Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản th...

Tài liệu Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật hôn nhân và gia đình việt nam

.PDF
72
17
66

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG VIẾT CƢỜNG XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC HÀ NỘI - 2020 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA LUẬT DƢƠNG VIẾT CƢỜNG XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN THEO PHÁP LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM Chuyên ngành: Luật dân sự và tố tụng dân sự Mã số: 8380101.04 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thị Lan HÀ NỘI – 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của riêng tôi. Các số liệu và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực, theo đúng quy định. Những kết luận khoa học và luận văn chƣa từng đƣợc ai công bố trong bất kỳ công trình nào. Tôi xin chịu trách nhiệm về tính chính xác và trung thực của Luật văn này. TÁC GIẢ LUẬN VĂN Dƣơng Viết Cƣờng i MỤC LỤC LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................................i MỤC LỤC......................................................................................................................................ii MỞ ĐẦU ....................................................................................................................................... 1 CHƢƠNG 1. SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP ĐÓ .................................................................................................................. 7 1.1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ..................................................................... 7 1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con ............................................................................................... 7 1.1.2. Khái niệm xác định cha, mẹ, con ............................................................................ 8 1.1.3. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cơ bản ............................................................... 11 1.1.4. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ......................................... 12 1.1.5. Điều kiện áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản....................................................... 15 1.1.6. Mang thai hộ vì mục đích nhân đạo ..................................................................... 20 1.2. Nội dung pháp luật Việt Nam về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ............................................................................ 27 1.2.1. Xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp ngƣời phụ nữ độc thân, cặp vợ chồng vô sinh mang thai cho mình ................................................................................... 27 1.2.2. Xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp mang thai hộ ................................ 32 1.2.3. Thủ tục xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản ......................................................................................................................................... 34 Kết luận chƣơng 1 .................................................................................................................... 43 CHƢƠNG 2: THỰC TIỄN XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT ................................................................... 44 2.1. Thực tiễn xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản............................................................................................................................ 44 2.1.1. