Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế tại việt nam...

Tài liệu Xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế tại việt nam

.PDF
93
12
138

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỌ TRƢỜNG XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT HÔN NHÂN THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Hà Nội – 2021 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT TRỊNH THỌ TRƢỜNG XÂY DỰNG CHẾ ĐỊNH PHÁP LUẬT HÔN NHÂN THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Cán bộ hướng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Thị Lan Hà Nội – 2021 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các kết quả nêu trong luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo tính chính xác, có nguồn gốc rõ ràng, được trích dẫn đúng theo quy định và trung thực. Vậy tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể bảo vệ luận văn. Tôi xin chân thành cảm ơn! NGƢỜI CAM ĐOAN Trịnh Thọ Trƣờng DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT Chữ viết tắt Nội dung chữ viết tắt DLBK Dân luật Bắc kỳ DLTK Dân luật Trung kỳ DLYG Dân luật Giản Yếu Nam kỳ HĐTP Hội đồng thẩm phán HN&GĐ Hôn nhân và gia đình HVLL Hoàng Việt luật lệ QTHL Quốc triều hình luật TAND Tòa án nhân dân TANDTC Tòa án nhân dân tối cao UBND Ủy ban nhân dân Công văn số 16 Công văn số 16/1999/KHXX ngày 01/02/1999 của Tòa án nhân dân tối cáo Giải đáp một số vấn đề về hình sự, dân sự, kinh tế, lao động, hành chính và tố tụng. Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ về đăng ký và quản lý Hộ tịch Nghị định số 77/2001/NĐ-CP ngày 22/10/2001 của Chính phủ quy định chi tiết về đăng ký kết hôn theo quy định của Nghị quyết số 35/2000/QH10 Nghị quyết số 35/2000/QH ngày 09/6/2000 của Quốc hội hƣớng dẫn thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Nghị quyết số 01-NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao “hƣớng dẫn áp dụng một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình năm 1986” Thông tƣ liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 06/01/2016 của Tòa án nhân dân tối cao – Viện kiểm sát nhân dân tối cao – Bộ tƣ pháp hƣớng dẫn thi hành một số quy định của luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Nghị định 158/2005/NĐ-CP Nghị định số 77/2001/NĐ-CP Nghị quyết 35/2000/QH10 Nghị quyết số 01NQ/HĐTP Thông tƣ liên tịch số 01/2016/TTLTTANDTCVKSNDTC-BTP Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLTTANDTCVKSNDTC-BTP Thông tƣ 112-NCPL Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTCVKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 hƣớng dẫn về thi hành Nghị quyết số 35/2000/QH10 của Quốc hội về việc thi hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 Thông tƣ số 112/NCPL ngày 19/08/1972 của Tòa án nhân dân tối cao hƣớng dẫn xử lý về dân sự những việc kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài...................................................... 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài .......................................................................... 2 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu ................................................................. 4 4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu đề tài ......................................................... 4 5. Phƣơng pháp nghiên cứu............................................................................... 5 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn ..................................................... 5 7. Cơ cấu của luận văn ...................................................................................... 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HÔN NHÂN THỰC TẾ ............................................................................. 7 1.1. Khái niệm, mục đích và bản chất của hôn nhân thực tế ............................ 7 1.1.1. Khái niệm hôn nhân thực tế .................................................................... 7 1.1.2. Bản chất và mục đích của hôn nhân thực tế ......................................... 11 1.2. Một số yếu tố ảnh hƣởng tới pháp luật điều chỉnh về hôn nhân thực tế ...... 15 1.3. Hệ quả của hôn nhân thực tế .................................................................... 20 1.4. Quan điểm lập pháp về hôn nhân của một số quốc gia trên thế giới ....... 23 1.4.1. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Australia .................................... 24 1.4.2. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Anh............................................. 27 1.4.3. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Mỹ .............................................. 30 1.4.4. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Pháp........................................... 32 1.4.5. Quan điểm lập pháp về hôn nhân tại Thụy Điển .................................. 34 1.5. Thực trạng pháp luật về hôn nhân thực tế tại Việt Nam .......................... 37 1.5.1. Hôn nhân thực tế thời phong kiến ......................................................... 37 1.5.2. Hôn nhân thực tế thời Pháp thuộc ........................................................ 39 1.5.3. Hôn nhân thực tế ở miền nam Việt Nam từ 1954 đến 1975 .................. 42 1.5.4. Hôn nhân thực tế của nhà nước ta từ năm 1945 đến nay ..................... 45 CHƢƠNG 2: THỰC TRẠNG HÔN NHÂN THỰC TẾ HIỆN NAY VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HÔN NHÂN THỰC TẾ TẠI VIỆT NAM .............................................................................................. 58 2.1. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam............................................... 58 2.1.1. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam trước khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực .............................................................................................. 58 2.1.2. Thực trạng hôn nhân thực tế tại Việt Nam sau khi Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực .............................................................................................. 59 2.1.3. Xu hướng của hôn nhân thực tế ............................................................ 65 2.1.4. Một số vụ án cụ thể ............................................................................... 66 2.2. Giải pháp điều chỉnh hôn nhân thực tế tại Việt Nam............................... 71 2.2.1. Xây dựng khái niệm hôn nhân thực tế................................................... 71 2.2.2. Điều kiện thừa nhận hôn nhân thực tế .................................................. 72 2.2.3. Quy định quyền và nghĩa vụ phát sinh từ hôn nhân thực tế ................. 75 2.2.4. Giải pháp hoàn thiện pháp luật. ........................................................... 78 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ........................................................ 84 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài Nói đến vấn đề gia đình ở nƣớc ta thì xuyên suốt theo chiều dài lịch sử, đặc biệt việc kết hôn giữa nam và nữ để tạo lập gia đình đã tồn tại và hình thành trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam từ thuở đầu dựng nƣớc. Vai trò của gia đình Việt Nam thể hiện sức sống mãnh liệt theo lịch sử gắn liền với 4.000 năm dựng và giữ nƣớc. Chế độ pháp lý về việc kết hôn và công nhận quan hệ giữa nam và nữ là quan hệ vợ chồng mang tính hợp pháp cũng đã và đang thay đổi qua các thời kỳ lịch sử khác nhau từ nền văn hóa nguyên thủy, phong kiến, thuộc địa và cho đến hiện nay. Nhắc tới nƣớc ta khi mới gây dựng đƣợc biết đến là một đất nƣớc với nền văn minh lúa nƣớc, nhiều đồng bào dân tộc khác nhau từ đó hình thành nên phong tục, tập quán, thói quen đặc trƣng riêng của mỗi vùng miền. Việc kết hôn lấy vợ, lấy chồng theo tập tục ở một số đồng bào dân tộc thiểu số và một số địa phƣơng khác chỉ cần sự đồng ý của ngƣời trƣởng bản, già làng hoặc có sự đồng ý của cha mẹ hai bên thì đã có thể trở thành vợ chồng. Những phong tục, tập quán về kết hôn đã ăn sâu vào tƣ tƣởng của những ngƣời dân và chịu tác động mãnh mẽ đến đời sống hôn nhân và gia đình, làm cho việc kết hôn mang tính tập quán mà coi nhẹ pháp luật. Khi những văn bản pháp luật về hôn nhân và gia đình (HN&GĐ) của Nhà nƣớc đƣợc ban hành, việc tuân thủ pháp luật của ngƣời dân còn rất thấp. Đối với việc kết hôn, rất nhiều trƣờng hợp nam nữ biết rõ các quy định của pháp luật về kết hôn và có đủ điều kiện thuận lợi để đăng ký kết hôn nhƣng họ đã không đăng ký kết hôn với ý thức coi thƣờng. Bởi vậy khi việc chung sống giữa họ phát sinh nhƣ quan hệ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hôn qua đó làm phát sinh hàng loạt những vấn đề khác nhau liên quan đến hôn 1 nhân về việc thiết lập tài sản, con cái, nuôi dƣỡng, thừa kế, bạo lực gia đình... mà mối quan hệ này giữa nam và nữ lại không đƣợc Nhà nƣớc bảo hộ. Điều đó đòi hỏi Nhà nƣớc ta cần phải xây dựng hệ thống pháp luật điều chỉnh và hoàn thiện chế định của tình trạng hôn nhân này. Vì vậy việc nghiên cứu về vấn đề xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế là vô cùng cần thiết hiện nay. Không chỉ khiến ngƣời dân hiểu đúng khái niệm về hôn nhân thực tế, nhằm hạn chế, tháo gỡ những vấn đề bất cập còn tồn tại trong việc định hƣớng hoàn thiện pháp luật, mà còn nhằm xây dựng chế định hoàn chỉnh về hôn nhân thực tế. Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn của pháp luật hôn nhân thực tế, từ đó bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các đƣơng sự đặc biệt cho những ngƣời yếu thế hơn trong mối quan hệ này là phụ nữ và trẻ em, hơn hết là tạo ra sự ổn định trong xã hội, từ đó tác giả lựa chọn đề tài: “Xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế tại Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Xung quanh vấn đề liên quan đến hôn nhân thực tế luôn đƣợc các nhà khoa học, giảng viên, sinh viên Luật quan tâm, đặc biệt là các tổ chức, cơ quan Nhà nƣớc và các nhà làm luật. Trong khoa học pháp lý ở nƣớc ta, đã có những công trình và bài viết khác nhau liên quan đến vấn đề này nhƣ: (1) Đặng Thị Thơm (2014), Hưởng thừa kế theo quan hệ giữa con riêng và bố dượng hay quan hệ hôn nhân thực tế, Tòa án nhân dân, Tòa án nhân dân tối cao, Số 13/2014, tr. 25, 27; (2) Đỗ Văn Đại, Lê Thị Mận (2011), Về khái niệm và hệ quả pháp lý của hôn nhân thực tế, Khoa học pháp lý.Trƣờng Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh,Số 1/2011, tr. 55 – 63; 2 (3) Nguyễn Đức Kiên (2001), Hôn nhân thực tế - nên thừa nhận giá trị pháp lý từ thời điểm nào, Dân chủ và Pháp luật.Bộ Tƣ pháp, Số 1/2001, tr. 12 - 14; (4) Nguyễn Phƣơng Lan (1995), Cần hiểu hôn nhân thực tế như thế nào?, Tạp chí Luật học, Số 3/1995, tr. 31 – 33; (5) Nguyễn Văn Cừ (2000), Vấn đề hôn nhân thực tế theo Luật hôn nhân và gia đình Việt Nam, Tạp chí Luật học, Số 5/2000, tr. 8 – 13; (6) Nguyễn Xuân Diên (2002), Giải quyết tình trạng hôn nhân thực tế, Nghiên cứu lập pháp.Viện Nghiên cứu lập pháp, 2002. - Số 8, tr. 72-74; (7) Trƣờng Đại học Luật Hà Nội (2002), Giải quyết hôn nhân thực tế theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Trƣờng; Nhóm sách bình luận thƣờng không đi sâu vào vấn đề “hôn nhân thực tế” mà chỉ tập trung vào khía cạnh chính của hôn nhân và gia đình là kết hôn, ly hôn. Ngoài ra, về khía cạnh đời sống xã hội vấn đề “hôn nhân thực tế” dù đã nghiên cứu toàn diện nhƣng còn thiếu tập trung, thƣờng mỗi một bài chỉ nghiên cứu của một tổ chức, cá nhân cụ thể chỉ nghiên cứu về một nhóm đối tƣợng nhất định nhƣ: cách hiểu về hôn nhân thực tế, hệ quả pháp lý của hôn nhân thực tế, thời điểm thừa nhận hôn nhân thực tế, giải quyết tình trạng của hôn nhân thực tế,… Nhƣ vậy, có thể thấy dƣới góc độ là xã hội và pháp luật dù không nhiều nhƣng cũng đã xuất hiện các công trình nghiên cứu về “hôn nhân thực tế”. Tuy nhiên mỗi công trình nghiên cứu đã nhìn nhận và giải quyết vấn đề này ở mỗi góc độ khác nhau và cho đến nay vẫn chƣa có công trình nào nghiên cứu chuyên sâu và riêng biệt tới vấn đề xây dựng chế định pháp luật hôn nhân thực tế. Nhận diện đƣợc vấn đề này, trên cơ sở kế thừa những thành tựu nghiên cứu của các công trình công bố trƣớc đó, luận văn đề cập tới việc nghiên cứu chủ yếu về khái niệm hôn nhân thực tế, đề cập tới vấn đề bất cập 3 còn tồn tại của pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế từ đó để xây dựng hoàn thiện chế định hôn nhân thực tế tạo ra sự ổn định trong xã hội. 3. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu đề tài là những vấn đề lý luận về pháp luật hôn nhân thực tế, các quy định của pháp luật về hôn nhân thực tế, vấn đề bất cập còn tồn tại và thực trạng cũng nhƣ khả năng áp dụng quy định vào thực tiễn hiện nay. Từ đó để xây dựng chế định hôn nhân thực tế đƣợc hoàn chỉnh và áp dụng cho phù hợp hơn trong giai đoạn hiện tại. Tác giả nghiên cứu ở phạm vi trong nƣớc để từ đó lựa chọn ra những quy định phù hợp để đƣa ra áp dụng tại Việt Nam. Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là: - Các vấn đề lý luận của hôn nhân thực tế - Quy định của pháp luật về hôn nhân thực tế - Thực trạng về hôn nhân thực tế 4. Nhiệm vụ, mục đích nghiên cứu đề tài Để có thể đạt đƣợc mục đích đặt ra khi nghiên cứu đề tài, đòi hỏi luận văn phải làm những nhiệm vụ sau: - Phải xây dựng khái niệm, đặc điểm, bản chất của hôn nhân thực tế - Phân tích đƣợc pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế - Xây dựng đƣợc các giải pháp hoàn thiện pháp luật về hôn nhân thực tế Từ đó, mục đích khi nghiên cứu đề tài đƣợc làm rõ nhƣ sau: - Làm sáng tỏ đƣợc bản chất của hôn nhân thực tế - Chỉ ra những vấn đề bất cập còn tồn tại của pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế - Xây dựng đƣợc một hành lang pháp lý hoàn chỉnh về hôn nhân thực tế - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các chủ thể tham gia hôn nhân 4 thực tế. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phƣơng pháp luận nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, đƣờng lối của Đảng và pháp luật của Nhà nƣớc về vấn đề hôn nhân thực tế và việc áp dụng vấn đề này giải những vƣớng mắc còn tồn tại trong thực tiễn đang còn gặp phải chƣa giải quyết đƣợc. Ngoài ra cũng áp dụng nhiều phƣơng pháp khác nhau nhƣ: phƣơng pháp phân tích, phƣơng pháp diễn giải, phƣơng pháp đánh giá, phƣơng pháp so sánh, phƣơng pháp lịch sử, phƣơng pháp điều tra xã hội học, phƣơng pháp thống kê, phƣơng pháp quy nạp, phƣơng pháp diễn dịch... Trong quá trình nghiên cứu có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn thông qua đó đánh giá đƣợc bản chất của sự vật, hiện tƣợng trong phạm vi đề tài nghiên cứu. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Kết quả đạt đƣợc của luận văn có ý nghĩa nhƣ sau: - Xây dựng khái niệm sẽ giúp hiểu đúng về hôn nhân thực tế - Xác định các vấn đề bất cập và định hƣớng cho việc hoàn thiện pháp luật - Xây dựng chế định hoàn chỉnh về hôn nhân thực tế - Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia hôn nhân thực tế - Tạo ra sự ổn định trong xã hội. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cơ quan thi hành và áp dụng pháp luật để giải quyết những vấn đề có liên quan. 5 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài lời nói đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn gồm 2 chƣơng, cụ thể: Chƣơng 1: Một số vấn đề lý luận và thực trạng pháp luật về hôn nhân thực tế Chƣơng 2: Thực trạng hôn nhân thực tế hiện nay và giải pháp hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hôn nhân thực tế tại Việt Nam. 6 CHƢƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH VỀ HÔN NHÂN THỰC TẾ 1.1. Khái niệm, mục đích và bản chất của hôn nhân thực tế 1.1.1. Khái niệm hôn nhân thực tế Xét về nguyên tắc của việc kết hôn thì chỉ có những cuộc hôn nhân có đăng ký kết hôn mới hợp pháp và mới làm phát sinh quyền và nghĩa vụ pháp lý giữa hai bên nam nữ trong quan hệ vợ chồng [16]. Tuy nhiên, trong thực tiễn vẫn tồn tại những cuộc hôn nhân tuy không đăng ký kết hôn nhƣng vẫn đƣợc nhà nƣớc thừa nhận. Trong những trƣờng hợp này, những cuộc hôn nhân đó đƣợc coi là hôn nhân thực tế. Vậy cần hiểu thế nào về “hôn nhân thực tế”? Chúng ta cần phải tìm hiểu thuật ngữ “hôn nhân thực tế” đƣợc dùng từ khi nào để từ đó tìm câu trả lời cho câu hỏi ở trên [16]. Theo tiến trình lịch sử quay lại thời kỳ cổ luật cụ thể là thời kỳ phong kiến, nhắc tới phải đề cập bộ luật tiêu biểu cho thời kỳ này là: Quốc triều hình luật (hay còn gọi là Bộ luật Hồng Đức). Các quy định của QTHL về công nhận hôn nhân hợp pháp là khi đã thoả mãn về các điều kiện kết hôn thì chỉ cần tuân theo nghi thức kết hôn do pháp luật quy định, hai bên nam nữ sẽ đƣợc công nhận là vợ chồng. Pháp luật ở thời kỳ này chỉ không công nhận việc nam nữ “thành hôn với nhau một cách cẩu thả” (vì không đủ đồ sính lễ). Thời kỳ này chỉ đề cao ý chí của cha mẹ họ hàng hai bên mà không quan tâm đến vấn đề xác nhận việc kết hôn trƣớc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền. Từ đó cũng là cơ sở để manh nha thuật ngữ “hôn nhân thực tế” sau này. Đến thời kỳ Pháp thuộc, đất nƣớc ta bị chia thành ba kỳ gồm: Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ. Tƣơng ứng với ba bộ luật lần lƣợt là: Bộ Dân luật Bắc kỳ năm 1931 (DLBK), Bộ Dân luật Trung kỳ năm 1936 (DLTK) và Tập Dân 7 luật Giản Yếu Nam kỳ năm 1883 (DLYG). Trong đó về điều kiện để hôn nhân có giá trị pháp lý, bao gồm điều kiện nội dung và điều kiện hình thức thì ba bộ luật này đã quy định tƣơng đối đầy đủ. Ngoài những điều kiện kết hôn về mặt nội dung nhƣ tuổi kết hôn, sự đồng ý của cha mẹ…, thì mặt pháp lý cũng quy định nghi thức kết hôn bao gồm: lễ ƣớc hôn và lễ kết hôn. Khi nghiên cứu các văn bản pháp luật ở thời kỳ Pháp thuộc cho thấy các văn bản này chỉ thừa nhận hôn nhân hợp pháp khi có sự ghi nhận của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền bằng việc khi họ kết hôn đƣợc cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền xác nhận là “chứng thư kết hôn”. Pháp luật thời kỳ này về mặt nguyên tắc là không công nhận tình trạng nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không có “chứng thư kết hôn”. Tuy nhiên trong thực tế, pháp luật vẫn ghi nhận và đƣa ra cách giải quyết hậu quả pháp lý của trƣờng hợp nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không đƣợc pháp luật công nhận cụ thể là những đứa con của họ vẫn đƣợc pháp luật thừa nhận tính hợp pháp theo Điều 197 Bộ Dân Luật Pháp nếu: “được chứng minh bằng việc hai người đã thực tế chung sống với nhau như vợ chồng và tình trạng này phù hợp với giấy khai sinh”. Tại quy định của Luật HN&GĐ năm 1959 về nguyên tắc thì Luật HN&GĐ năm 1959 không thừa nhận “hôn nhân thực tế”. Nhƣng do điều kiện hoàn cảnh xã hội, ý thức pháp luật và trình độ dân trí nên trong thực tế đã xảy ra nhiều trƣờng hợp nam nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hôn. Về vấn đề này đã đƣợc Tòa án nhân dân tối cao nêu ra đƣờng lối giải quyết tại Thông tƣ 112-NCPL ngày 19/08/1972. Tại thông tƣ này TANDTC đã đƣa ra có thể nhƣ là một khái niệm của “hôn nhân thực tế” đƣợc xây dựng cụ thể là: “Chỉ nên coi là hôn nhân thực tế những cuộc hôn nhân không đăng ký, thỏa mãn các điều kiện kết hôn khác, trong đó hai bên có ý định thực sự lấy nhau đã thực tế coi nhau như vợ - chồng, chung sống công khai, gánh vác chung công việc gia đình, được họ hàng, xã hội coi 8 là vợ chồng[16]. Cụm từ “hôn nhân thực tế” đây là lần đầu tiên đƣợc Thông tƣ 112-NCPL sử dụng để chỉ những quan hệ nam nữ lấy nhau nhƣng không đăng ký kết hôn. Tại Luật HN&GĐ năm 1986 pháp luật chỉ ghi nhận giá trị pháp lý đối với việc kết hôn thì phải đăng ký kết hôn tại cơ quan Nhà nƣớc có thẩm quyền đối với mọi nghi thức kết hôn khác thì đều không có giá trị pháp lý. Nhƣng đối với những nghi thức kết hôn khác ngoài cơ quan Nhà nƣớc có thẩm thì cũng không đƣợc coi là trái luật và bất hợp pháp. Nghị quyết số 01NQ/HĐTP ngày 20/01/1988 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có hƣớng dẫn áp dụng giải quyết một số trƣờng hợp kết hôn nhƣng không đăng ký. Thuật ngữ “hôn nhân thực tế” cũng đã không đƣợc sử dụng nữa, tuy nhiên khi Tòa áp dụng quy định giải quyết vụ án hôn nhân đối với các trƣờng hợp nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hôn để công nhận hoặc không công nhận là vợ chồng trên thực tế thì lại đang thừa nhận thuật ngữ “hôn nhân thực tế”. Việc giải quyết đối với các trƣờng hợp hai bên kết hôn nhƣng không đăng ký, có vi phạm về điều kiện kết hôn nhƣng không coi là kết hôn trái luật nếu một trong hai bên ly hôn Tòa án sẽ không hủy kết hôn mà xử nhƣ việc xin ly hôn. Trên thực tế cũng không phải trƣờng hợp nào vi phạm về hình thức kết hôn đều đƣợc coi là “hôn nhân thực tế”. Chỉ đƣợc coi là “hôn nhân thực tế” với những trƣờng hợp hôn nhân không đăng ký kết hôn, đáp ứng đƣợc các điều kiện kết hôn khác mà thỏa mãn các dấu hiệu về chủ quan và khách quan nhƣ theo hƣớng dẫn tại Thông tƣ số 112-NCPL. Luật HN&GĐ năm 2000 ra đời không thừa nhận thuật ngữ “hôn nhân thực tế”. Mà đã thay vào đó tại Nghị quyết 35/2000/QH10 ngày 09/06/2000 và Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP ngày 03/01/2001 đã có sự hƣớng dẫn thay đổi hoàn toàn so với các văn bản trƣớc đó. Tại Nghị quyết 35/2000/QH10 đã không sử dụng cụm từ “hôn nhân thực 9 tế” để chỉ tình trạng nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng có đủ điều kiện kết hôn nhƣng không đăng ký kết hôn thay vào đó là cụm từ “Nam và nữ chung sống như vợ chồng”. Theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 chỉ coi “hôn nhân” khi đã kết hôn rồi và có đăng ký kết hôn. Còn đối với những quan hệ nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không đƣợc coi là hôn nhân. Nhƣng về bản chất cụm từ “nam và nữ chung sống như vợ chồng” cũng đang đƣợc nhiều ngƣời hiểu là “hôn nhân thực tế”. Theo quy định tại Nghị quyết số 35/2000/QH10 và Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP thì việc nam nữ chung sống nhƣ vợ chồng chỉ đƣợc coi là có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các yếu tố sau: - Họ có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 và thuộc một trong các trƣờng hợp sau: + Có tổ chức lễ cƣới khi về chung sống với nhau; + Việc họ về chung sống với nhau đƣợc gia đình của một bên hoặc cả hai bên chấp nhận; + Việc họ về chung sống đƣợc ngƣời khác hoặc tổ chức chứng kiến; + Họ thực sự có chung sống với nhau chăm sóc giúp đỡ và cùng nhau xây dựng gia đình. - Thời điểm chung sống với nhau xảy ra trƣớc ngày Luật HN&GĐ năm 2000 có hiệu lực cụ thể là trƣớc ngày 01/01/2001. Bao gồm hai trƣờng hợp nhƣ sau: + Quan hệ vợ chồng đƣợc xác lập trƣớc ngày 03/01/1987 mà chƣa đăng ký kết hôn thì đƣợc khuyến khích đăng ký kết hôn. + Nam và nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến trƣớc ngày 01/01/2001 có đủ điều kiện kết hôn theo quy định của Luật HN&GĐ năm 2000 thì có nghĩa vụ đăng ký kết hôn đến ngày 01/01/2003. Nếu sau ngày 01/01/2003 không đăng ký kết hôn thì pháp luật không công 10 nhận họ là vợ chồng. Những trƣờng hợp bắt đầu chung sống từ ngày 01/01/2001 mà không đăng ký kết hôn thì không đƣợc công nhận là vợ chồng. - Thời điểm xác lập quan hệ vợ chồng không phải từ ngày họ đăng ký kết hôn mà đƣợc tính từ thời điểm bắt đầu chung sống với nhau nhƣ vợ chồng. Luật HN&GĐ năm 2014 tiếp tục kế thừa quan điểm của pháp luật HN&GĐ năm 2000 không sử dụng cụm từ “hôn nhân thực tế” mà thay vào đó sử dụng cụm từ “nam, nữ chung sống với nhau như vợ chồng” để nói về tình trạng nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng có đủ điều kiện kết hôn nhƣng không đăng ký kết hôn. Vẫn tiếp tục sử dụng Thông tƣ liên tịch số 01/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP để đƣa ra hƣớng giải quyết vấn đề pháp lý phát sinh đối với việc nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng không đăng ký kết hôn và điều kiện để đƣợc công nhận tình trạng này có giá trị pháp lý nếu thỏa mãn các yếu tố nhƣ đã đề cập tại Thông tƣ này ở trên. Đến ngày 06/01/2016 Nhà nƣớc ban hành Thông tƣ liên tịch số 01/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BTP có hiệu lực ngày 01/03/2016 đƣa ra hƣớng dẫn giải quyết đối với trƣờng hợp nam, nữ chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không có đăng ký kết hôn, không phân biệt vào việc có vi phạm điều kiện kết hôn hay không nếu có yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật hoặc yêu cầu ly hôn thì đƣợc giải quyết theo Điều 14, Điều 15 và Điều 16 của Luật HN&GĐ năm 2014. Tóm lại, xuyên suốt quá trình phân tích có thể đƣa ra khái niệm của “hôn nhân thực tế” nhƣ sau: Hôn nhân thực tế là việc nam, nữ tổ chức cuộc sống chung, coi nhau là vợ chồng không vi phạm các hành vi cấm nhưng không đăng ký kết hôn. 1.1.2. Bản chất và mục đích của hôn nhân thực tế Xét về bản chất của “hôn nhân thực tế”, theo từ điển Tiếng Việt của Viện Ngôn ngữ học thì “bản chất là thực chất cơ bản bên trong sự vật”[31]. Từ đó 11 có thể hiểu rằng khi nói đến bản chất của “hôn nhân thực tế” tức là đang nói đến sự thật bên trong, nội dung chủ yếu và cơ bản nhất của quan hệ “hôn nhân thực tế”. Sự thật bên trong của “hôn nhân thực tế” do ngay tên gọi của nó thể hiện chỉ mối quan hệ giữa vợ chồng mà quan hệ này không đƣợc xác lập theo điều kiện, trình tự, thủ tục pháp lý mà luật định nhƣng mà nó đã và đang vẫn tồn tại trên thực tế. Nội dung chủ yếu và cơ bản nhất của quan hệ “hôn nhân thực tế” chính là các quyền và nghĩa vụ liên quan đến nhân thân và tài sản phát sinh giữa hai ngƣời đã và đang chung sống với nhau nhƣ vợ chồng nhƣng không đƣợc pháp luật công nhận. Qua đó để đƣợc nhà nƣớc công nhận quan hệ này thì “hôn nhân thực tế” phải làm rõ cái bản chất thực sự bên trong chính mình, thỏa mãn về chủ thể tham gia, mặt chủ quan, mặt khách quan, sự tuân thủ pháp luật và mục đích của quan hệ này. Về chủ thể là các bên nam, nữ tham gia vào quan hệ này. Trên thực tế không chỉ đơn thuần nói tới mối quan hệ giữa nam – nữ mà cần đề cập tới có các trƣờng hợp khác chung sống với nhau giữa nam – nam; nữ - nữ; ngƣời chuyển giới nhƣng chƣa tiến hành phẫu thuật chuyển đổi giới tính, mặc dù cả phƣơng diện sinh học và pháp luật đều mang một giới tính nhƣng lại chung sống với ngƣời cùng giới tính với mình. Ngoài ra đối với ngƣời chuyển giới trong trƣờng hợp họ phẫu thuật chuyển đổi giới tính nhƣng các giấy tờ pháp lý của họ vẫn là thông tin trƣớc khi họ chuyển đổi. Khi đó việc chung sống giữa họ sẽ đƣợc thực hiện với một ngƣời khác giới tính hiện có của mình. Cần phải làm rõ thêm những trƣờng hợp nhƣ vậy để mở rộng phạm vi chủ thể cần có của quan hệ này, không bị gò bó vào mối quan hệ đơn thuần theo tƣ tƣởng và quan niệm vốn có từ trƣớc tới nay là quan hệ giữa nam và nữ. Về mặt chủ quan, ý chí của các bên tham gia họ phải thực sự có ý định lấy nhau, mong muốn chung sống với nhau trong quan hệ vợ chồng, và đã coi 12 nhau là vợ chồng trong thời gian chung sống. Việc xác định về ý chí là yếu tố cực kỳ quan trọng để xác định tính chất mối quan hệ nam nữ ở trong này, họ có thực sự lấy nhau hay không và có coi nhau là vợ chồng hay không. Điều này rất quan trọng trong việc giải quyết các vụ án liên quan đến tình trạng này. Về mặt khách quan, hành vi của các bên trong quan hệ này hai bên nam, nữ thể hiện việc chung sống một cách công khai, cùng nhau gánh vác công việc của gia đình từ đó để đƣợc họ hàng và xã hội xung quanh coi là vợ chồng. Trong thực tế cho thấy hai bên nam, nữ chung sống công khai, cùng nhau gánh vác công việc chung gia đình thì mới đƣợc xã hội xung quanh coi là hai vợ chồng. Việc công nhận của mọi ngƣời xung quanh đó đã thể hiện việc thừa nhận trƣớc một sự thực khách quan là quan hệ giữa hai bên nam, nữ là quan hệ vợ chồng thực sự, họ đã tự nguyện, tự giác thực hiện trách nhiệm, những việc cần làm khi chung sống để xây dựng gia đình. Sự thừa nhận đó không tùy thuộc vào ý chí chủ quan của mọi ngƣời và họ hàng xung quanh, không phụ thuộc vào sự đồng tình, tán thành hay phản đối quan hệ đó của họ, cũng không phụ thuộc vào thái độ tình cảm giữa hai bên nam nữ mà chỉ phụ thuộc vào sự tồn tại thực tế khách quan, ai cũng phải công nhận quan hệ giữa hai bên nam, nữ là quan hệ vợ chồng. Dấu hiệu trên là cơ sở để phân biệt quan hệ “hôn nhân thực tế” với những quan hệ “nam nữ chung sống tạm bợ”. Quan hệ này xã hội không bao giờ ghi nhận là quan hệ vợ chồng, mặc dù nam, nữ chung sống công khai. Tuy sống chung với nhau một cách công khai, nhƣng họ không có ý thức xây dựng gia đình, và cũng không có ý thức gánh vác những nghĩa vụ chung [12]. Về việc tuân thủ pháp luật, giữa hai bên nam, nữ khi tham gia vào quan hệ này họ phải đảm bảo các điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật. Cụ thể họ phải thực sự tự nguyện, không vi phạm các hành vi cấm kết hôn, độ tuổi phải đủ theo quy định của pháp luật đối với nam từ 20 tuổi trở lên và nữ 13
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan