí như: “Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của Khổng Doãn Hợi, Tạp chí Cộng sản số 3 tháng 2/1998; “Để giai cấp công nhân tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước” của Hoàng Trung Hải, Tạp chí Cộng sản số 4+5, tháng 12 năm 2003…Các bài viết đã góp phần khảng định thêm vị trí, vai trò của giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; khảng định sự cần thiết phải xây dựng giai cấp công nhân và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai cấp công nhân đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên, các tác giả mới dừng lại ở mức độ nêu ra vấn đề như là những gợi ý, giả thuyết khoa học cần phải được tiếp tục nghiên cứu. Về phía tỉnh Bắc Ninh, những năm qua cũng có nhiều đề tài nghiên cứu ở các lĩnh vực khác nhau, tiêu biểu như: “Giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ công nghiệp tỉnh Bắc Ninh” của Sở công nghiệp, 1998- 1999; “Nguồn nhân lực của tỉnh Bắc Ninh trước yêu cầu CNH, HĐH thực trạng và kiến nghị” của Trường cao đẳng sư phạm, 2002; “Cấp uỷ đảng cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn” của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, 2003; 8 “Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm của làng nghề truyền thống” của Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, 2005... Có thể khẳng định, đến nay chưa có một công trình nào đề cập đến vấn đề xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Đề tài mà tác giả lựa chọn là một công trình khoa học độc lập, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố. 3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: Trên cơ sở luận giải làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của việc xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh, đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. * Nhiệm vụ: - Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và rút ra một số vấn đề trong xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn * Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. * Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ chính trị- xã hội, luận văn tập trung nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ công nhân ở tỉnh Bắc Ninh chủ yếu từ năm 2000 đến nay. 5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn 9 - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về giai cấp công nhân, xây dựng giai cấp công nhân. - Cơ sở thực tiễn của luận văn là sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh, tình hình xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh; các số liệu tổng kết, thống kê, kết quả khảo sát, điều tra xã hội học của tác giả ở các doanh nghiệp tỉnh Bắc Ninh. - Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu như: Lô gíc- Lịch sử, phân tích - tổng hợp; so sánh, điều tra xã hội học; phương pháp chuyên gia... để làm sáng tỏ góc độ chính trị - xã hội của vấn đề. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn. - Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. - Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình giảng dạy, học tập và nghiên cứu những nội dung có liên quan; góp thêm cơ sở cho việc hoạch định chủ trương, chính sách và biện pháp xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của lãnh đạo, chính quyền tỉnh Bắc Ninh. 7. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục. 10 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC 1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa và xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh 1.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Bắc Ninh * Công nghiệp hoá, hiện đại hóa Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất xuất hiện đầu tiên ở nước Anh - “công xưởng của thế giới”, đánh dấu bằng sự ra đời của máy sợi Zenny(1764) và máy hơi nước Giêm - Oát(1767) mở đầu cho sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Với việc đưa máy sợi và máy hơi nước vào sản xuất, đã giải phóng được sức lao động. Lao động thủ công dần được thay thế bằng máy móc, năng suất lao động không ngừng được nâng cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã làm đảo lộn nhiều ngành sản xuất ở nước Anh, thay đổi mọi mặt của đời sống 11 xã hội, đồng thời đưa nước Anh nhanh chóng trở thành một cường quốc tư bản ở châu Âu. Từ nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan sang các nước khác như: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia. Cuộc cách mạng công nghiệp đã làm cho nền sản xuất tư bản không ngừng phát triển và hoàn thiện đồng thời đưa nhân loại bước sang một trang mới- giai đoạn văn minh công nghiệp. Đúng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng định: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” [22, tr.603]. Trong quá trình sản xuất, con người không ngừng nghiên cứu, cải tiến công cụ sản xuất, cho ra đời nhiều phát minh, sáng chế, ứng dụng vào thực tiễn nhằm thoả mãn nhu cầu khám phá, cải tạo thế giới, chinh phục tự nhiên của mình. Chính việc thường xuyên nghiên cứu, cải tiến công cụ sản xuất, ứng dụng các thành tựu khoa học vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng sản xuất không ngừng phát triển. Điều đó làm cơ sở thúc đẩy lịch sử phát triển. Sau một thế kỷ, kể từ sau khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất diễn ra ở Anh, đến cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ “công nghiệp hoá” mới xuất hiện và được hiểu là quá trình cải biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, sang hoạt động với tính chất của ngành công nghiệp cơ khí. Mãi đến nửa sau của thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hoá mới được ONIDO đưa ra và được hiểu như là một giai đoạn phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách mạng công nghiệp: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó, một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các 12 phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng trưởng cao và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế- xã hội”[33, tr.187]. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển biến theo quy luật xã hội nông nghiệp sang xã hội công nghiệp văn minh. Công nghiệp hoá là quá trình trang bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Công nghiệp hoá không chỉ gắn với phát triển công nghiệp mà bao trùm tất cả các ngành, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá dù trong giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá trình kinh tế- xã hội. Công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, đưa khoa học, công nghệ vào sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Theo đó, cũng làm thay đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp, với hàm lượng chất xám ngày càng tăng. Công nghiệp hoá còn là quá trình phát triển lực lượng sản xuất - yếu tố suy đến cùng quyết định sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo C.Mác: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[22, tr.100-101]. Thế kỷ XX với những thành tựu nổi bật về KH&CN, nhất là trên lĩnh vực điện tử, công nghệ thông tin. Bắt đầu từ sự ra đời của máy tính (cuối những năm 40), bộ vi xử lý (con chíp điện tử - những năm 70) và cuối cùng là kỹ thuật số và mạng (thập niên cuối cùng của thế kỷ XX)…Đó là những đột phá về KH&CN, đưa thế giới vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên thông tin, điện tử và tin học. Nhiều lĩnh vực khác phát triển mạnh mẽ: công nghệ sinh học 13 (với việc giải mã thành công bản đồ gien người), công nghệ vật liệu mới (với việc cho ra đời nhiều loại vật liệu “siêu bền”, “siêu cứng” có thể chịu được mọi sự khắc nghiệt của môi trường), công nghệ năng lượng (với việc nghiên cứu cho ra đời các nguồn năng lượng sạch từ gió, nước, mặt trời..), công nghệ na nô phân tử…Cuộc cách mạng KH&CN không những làm cho lực lượng sản xuất phát triển như vũ bão, thay thế lao động thủ công bằng máy móc mà còn biến đổi sâu sắc đời sống chính trị, văn hoá, xã hội thế giới. Khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Thực tế cho thấy, những năm gần đây, thông tin đã trở thành tư liệu sản xuất (nhờ có mạng Internet, máy tính, thư điện tử, điện thoại di động…), đã tạo ra khả năng kết nối toàn cầu, thế giới dường như thu nhỏ lại, nền kinh tế tri thức hình thành. Đó là sản phẩm của cách mạng KH&CN hiện đại, “dựa trên bốn cột trụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật liệu mới và công nghệ năng lượng, trong đó công nghệ thông tin giữ vai trò đi đầu và nền tảng” [11, tr.69]. Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn phá nặng nề, tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Chỉ có tiến hành công nghiệp hoá, nước ta mới có khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mới xây dựng thành công CNXH. Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công nghiệp hoá đối với sự phát triển đất nước theo định hướng XHCN, ngay từ Đại hội III, Đảng ta đã xác định, coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên CNXH. Đến Đại hội IV, V Đảng ta tiếp tục khẳng định và hiện thực hóa quan điểm đó. Tuy nhiên, trong một thời gian dài (từ năm 1960 đến 1968) nhìn nhận một cách khách quan, công nghiệp hoá ở nước ta chưa phát triển một 14 cách toàn diện, chủ yếu mới tập trung phát triển công nghiệp nặng. Vì thế, cơ bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong cơ cấu kinh tế còn rất thấp. Đại hội VI của Đảng, đánh dấu bước đột phá trong nhận thức của Đảng ta về công nghiệp hoá. Từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta đã chuyển sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu làm trọng tâm. Nhờ đó, công nghiệp hoá đã từng bước phù hợp với đặc điểm, điều kiện của đất nước, từng bước đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng. Đối với nước ta, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, cùng với quá trình công nghiệp hoá, phải đi vào hiện đại hoá ở một số lĩnh vực, một số ngành mũi nhọn. Bởi lẽ, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội theo những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo nên năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động cao. Hơn nữa, xuất phát từ đặc điểm nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, lại không đồng đều, trình độ khoa học công nghệ còn lạc hậu. Trong khi nước ta bắt đầu tiến hành công nghiệp hoá thì các nước tiên tiến trên thế giới đã đi trước và vượt xa nước ta hàng trăm năm. Do đó, để rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học, công nghệ với các nước trên thế giới chúng ta phải kết hợp công nghiệp hoá với hiện đại hoá. Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, một mặt sẽ đáp ứng được sự phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực, với trình độ lực lượng sản xuất vốn nhiều tầng, nhiều nấc ở nước ta. Mặt khác, gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá còn để chúng ta tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng KH&CN hiện đại trên thế giới đang phát triển như vũ bão, nhằm thực hiện bước phát triển “rút ngắn lịch sử”, “đi tắt đón đầu”, khắc phục sự tụt hậu ngày càng xa về KH&CN so với các nước trên thế giới. Vì thế, Đảng ta xác định: “Coi khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết 15 hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện đại ở những khâu quyết định”[4, tr.17]. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai quá trình khác nhau nhưng đan xen, bổ sung cho nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội. Hội nghị lần thứ Bảy, Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Đảng ta khẳng định: “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt động kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn bản chất ưu việt của chế độ mới ” [4, tr. 4]. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, và 5 năm thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, đất nước ta đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng khẳng định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, bước sang thời kỳ phát triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu mà Đảng ta xác định trong giai đoạn này là: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [5, tr.16]. Kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước, để đáp ứng với yêu cầu đòi hỏi của cách mạng trong giai đoạn mới- giai đoạn toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, Đại hội IX của Đảng chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, coi đó là nhiệm 16 vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH. Có đẩy mạnh CNH, HĐH mới tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, mới tạo ra thế vàk lực của đất nước, nâng cao được đời sống của nhân dân. Với tinh thần đó, Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát triển nhanh, có hiệu quả, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng- an ninh” [6, tr.24]. Cùng với sự phát triển của thực tiễn cách mạng, nhận thức của Đảng ta về CNH, HĐH ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Đường lối CNH, HĐH ngày càng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nước ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nhờ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH mà công cuộc đổi mới đất nước thu được nhiều thành tựu rất quan trọng, tạo ra thế và lực để nước ta tiếp tục vững bước đi lên con đường XHCN vì “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò rất quan trọng đối với việc xây dựng giai cấp công nhân; là môi trường, điều kiện để giai cấp công nhân phát triển về mọi mặt. Bởi vì, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công nghiệp. Giai cấp công nhân ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát triển của nền đại công nghiệp. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen khẳng định rất rõ trong các tác phẩm của mình: “Các giai cấp khác đều suy tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; còn giai cấp vô sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [22, tr.610]. “Công 17 nhân cũng là một phát minh của thời đại mới giống như máy móc vậy. Công nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”[23, tr.11]. Như một sự thật lịch sử khách quan, không gì có thể phủ nhận được, giai cấp công nhân là sản phẩm tích cực nhất, ưu tú nhất do nền sản xuất đại công nghiệp đào luyện nên. Lao động sản xuất trực tiếp bằng phương thức công nghiệp, trong môi trường sản xuất công nghiệp, nhờ đó hình thành tâm lý, ý thức, lối sống và tác phong công nghiệp, hình thành giai cấp công nhân với những đặc trưng, phẩm chất riêng của nó mà các giai tầng khác không thể có được. Đó là: giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý thức tổ chức kỷ luật cao nhất và là giai cấp có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế cao cả. Những phẩm chất đó của giai cấp công nhân ngày càng được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp. Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh cho những kết luận khoa học của C.Mác và Ph.Ăngghen, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng. Theo những số liệu thống kê, nếu ở thế kỷ XIX số lượng công nhân chỉ có khoảng 19 triệu thì đến nay đã phát triển lên tới 1 tỷ; nếu ở thời của Mác, chỉ có khoảng ba trăm nghề, thì hiện nay đã phát triển lên tới khoảng 3 nghìn nghề…Đặc biệt hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc. Sự phát triển của lực lượng sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội mới làm cho cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ, kéo theo đó là sự biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp. Trong đó, cơ cấu ngành nghề của giai cấp công nhân cũng có sự biến đổi đáng kể. Công nhân của nền công nghiệp cơ khí ngày càng giảm, công nhân của nền công nghiệp tự động hoá với trình độ kỹ thuật và công nghệ cao, công nhân làm việc trong lĩnh vực dịch vụ công 18 nghiệp ngày càng tăng. (Ở các nước tư bản phát triển, lĩnh vực này chiếm khoảng 50- 70%). Khi KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kết tinh trong sản phẩm hàng hoá; sản xuất công nghiệp được hiện đại hoá, tự động hoá, với công nghệ cao, đội ngũ công nhân có trình độ học vấn cao, công nhân “trí thức” ngày càng tăng. Việc làm, đời sống và điều kiện làm việc của họ cũng có nhiều thay đổi không còn giống như trước nữa. (Cố nhiên là tất cả những sự biến đổi đó không làm thay đổi bản chất, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân với tư cách là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên tiến, phương thức sản xuất hiện đại). Đối với nước ta, CNH, HĐH thực sự là tiền đề vật chất kỹ thuật, là môi trường, điều kiện cho sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam nói chung, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trước đây, nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, do đó giai cấp công nhân rất nhỏ bé. Song, nhờ công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước giai cấp công nhân nước ta đã phát triển về mọi mặt. Cùng với sự phát triển của CNH, HĐH giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển nhanh về số lượng và chất lượng; cơ cấu ngày càng phong phú, đa dạng nhất là cơ cấu về ngành nghề, lĩnh vực làm việc. Hiện nay, công nhân có mặt ở hầu hết các thành phần kinh tế, bên cạnh công nhân làm việc trong các lĩnh vực sản xuất trực tiếp, công nhân làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ công nghiệp ngày càng tăng; trình độ học vấn, tay nghề của công nhân cũng được nâng lên, tỷ lệ công nhân trí thức, công nhân tay nghề bậc cao, chuyên gia kỹ thuật ngày càng tăng... Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã khẳng định vai trò to lớn của CNH, HĐH. Đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra môi trường, điều kiện thuận lợi hơn để xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt. Theo đó, muốn xây dựng đội ngũ công nhân 19 tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập kinh tế quốc tế phải trên cơ sở đẩy mạnh và thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh. * Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh. Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, nằm ở phía bắc Thủ đô Hà Nội, trong vùng kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh, diện tích 807,6 km2, dân số khoảng hơn 1triệu người, có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không rất thuận tiện cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh. Bắc Ninh còn là nơi có truyền thống văn hoá lâu đời, mảnh đất sở hữu nhiều nghề truyền thống nổi tiếng như: tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc, khắc gỗ, giấy, tranh vẽ dân gian… Con người Bắc Ninh cần cù, hiếu học, thông minh, khéo léo, sáng tạo trong lao động. Dưới các triều đại phong kiến, cả nước chọn được 47 Trạng nguyên và 2991 tiến sĩ thì riêng Bắc Ninh đã có tới 17 trạng nguyên và 622 tiến sĩ. Trong đó phải kể đến trạng nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam; làng Tam sơn- địa phương duy nhất cả nước có đủ Tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sĩ), trong đó có 2 Trạng nguyên. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, Bắc Ninh còn nổi tiếng là vùng quê có phong trào cách mạng sôi nổi, sớm ra đời các tổ chức tiền thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi dưỡng các nhà cách mạng tiền bối xuất sắc của Đảng như: Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc Việt. Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng CNXH, với lợi thế “thiên thời, địa lợi, nhân hoà”, mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, giàu tiềm năng, Bắc Ninh trở thành nơi thu hút rất nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển công nghiệp. 