1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng giai cấp công nhân nước ta hiện nay đang trở thành một vấn đề rất hệ trọng để phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Mục tiêu mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” có thực hiện được hay không, thực hiện như thế nào và bằng cách nào tuỳ thuộc vào những biến đổi và phát triển mới về chất của giai cấp công nhân với tư cách là một giai cấp cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam; lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước; cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của cấp uỷ đảng và chính quyền các cấp; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động lực của sự phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Ninh.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của CNH, HĐH, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh hiện nay đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của mình. Công tác xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ nhận thức, tay nghề với giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống của công nhân.
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đã và đang tạo ra những điều kiện và thời cơ thuận lợi để đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vươn lên làm tròn vai trò lịch sử của mình. Song, chính sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh vì mục tiêu “đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp” cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh cả về số lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ” làm luận văn tốt nghiệp.
3
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giai cấp công nhân Việt Nam là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua
đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương
thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; lực
lượng nòng cốt trong khối liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng. Việc xây dựng giai
cấp công nhân nước ta hiện nay đang trở thành một vấn đề rất hệ trọng để
phát triển kinh tế - xã hội, chấn hưng dân tộc, thực hiện độc lập dân tộc gắn
liền với CNXH. Mục tiêu mà Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng
đề ra “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” có thực
hiện được hay không, thực hiện như thế nào và bằng cách nào tuỳ thuộc vào
những biến đổi và phát triển mới về chất của giai cấp công nhân với tư cách là
một giai cấp cách mạng, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước.
Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh là một bộ phận của giai cấp công nhân
Việt Nam; lực lượng tiên phong trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất
nước; cơ sở chính trị - xã hội vững chắc của cấp uỷ đảng và chính quyền các
cấp; lực lượng nòng cốt trong khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức,
nền tảng sức mạnh của khối đại đoàn kết dân tộc, động lực của sự phát triển
kinh tế- xã hội của tỉnh Bắc Ninh. Sự lớn mạnh của đội ngũ công nhân tỉnh
Bắc Ninh là điều kiện tiên quyết bảo đảm thắng lợi của công cuộc đổi mới,
CNH, HĐH đất nước theo định hướng XHCN ở tỉnh Bắc Ninh.
Trong những năm qua, cùng với sự phát triển của CNH, HĐH, đội ngũ
công nhân tỉnh Bắc Ninh đã không ngừng lớn mạnh về mọi mặt, đóng góp
quan trọng vào mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững của
tỉnh. Tuy nhiên, so với yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, hội nhập
4
kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Bắc Ninh hiện
nay đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế cả về số lượng,
chất lượng, cơ cấu và tổ chức, chưa tương xứng với vị trí, vai trò của mình.
Công tác xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vẫn còn nhiều hạn chế
bất cập, chưa kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, đào tạo nâng cao trình độ
nhận thức, tay nghề với giải quyết các vấn đề bức xúc trong đời sống của
công nhân.
Sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế
trong bối cảnh toàn cầu hoá và kinh tế tri thức đã và đang tạo ra những điều
kiện và thời cơ thuận lợi để đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh vươn lên làm
tròn vai trò lịch sử của mình. Song, chính sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH,
hội nhập kinh tế quốc tế và nhiệm vụ phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh vì mục
tiêu “đến năm 2015 đưa Bắc Ninh cơ bản trở thành tỉnh công nghiệp” cũng
đặt ra yêu cầu, đòi hỏi phải xây dựng đội ngũ công nhân vững mạnh cả về số
lượng, chất lượng, cơ cấu và tổ chức.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, tác giả chọn đề tài: “Xây dựng
đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước ”
làm luận văn tốt nghiệp.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Giai cấp công nhân và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp công nhân
đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin luận giải rất sâu sắc
trong các tác phẩm kinh điển. Đó là những di huấn có tính chất “kim chỉ nam”
cho các Đảng cộng sản trên thế giới trong quá trình lãnh đạo xây dựng và phát
triển giai cấp công nhân.
Trên thực tế, đề tài về giai cấp công nhân nói chung và vai trò của nó nói
riêng được nhiều nhà khoa học trên thế giới quan tâm, đầu tư nghiên cứu.
Không chỉ các nước XHCN mà ngay cả một số nước tư bản cũng tổ chức các
cơ quan, các viện chuyên nghiên cứu về giai cấp công nhân.
5
Ở Việt Nam, vấn đề xây dựng giai cấp công nhân cũng đã được Đảng ta
đề cập rất nhiều trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng. Đặc biệt Đảng ta
cũng đã có Nghị quyết chuyên đề, đề cập đến xây dựng giai cấp công nhân
như: Nghị quyết Hội nghị lần thứ Bảy, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
khóa VII về “phát triển công nghiệp, công nghệ đến năm 2000 theo hướng
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và xây dựng giai cấp công nhân trong
giai đoạn mới”; và gần đây, Hội nghị lần thứ Sáu, BCHTƯ Đảng khoá X,
Đảng ta đã ra Nghị quyết về “Tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Thông qua các các
văn kiện đó của Đảng, đã chứng tỏ tầm nhìn chiến lược của Đảng ta đối với
xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam. Tuy nhiên, những vấn đề
mà Đảng ta đề cập trong các văn kiện, nghị quyết đó mới chỉ là những vấn đề
chung nhất, mang tính định hướng cho việc xây dựng và phát triển giai cấp
công nhân trong suốt quá trình CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở đường lối, quan điểm, Nghị quyết của Đảng, đã có rất nhiều
công trình khoa học nghiên cứu về giai cấp công nhân Việt Nam ở những khía
cạnh khác nhau, tiêu biểu như:
Về lịch sử giai cấp công nhân, phong trào công nhân và Công đoàn Việt
Nam: Trần Văn Giàu, giai cấp công nhân Việt Nam- Sự hình thành và phát
triển, Nxb Sự thật, Hà Nội 1961; Nguyễn Công Bình- Vũ Huy Phúc, Một số
vấn đề về lịch sử giai cấp công nhân Việt Nam, Nxb Lao động, 1974; Lịch sử
phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam, Nxb Lao động, 1977. Trong
các công trình đó, các tác giả đã luận giải khá sâu sắc sự ra đời của giai cấp
công nhân, của phong trào công nhân và Công đoàn Việt Nam; những đóng
góp to lớn của giai cấp công nhân , phong trào công nhân Việt Nam đối với sự
nghiệp giải phóng dân tộc. Trên cơ sở nhiệm vụ cách mạng, các tác giả đưa ra
6
những dự báo khoa học về xu hướng phát triển của giai cấp công nhân, của
phong trào công nhân và công đoàn Việt Nam trong giai đoạn mới.
Về giai cấp công nhân trong sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất nước:
Nguyễn Văn Tư, Giai cấp công nhân và Công đoàn Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới, Nxb Sự thật, Hà Nội 1992; Văn Tạo, Đổi mới tư duy về giai cấp
công nhân- kinh tế tri thức và công nhân trí thức, Nxb CTQG, Hà Nội 1997;
Cao Văn Lượng, CNH, HĐH và sự nghiệp phát triển của giai cấp công nhân,
Nxb CTQG, Hà Nội 2001; “Xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong thời
kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay”, Đề tài QX. 99. 04 của
Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội, năm 2001; Viện Công
nhân và Công đoàn, Giải pháp xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong
những năm đầu thế kỷ XXI (Kỷ yếu hội thảo khoa học), Nxb Lao động, Hà
Nội 2002; Viện Công nhân và Công đoàn, Một số vấn đề cơ bản về xây dựng
và phát huy vai trò giai cấp công nhân Việt Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH,
Nxb Lao động, Hà Nội 2004; Dương Xuân Ngọc, Giai cấp công nhân Việt
Nam trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, Nxb CTQG, Hà Nội 2004...
Một số luận án, luận văn bàn về vấn đề này như: “Giai cấp công nhân
Việt Nam- vai trò và xu hướng phát triển biến động về cơ cấu trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, Luận án PTS triết học của Bùi Đình Bôn, năm
1996; “Ý thức chính trị của công nhân trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài ở nước ta hiện nay” của Dương Thị Thanh Xuân, Luận án tiến sĩ
triết học, chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, Học viện Chính trị- Hành
chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2007; Nâng cao chất lượng đội
ngũ công nhân các doanh nghiệp, công nghiệp nhà nước trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước, Luận văn Thạc sĩ của Phạm Văn Thịnh; Trí thức hoá
công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước (qua thực tế một số doanh
nghiệp nhà nước), Luận văn Thạc sĩ của Bùi Thị Kim Hậu...
7
Về cơ bản, các công trình và đề tài khoa học đã đi sâu luận giải và làm
sáng tỏ khái niệm, đặc điểm, vị trí, vai trò sứ mệnh lịch sử của giai cấp công
nhân nói chung, giai cấp công nhân Việt Nam nói riêng đối với cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Trong đó, nhấn mạnh vai trò nòng cốt, lực lượng tiên phong
của giai cấp công nhân Việt Nam đối với sự nghiệp đổi mới, CNH, HĐH đất
nước. Trên cơ sở thực tiễn công cuộc đổi mới và thực trạng giai cấp công
nhân, các tác giả đã đưa ra những dự báo mang tính khoa học về xu hướng
biến đổi cơ cấu, và đề xuất những giải pháp nhằm xây dựng và phát triển
giai cấp công nhân Việt Nam trong công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất
nước.
Ngoài những công trình khoa học nói trên, xung quanh vấn đề giai cấp
công nhân cũng có nhiều bài nói, bài viết của các nhà khoa học đề cập, được
đăng tải trên các tạp chí như: “Giai cấp công nhân trong sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước” của Khổng Doãn Hợi, Tạp chí Cộng sản số 3 tháng 2/1998;
“Để giai cấp công nhân tiếp tục đi đầu trong sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước” của Hoàng Trung Hải, Tạp chí Cộng sản số 4+5, tháng 12 năm
2003…Các bài viết đã góp phần khảng định thêm vị trí, vai trò của giai cấp
công nhân trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; khảng định sự cần thiết
phải xây dựng giai cấp công nhân và đề xuất một số giải pháp xây dựng giai
cấp công nhân đáp ứng yêu cầu sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Tuy nhiên,
các tác giả mới dừng lại ở mức độ nêu ra vấn đề như là những gợi ý, giả
thuyết khoa học cần phải được tiếp tục nghiên cứu.
Về phía tỉnh Bắc Ninh, những năm qua cũng có nhiều đề tài nghiên cứu ở
các lĩnh vực khác nhau, tiêu biểu như: “Giải pháp phát triển làng nghề tiểu thủ
công nghiệp tỉnh Bắc Ninh” của Sở công nghiệp, 1998- 1999; “Nguồn nhân lực
của tỉnh Bắc Ninh trước yêu cầu CNH, HĐH thực trạng và kiến nghị” của
Trường cao đẳng sư phạm, 2002; “Cấp uỷ đảng cơ sở lãnh đạo, chỉ đạo đẩy
nhanh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn” của Ban tuyên giáo tỉnh uỷ, 2003;
8
“Xây dựng và phát triển thương hiệu cho các sản phẩm của làng nghề truyền
thống” của Chi cục Tiêu chuẩn đo lường chất lượng, 2005...
Có thể khẳng định, đến nay chưa có một công trình nào đề cập đến
vấn đề xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước. Đề tài mà tác giả lựa chọn là một công trình khoa học độc
lập, không trùng lặp với bất cứ công trình khoa học nào đã công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích:
Trên cơ sở luận giải làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn của
việc xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh, đề xuất một số phương
hướng và giải pháp cơ bản tiếp tục xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ cơ sở lý luận của việc xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc
Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Đánh giá đúng thực trạng, nguyên nhân và rút ra một số vấn đề trong
xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
- Đề xuất một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng đội
ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu của luận văn: là xây dựng đội ngũ công nhân
tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
* Phạm vi nghiên cứu: Từ góc độ chính trị- xã hội, luận văn tập trung
nghiên cứu việc xây dựng đội ngũ công nhân ở tỉnh Bắc Ninh chủ yếu từ năm
2000 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
9
- Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng ta về giai cấp công nhân, xây
dựng giai cấp công nhân.
- Cơ sở thực tiễn của luận văn là sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh,
tình hình xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh; các số liệu tổng kết,
thống kê, kết quả khảo sát, điều tra xã hội học của tác giả ở các doanh nghiệp
tỉnh Bắc Ninh.
- Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các
phương pháp nghiên cứu như: Lô gíc- Lịch sử, phân tích - tổng hợp; so sánh,
điều tra xã hội học; phương pháp chuyên gia... để làm sáng tỏ góc độ chính trị
- xã hội của vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn.
- Luận văn góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận của việc xây dựng giai
cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước.
- Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo, phục vụ cho quá trình giảng
dạy, học tập và nghiên cứu những nội dung có liên quan; góp thêm cơ sở cho
việc hoạch định chủ trương, chính sách và biện pháp xây dựng đội ngũ công
nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH của lãnh đạo, chính quyền
tỉnh Bắc Ninh.
7. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm phần mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài
liệu tham khảo và phụ lục.
10
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN XÂY DỰNG
ĐỘI NGŨ CÔNG NHÂN TỈNH BẮC NINH THỜI KỲ ĐẨY MẠNH
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ ĐẤT NƯỚC
1.1. Công nghiệp hoá, hiện đại hóa và xây dựng đội ngũ công nhân
tỉnh Bắc Ninh
1.1.1. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa và công nghiệp hoá, hiện đại
hoá ở tỉnh Bắc Ninh
* Công nghiệp hoá, hiện đại hóa
Vào nửa cuối thế kỷ XVIII, cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
xuất hiện đầu tiên ở nước Anh - “công xưởng của thế giới”, đánh dấu bằng
sự ra đời của máy sợi Zenny(1764) và máy hơi nước Giêm - Oát(1767) mở
đầu cho sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất. Với việc đưa máy
sợi và máy hơi nước vào sản xuất, đã giải phóng được sức lao động. Lao
động thủ công dần được thay thế bằng máy móc, năng suất lao động không
ngừng được nâng cao. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất đã làm
đảo lộn nhiều ngành sản xuất ở nước Anh, thay đổi mọi mặt của đời sống
11
xã hội, đồng thời đưa nước Anh nhanh chóng trở thành một cường quốc tư
bản ở châu Âu.
Từ nước Anh, cách mạng công nghiệp đã nhanh chóng lan sang các
nước khác như: Hà Lan, Pháp, Đức, Italia. Cuộc cách mạng công nghiệp đã
làm cho nền sản xuất tư bản không ngừng phát triển và hoàn thiện đồng
thời đưa nhân loại bước sang một trang mới- giai đoạn văn minh công
nghiệp. Đúng như các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã khẳng
định: “Giai cấp tư sản trong quá trình thống trị giai cấp chưa đầy một thế
kỷ đã tạo ra những lực lượng sản xuất nhiều hơn và đồ sộ hơn lực lượng
sản xuất của tất cả các thế hệ trước kia gộp lại” [22, tr.603].
Trong quá trình sản xuất, con người không ngừng nghiên cứu, cải tiến
công cụ sản xuất, cho ra đời nhiều phát minh, sáng chế, ứng dụng vào thực
tiễn nhằm thoả mãn nhu cầu khám phá, cải tạo thế giới, chinh phục tự nhiên
của mình. Chính việc thường xuyên nghiên cứu, cải tiến công cụ sản xuất,
ứng dụng các thành tựu khoa học vào quá trình sản xuất đã làm cho lực lượng
sản xuất không ngừng phát triển. Điều đó làm cơ sở thúc đẩy lịch sử phát
triển.
Sau một thế kỷ, kể từ sau khi cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất
diễn ra ở Anh, đến cuối thế kỷ XIX, thuật ngữ “công nghiệp hoá” mới xuất
hiện và được hiểu là quá trình cải biến một lĩnh vực sản xuất nào đó, sang
hoạt động với tính chất của ngành công nghiệp cơ khí. Mãi đến nửa sau của
thế kỷ XX, khái niệm công nghiệp hoá mới được ONIDO đưa ra và được hiểu
như là một giai đoạn phát triển kinh tế mà nội dung của nó bao hàm cuộc cách
mạng công nghiệp: “Công nghiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong
đó, một bộ phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được huy động để xây
dựng cơ cấu kinh tế nhiều ngành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các
12
phương tiện sản xuất, hàng tiêu dùng, có khả năng đảm bảo một nhịp độ tăng
trưởng cao và đảm bảo sự tiến bộ về kinh tế- xã hội”[33, tr.187].
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển biến theo quy luật xã hội nông
nghiệp sang xã hội công nghiệp văn minh. Công nghiệp hoá là quá trình trang
bị và trang bị lại công nghệ hiện đại cho các ngành kinh tế quốc dân. Công
nghiệp hoá không chỉ gắn với phát triển công nghiệp mà bao trùm tất cả các
ngành, các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Quá trình công nghiệp hoá dù
trong giai đoạn nào cũng đều vừa là quá trình kinh tế - kỹ thuật vừa là quá
trình kinh tế- xã hội.
Công nghiệp hoá là quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế - xã hội theo
hướng, giảm tỷ trọng nông nghiệp, tăng tỷ trọng công nghiệp, đưa khoa học,
công nghệ vào sản xuất, góp phần tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.
Theo đó, cũng làm thay đổi cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp,
với hàm lượng chất xám ngày càng tăng.
Công nghiệp hoá còn là quá trình phát triển lực lượng sản xuất - yếu tố
suy đến cùng quyết định sự phát triển sản xuất, tăng trưởng kinh tế. Theo
C.Mác: “Những quan hệ xã hội đều gắn liền mật thiết với những lực lượng
sản xuất. Do có những lực lượng sản xuất mới, loài người thay đổi phương
thức sản xuất của mình và do thay đổi phương thức sản xuất, cách kiếm sống
của mình, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối
xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước
đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp”[22, tr.100-101].
Thế kỷ XX với những thành tựu nổi bật về KH&CN, nhất là trên lĩnh
vực điện tử, công nghệ thông tin. Bắt đầu từ sự ra đời của máy tính (cuối
những năm 40), bộ vi xử lý (con chíp điện tử - những năm 70) và cuối cùng là
kỹ thuật số và mạng (thập niên cuối cùng của thế kỷ XX)…Đó là những đột
phá về KH&CN, đưa thế giới vào kỷ nguyên mới- kỷ nguyên thông tin, điện
tử và tin học. Nhiều lĩnh vực khác phát triển mạnh mẽ: công nghệ sinh học
13
(với việc giải mã thành công bản đồ gien người), công nghệ vật liệu mới (với
việc cho ra đời nhiều loại vật liệu “siêu bền”, “siêu cứng” có thể chịu được
mọi sự khắc nghiệt của môi trường), công nghệ năng lượng (với việc nghiên
cứu cho ra đời các nguồn năng lượng sạch từ gió, nước, mặt trời..), công nghệ
na nô phân tử…Cuộc cách mạng KH&CN không những làm cho lực lượng
sản xuất phát triển như vũ bão, thay thế lao động thủ công bằng máy móc mà
còn biến đổi sâu sắc đời sống chính trị, văn hoá, xã hội thế giới.
Khoa học và công nghệ đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp, ảnh hưởng lớn đến năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất. Thực tế
cho thấy, những năm gần đây, thông tin đã trở thành tư liệu sản xuất (nhờ
có mạng Internet, máy tính, thư điện tử, điện thoại di động…), đã tạo ra
khả năng kết nối toàn cầu, thế giới dường như thu nhỏ lại, nền kinh tế tri
thức hình thành. Đó là sản phẩm của cách mạng KH&CN hiện đại, “dựa
trên bốn cột trụ: công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ vật
liệu mới và công nghệ năng lượng, trong đó công nghệ thông tin giữ vai trò
đi đầu và nền tảng” [11, tr.69].
Việt Nam quá độ lên CNXH bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa từ một
nước nông nghiệp lạc hậu, lực lượng sản xuất thấp kém, lại bị chiến tranh tàn
phá nặng nề, tất yếu phải thực hiện công nghiệp hoá đất nước. Chỉ có tiến
hành công nghiệp hoá, nước ta mới có khả năng thoát khỏi nguy cơ tụt hậu xa
hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới, mới xây dựng
thành công CNXH.
Nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của công nghiệp hoá đối với sự phát
triển đất nước theo định hướng XHCN, ngay từ Đại hội III, Đảng ta đã xác
định, coi công nghiệp hoá là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên
CNXH. Đến Đại hội IV, V Đảng ta tiếp tục khẳng định và hiện thực hóa quan
điểm đó. Tuy nhiên, trong một thời gian dài (từ năm 1960 đến 1968) nhìn
nhận một cách khách quan, công nghiệp hoá ở nước ta chưa phát triển một
14
cách toàn diện, chủ yếu mới tập trung phát triển công nghiệp nặng. Vì thế, cơ
bản nước ta vẫn là một nước nông nghiệp lạc hậu, tỷ trọng công nghiệp trong
cơ cấu kinh tế còn rất thấp.
Đại hội VI của Đảng, đánh dấu bước đột phá trong nhận thức của Đảng ta
về công nghiệp hoá. Từ ưu tiên phát triển công nghiệp nặng, chúng ta đã chuyển
sang lấy nông nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu
làm trọng tâm. Nhờ đó, công nghiệp hoá đã từng bước phù hợp với đặc điểm,
điều kiện của đất nước, từng bước đi vào cuộc sống và phát huy tác dụng.
Đối với nước ta, công nghiệp hoá phải gắn liền với hiện đại hoá, cùng
với quá trình công nghiệp hoá, phải đi vào hiện đại hoá ở một số lĩnh vực,
một số ngành mũi nhọn. Bởi lẽ, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã
hội theo những quy trình công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến,
hiện đại, dựa trên sự phát triển của tiến bộ khoa học kỹ thuật, tạo nên năng
suất, chất lượng, hiệu quả lao động cao. Hơn nữa, xuất phát từ đặc điểm nước
ta trong thời kỳ quá độ lên CNXH, tồn tại nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành
phần kinh tế, trình độ lực lượng sản xuất còn thấp, lại không đồng đều, trình
độ khoa học công nghệ còn lạc hậu. Trong khi nước ta bắt đầu tiến hành công
nghiệp hoá thì các nước tiên tiến trên thế giới đã đi trước và vượt xa nước ta
hàng trăm năm. Do đó, để rút ngắn khoảng cách về trình độ khoa học, công
nghệ với các nước trên thế giới chúng ta phải kết hợp công nghiệp hoá với
hiện đại hoá. Gắn công nghiệp hoá với hiện đại hoá, một mặt sẽ đáp ứng được
sự phát triển của từng ngành, từng lĩnh vực, với trình độ lực lượng sản xuất
vốn nhiều tầng, nhiều nấc ở nước ta. Mặt khác, gắn công nghiệp hoá với hiện
đại hoá còn để chúng ta tận dụng những thành tựu của cuộc cách mạng
KH&CN hiện đại trên thế giới đang phát triển như vũ bão, nhằm thực hiện
bước phát triển “rút ngắn lịch sử”, “đi tắt đón đầu”, khắc phục sự tụt hậu ngày
càng xa về KH&CN so với các nước trên thế giới. Vì thế, Đảng ta xác định:
“Coi khoa học, công nghệ là nền tảng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Kết
15
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào
hiện đại ở những khâu quyết định”[4, tr.17].
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá là hai quá trình khác nhau nhưng đan xen,
bổ sung cho nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện về kinh tế - xã hội. Hội nghị
lần thứ Bảy, Ban chấp hành Trung ương khoá VII, Đảng ta khẳng định: “Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn diện các hoạt
động kinh tế, xã hội từ sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một
cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp
tiên tiến, hiện đại, tạo ra năng suất lao động xã hội cao. Đối với nước ta đó là
một quá trình thực hiện chiến lược phát triển kinh tế - xã hội nhằm cải biến
một xã hội nông nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp, gắn với việc
hình thành từng bước quan hệ sản xuất tiến bộ, ngày càng thể hiện đầy đủ hơn
bản chất ưu việt của chế độ mới ” [4, tr. 4].
Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, và 5 năm
thực hiện nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII, đất nước ta đã đạt được những
thành tựu bước đầu rất quan trọng. Trên cơ sở đánh giá khách quan, khoa học
những thành tựu đạt được sau 10 năm đổi mới, Đại hội VIII của Đảng khẳng
định: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, bước sang thời kỳ phát
triển mới- thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Mục tiêu mà Đảng ta xác
định trong giai đoạn này là: “Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp
có cơ sở vật chất- kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất
tiến bộ, phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật
chất tinh thần cao, quốc phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, văn minh. Từ nay đến năm 2020, ra sức phấn đấu đưa nước ta
cơ bản trở thành một nước công nghiệp” [5, tr.16].
Kế thừa quan điểm của các kỳ đại hội trước, để đáp ứng với yêu cầu đòi
hỏi của cách mạng trong giai đoạn mới- giai đoạn toàn cầu hoá và kinh tế tri
thức, Đại hội IX của Đảng chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH, coi đó là nhiệm
16
vụ trung tâm của toàn Đảng, toàn dân trong suốt thời kỳ quá độ lên CNXH.
Có đẩy mạnh CNH, HĐH mới tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho CNXH, mới
tạo ra thế vàk lực của đất nước, nâng cao được đời sống của nhân dân. Với
tinh thần đó, Đảng ta khẳng định: “Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công
nghiệp, ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời xây dựng quan hệ sản
xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa, phát huy cao độ nội lực, đồng
thời tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phát
triển nhanh, có hiệu quả, bền vững, tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển
văn hoá, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường, kết hợp phát
triển kinh tế- xã hội với tăng cường quốc phòng- an ninh” [6, tr.24].
Cùng với sự phát triển của thực tiễn cách mạng, nhận thức của Đảng ta
về CNH, HĐH ngày càng được bổ sung, hoàn thiện hơn. Đường lối CNH,
HĐH ngày càng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của nước ta trong thời kỳ
quá độ lên CNXH. Nhờ đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH mà công cuộc đổi
mới đất nước thu được nhiều thành tựu rất quan trọng, tạo ra thế và lực để
nước ta tiếp tục vững bước đi lên con đường XHCN vì “dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa có vai trò rất quan trọng đối với việc xây
dựng giai cấp công nhân; là môi trường, điều kiện để giai cấp công nhân phát
triển về mọi mặt. Bởi vì, giai cấp công nhân là sản phẩm của nền đại công
nghiệp. Giai cấp công nhân ra đời, tồn tại và phát triển gắn liền với sự phát
triển của nền đại công nghiệp. Điều này đã được C.Mác và Ph.Ăngghen
khẳng định rất rõ trong các tác phẩm của mình: “Các giai cấp khác đều suy
tàn và tiêu vong cùng với sự phát triển của đại công nghiệp; còn giai cấp vô
sản lại là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp” [22, tr.610]. “Công
17
nhân cũng là một phát minh của thời đại mới giống như máy móc vậy. Công
nhân Anh là đứa con đầu lòng của nền công nghiệp hiện đại”[23, tr.11].
Như một sự thật lịch sử khách quan, không gì có thể phủ nhận được, giai
cấp công nhân là sản phẩm tích cực nhất, ưu tú nhất do nền sản xuất đại công
nghiệp đào luyện nên. Lao động sản xuất trực tiếp bằng phương thức công
nghiệp, trong môi trường sản xuất công nghiệp, nhờ đó hình thành tâm lý, ý
thức, lối sống và tác phong công nghiệp, hình thành giai cấp công nhân với
những đặc trưng, phẩm chất riêng của nó mà các giai tầng khác không thể có
được. Đó là: giai cấp tiên tiến nhất, có tinh thần cách mạng triệt để nhất, có ý
thức tổ chức kỷ luật cao nhất và là giai cấp có tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn
kết quốc tế cao cả. Những phẩm chất đó của giai cấp công nhân ngày càng
được củng cố và phát triển cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công
nghiệp.
Thực tiễn lịch sử cũng đã chứng minh cho những kết luận khoa học của
C.Mác và Ph.Ăngghen, cùng với sự phát triển của nền sản xuất đại công
nghiệp, giai cấp công nhân ngày càng phát triển về số lượng và chất lượng.
Theo những số liệu thống kê, nếu ở thế kỷ XIX số lượng công nhân chỉ có
khoảng 19 triệu thì đến nay đã phát triển lên tới 1 tỷ; nếu ở thời của Mác, chỉ
có khoảng ba trăm nghề, thì hiện nay đã phát triển lên tới khoảng 3 nghìn
nghề…Đặc biệt hiện nay, trước sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa
học và công nghệ hiện đại đã làm cho lực lượng sản xuất phát triển vượt bậc.
Sự phát triển của lực lượng sản xuất cùng với sự phân công lao động xã hội
mới làm cho cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch mạnh mẽ, kéo theo đó là sự
biến đổi cơ cấu xã hội giai cấp. Trong đó, cơ cấu ngành nghề của giai cấp
công nhân cũng có sự biến đổi đáng kể. Công nhân của nền công nghiệp cơ
khí ngày càng giảm, công nhân của nền công nghiệp tự động hoá với trình độ
kỹ thuật và công nghệ cao, công nhân làm việc trong lĩnh vực dịch vụ công
18
nghiệp ngày càng tăng. (Ở các nước tư bản phát triển, lĩnh vực này chiếm
khoảng 50- 70%).
Khi KH&CN trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, kết tinh trong sản
phẩm hàng hoá; sản xuất công nghiệp được hiện đại hoá, tự động hoá, với
công nghệ cao, đội ngũ công nhân có trình độ học vấn cao, công nhân “trí
thức” ngày càng tăng. Việc làm, đời sống và điều kiện làm việc của họ cũng
có nhiều thay đổi không còn giống như trước nữa. (Cố nhiên là tất cả những
sự biến đổi đó không làm thay đổi bản chất, vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai
cấp công nhân với tư cách là giai cấp đại diện cho lực lượng sản xuất tiên
tiến, phương thức sản xuất hiện đại).
Đối với nước ta, CNH, HĐH thực sự là tiền đề vật chất kỹ thuật, là môi
trường, điều kiện cho sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam nói
chung, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh nói riêng. Trước đây, nước ta vốn là
một nước nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát triển, do đó giai cấp
công nhân rất nhỏ bé. Song, nhờ công cuộc đổi mới, CNH, HĐH đất nước
giai cấp công nhân nước ta đã phát triển về mọi mặt. Cùng với sự phát triển
của CNH, HĐH giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng phát triển nhanh về
số lượng và chất lượng; cơ cấu ngày càng phong phú, đa dạng nhất là cơ cấu
về ngành nghề, lĩnh vực làm việc. Hiện nay, công nhân có mặt ở hầu hết các
thành phần kinh tế, bên cạnh công nhân làm việc trong các lĩnh vực sản xuất
trực tiếp, công nhân làm việc trong các lĩnh vực dịch vụ công nghiệp ngày
càng tăng; trình độ học vấn, tay nghề của công nhân cũng được nâng lên, tỷ lệ
công nhân trí thức, công nhân tay nghề bậc cao, chuyên gia kỹ thuật ngày
càng tăng... Sự phát triển của giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay đã khẳng
định vai trò to lớn của CNH, HĐH. Đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra môi
trường, điều kiện thuận lợi hơn để xây dựng và phát triển giai cấp công nhân
Việt Nam lớn mạnh về mọi mặt. Theo đó, muốn xây dựng đội ngũ công nhân
19
tỉnh Bắc Ninh đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của sự nghiệp đổi mới, hội nhập kinh
tế quốc tế phải trên cơ sở đẩy mạnh và thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh.
* Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh là một tỉnh nhỏ, nằm ở phía bắc Thủ đô Hà Nội, trong vùng
kinh tế trọng điểm - tam giác tăng trưởng: Hà Nội- Hải Phòng- Quảng Ninh,
diện tích 807,6 km2, dân số khoảng hơn 1triệu người, có hệ thống giao thông
đường bộ, đường sắt, đường thuỷ, đường không rất thuận tiện cho phát triển
kinh tế, văn hoá, xã hội nhất là đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh Bắc Ninh.
Bắc Ninh còn là nơi có truyền thống văn hoá lâu đời, mảnh đất sở hữu
nhiều nghề truyền thống nổi tiếng như: tơ tằm, gốm sứ, đúc đồng, trạm bạc,
khắc gỗ, giấy, tranh vẽ dân gian…
Con người Bắc Ninh cần cù, hiếu học, thông minh, khéo léo, sáng tạo
trong lao động. Dưới các triều đại phong kiến, cả nước chọn được 47 Trạng
nguyên và 2991 tiến sĩ thì riêng Bắc Ninh đã có tới 17 trạng nguyên và 622
tiến sĩ. Trong đó phải kể đến trạng nguyên Lê Văn Thịnh - vị trạng nguyên
khai khoa mở đầu cho lịch sử khoa cử Việt Nam; làng Tam sơn- địa phương
duy nhất cả nước có đủ Tam khôi với 22 vị đại khoa (tiến sĩ), trong đó có 2
Trạng nguyên. Trong thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, Bắc Ninh còn nổi
tiếng là vùng quê có phong trào cách mạng sôi nổi, sớm ra đời các tổ chức
tiền thân của Đảng, mảnh đất sinh thành và nuôi dưỡng các nhà cách mạng
tiền bối xuất sắc của Đảng như: Ngô Gia Tự, Nguyễn Văn Cừ, Hoàng Quốc
Việt. Trong thời kỳ đổi mới, xây dựng CNXH, với lợi thế “thiên thời, địa lợi,
nhân hoà”, mảnh đất “địa linh nhân kiệt”, giàu tiềm năng, Bắc Ninh trở thành
nơi thu hút rất nhiều nhà đầu tư lớn trong và ngoài nước đến đầu tư phát triển
công nghiệp.
20
Thực tế cho thấy, sau hơn mười năm tái lập tỉnh (1996), Bắc Ninh đã thu
hút được hàng trăm dự án đầu tư, với tổng số vốn đăng ký lên tới hàng trăm
triệu USD, trong đó có nhiều dự án lớn, công nghệ cao, công nghiệp sạch có
tầm ảnh hưởng mạnh đến kinh tế- xã hội của địa phương thuộc các lĩnh vực
điện, điện tử, viễn thông như: Canon, Sumitomo, Foxconn, Samsung Tyco
Electronics Longtech, Mitac…Đặc biệt, đã thu hút được các dự án đầu tư hạ
tầng của các tập đoàn lớn như: VSIP Bắc Ninh (Singgapore), ORIX (Nhật
Bản), IGS (Hàn Quốc), Foxconn (Đài Loan)…
Đến nay, Bắc Ninh đã trở thành một trong những tỉnh có tốc độ phát
triển CNH, HĐH nhanh nhất miền Bắc. Không chỉ phát triển nhanh về tốc độ,
CNH, HĐH ở Bắc Ninh còn thể hiện rõ nét tính hiện đại, tính vượt trước, đi
tắt đón đầu. Hiện nay trên địa bàn tỉnh Bắc Ninh có rất nhiều tập đoàn lớn của
nước ngoài, các công ty, nhà máy có quy trình sản xuất với máy móc, công
nghệ rất hiện đại.
Các KCN ở Bắc Ninh được xây dựng theo quy hoạch tổng thể, gắn với
quy hoạch các khu đô thị dân cư và dịch vụ, từng bước hình thành các khu đô
thị- công nghiệp, hiện đại, phát triển bền vững.
Cùng với phát triển các KCN tập trung, Bắc Ninh đã quy hoạch và phát
triển các cụm công nghiệp vừa và nhỏ, cụm công nghiệp làng nghề với sự đa
dạng của các làng nghề truyền thống, tách khỏi khu dân cư. Các KCN tập
trung và khu, cụm công nghiệp làng nghề đã và đang từng bước khẳng định
vai trò chủ đạo về tốc độ tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Giá trị
sản xuất của khu vực này chiếm hơn 80% giá trị sản xuất công nghiệp toàn
tỉnh, hơn 90% giá trị hàng hoá xuất khẩu và chiếm tỷ trọng lớn về số thu ngân
sách hàng năm. Theo sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bắc Ninh, riêng năm 2008
tổng giá trị sản xuất công nghiệp ước đạt 16.045,5 tỷ đồng, vượt 10,7% và
tăng 31,3% so với năm 2007; trong đó khu vực Nhà nước Trung ương vượt
34,2% kế hoạch và tăng 55,5%; Nhà nước địa phương vượt 40,1% kế hoạch
21
và tăng 72,2%; ngoài Nhà nước vượt 3,8% và tăng 14,5%; khu vực có vốn
đầu tư nước ngoài vượt 15,1% và tăng 57,6% [36, tr.2].
Vốn là một tỉnh nông nghiệp nên Bắc Ninh mới chủ yếu phát triển các
KCN tập trung, công nghiệp làng nghề, các ngành sản xuất trực tiếp vẫn là cơ
bản, còn các ngành dịch vụ công nghiệp, du lịch mặc dù đã hình thành song
phát triển còn chậm.
Chiến lược phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Bắc Ninh giai đoạn 20012010 được xác định là: “Đẩy mạnh CNH, HĐH, phát triển kinh tế xã hội với
nhịp độ cao, hiệu quả, bền vững, khai thác mọi nguồn lực và khuyến khích
mọi thành phần kinh tế trong và ngoài nước, phấn đấu đến năm 2015 Bắc
Ninh trở thành tỉnh công nghiệp”[10]. Đây không chỉ là động lực thúc đẩy sự
phát triển kinh tế - xã hội mà còn là môi trường, điều kiện thuận lợi để xây
dựng và phát triển đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh trong những năm tới.
1.1.2. Xây dựng đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước.
* Đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
đất nước.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ Sáu, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa
X, Đảng ta khẳng định: “Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã
hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc,
làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ
công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công
nghiệp”[8, tr.43].
Là một bộ phận của giai cấp công nhân Việt Nam, đội ngũ công nhân
tỉnh Bắc Ninh cũng có đầy đủ những đặc điểm, bản chất của giai cấp công
nhân Việt Nam. Đó là: ra đời muộn (cuối thế kỷ XIX, đầu XX gắn với cuộc
khai thác thuộc địa lần thứ nhất của Pháp) ở một nước thuộc địa, nửa
22
phong kiến; được kế thừa truyền thống yêu nước, tinh thần đấu tranh bất
khuất của dân tộc; sớm tiếp thu lý luận cách mạng thành lập chính Đảng
nên nhanh chóng trở thành lực lượng chính trị tự giác và thống nhất; phần
lớn xuất thân từ nông dân nên có quan hệ khăng khít với nông dân, sớm
hình thành khối liên minh công nông một cách tự nhiên và bền vững. Ngoài
ra, xuất phát từ đặc điểm, điều kiện kinh tế- xã hội, văn hoá của một tỉnh
đồng bằng Bắc bộ, đội ngũ công nhân tỉnh Bắc Ninh còn có những đặc thù
riêng:
Nguồn vào đội ngũ công nhân Bắc Ninh phần lớn là thanh niên nông
thôn chưa qua đào tạo cơ bản và không thuần nhất.
Bắc Ninh là tỉnh có diện tích tự nhiên nhỏ nhất nhưng lại là địa
phương có mật độ dân số cao thứ ba cả nước (chỉ sau Thủ đô Hà Nội và
thành phố Hồ Chí Minh). Theo số liệu thống kê, tính đến năm 2007 dân số
Bắc Ninh khoảng 1triệu người, trong đó khu vực thành thị chiếm khoảng
10% dân số toàn tỉnh, khu vực nông thôn chiếm khoảng 90% dân số toàn
tỉnh.
Với mật độ dân số đông, lại phân bố chủ yếu ở nông thôn nên không
tránh khỏi tình trạng thiếu việc làm ở khu vực nông thôn. Mặt khác, trong
những năm gần đây, đẩy mạnh CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng tăng tỷ trọng công nghiệp, dịch vụ, giảm tỷ trọng nông nghiệp
đã làm cho diện tích đất nông nghiệp của tỉnh ngày càng bị thu hẹp. Điều
này khiến cho tình trạng thiếu việc làm ở nông thôn ngày càng tăng. Nhu
cầu tìm kiếm việc làm của nông dân ngày một đông tại các KCN, nhất là
thanh niên.
Sự hình thành, phát triển các KCN trên địa bàn tỉnh đã góp phần giải
quyết việc làm cho người nông dân ở các vùng nông thôn trong và ngoài
tỉnh. Vì thế, lực lượng lao động trong các KCN hiện nay chủ yếu xuất thân
- Xem thêm -