20 Thực tế cho thấy, sau hơn mười năm tái lập tỉnh (1996), Bắc Ninh đã thu hút được hàng trăm dự án đầu tư, với tổng số vốn đăng ký lên tới hàng trăm triệu USD, trong đó có nhiều dự án lớn, công nghệ cao, công nghiệp sạch có tầm ảnh hưởng mạnh đến kinh tế- xã hội của địa phương thuộc các lĩnh vực điện, điện tử, viễn thông như: Canon, Sumitomo, Foxconn, Samsung Tyco Electronics Longtech, Mitac…Đặc biệt, đã thu hút được các dự án đầu tư hạ tầng của các tập đoàn lớn như: VSIP Bắc Ninh (Singgapore), ORIX (Nhật Bản), IGS (Hàn Quốc), Foxconn (Đài Loan)… Đến nay, Bắc Ninh đã trở thành một trong những tỉnh có tốc độ phát triển CNH, HĐH nhanh nhất miền Bắc. Không chỉ phát triển nhanh về tốc độ, CNH, HĐH ở Bắc Ninh còn thể hiện rõ nét tính hiện đại, tính vượt trước, đi tắt đón đầu. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có rất nhiều tập đoàn lớn của nước ngoài, các công ty, nhà máy có quy trình sản xuất với máy móc, công nghệ rất hiện đại. Các KCN ở Bắc Ninh được xây dựng theo quy hoạch tổng thể, gắn với quy hoạch các khu đô thị dân cư và dịch vụ, từng bước hình thành các khu đô thị- công nghiệp, hiện đại, phát triển bền vững. Cùng với phát triển các KCN tập trung, Bắc Ninh đã quy hoạch và phát triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề với sự đa dạng của các làng nghề truyền thống, tách khỏi khu dân cư. Các KCN tập trung và khu, cụm công nghiệp làng nghề đã và đang từng bước khẳng định vai trò chủ đạo về tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Giá trị sản xuất của khu vực này chiếm hơn 80% giá trị sản xuất công nghiệp toàn tỉnh, hơn 90% giá trị hàng hoá xuất khẩu và chiếm tỷ trọng lớn về số thu ngân sách hàng năm. Theo sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh, riêng năm 2008 tổng giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 16.045,5 tỷ đồng, vượt 10,7% và tăng 31,3% so với năm 2007; trong đó khu vực Nhà nước Trung ương vượt 34,2% kế hoạch và tăng 55,5%; Nhà nước địa phương vượt 40,1% kế hoạch 21 và tăng 72,2%; ngoài Nhà nước vượt 3,8% và tăng 14,5%; khu vực có vốn đầu tư nước ngoài vượt 15,1% và tăng 57,6% [36, tr.2]. Vốn là một tỉnh nông nghiệp nên Bắc Ninh mới chủ yếu phát triển các KCN tập trung, công nghiệp làng nghề, các ngành sản xuất trực tiếp vẫn là cơ bản, còn các ngành dịch vụ công nghiệp, du lịch mặc dù đã hình thành song phát triển còn chậm. Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 20012010 được xác định là: “Đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế xã hội với nhịp độ cao, hiệu quả, bền vững, khai thác mọi nguồn lực và khuyến khích mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phấn đấu đến năm 2015 Bắc Ninh trở thành tỉnh công nghiệp”[10]. Đây không chỉ là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là môi trường, điều kiện thuận lợi để xây dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới. 1.1.2. Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. * Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X, Đảng ta khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp”[8, tr.43]. Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh cũng có đầy đủ những đặc điểm, bản chất của giai cấp công nhân Việt Nam. Đó là: ra đời muộn (cuối thế kỷ XIX, đầu XX gắn với cuộc khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp) ở một nước thuộc địa, nửa 22 phong kiến; được kế thừa truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất khuất của dân tộc; sớm tiếp thu lý luận cách mạng thành lập chính Đảng nên nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất; phần lớn xuất thân từ nông dân nên có quan hệ khăng khít với nông dân, sớm hình thành khối liên minh công nông một cách tự nhiên và bền vững. Ngoài ra, xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế- xã hội, văn hoá của một tỉnh đồng bằng Bắc bộ, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh còn có những đặc thù riêng: Nguồn vào đội ngũ công nhân Bắc Ninh phần lớn là thanh niên nông thôn chưa qua đào tạo cơ bản và không thuần nhất. Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất nhưng lại là địa phương có mật độ dân số cao thứ ba cả nước (chỉ sau Thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh). Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2007 dân số Bắc Ninh khoảng 1triệu người, trong đó khu vực thành thị chiếm khoảng 10% dân số toàn tỉnh, khu vực nông thôn chiếm khoảng 90% dân số toàn tỉnh. Với mật độ dân số đông, lại phân bố chủ yếu ở nông thôn nên không tránh khỏi tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn. Mặt khác, trong những năm gần đây, đẩy mạnh CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp đã làm cho diện tích đất nông nghiệp của tỉnh ngày càng bị thu hẹp. Điều này khiến cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng tăng. Nhu cầu tìm kiếm việc làm của nông dân ngày một đông tại các KCN, nhất là thanh niên. Sự hình thành, phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh đã góp phần giải quyết việc làm cho người nông dân ở các vùng nông thôn trong và ngoài tỉnh. Vì thế, lực lượng lao động trong các KCN hiện nay chủ yếu xuất thân
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan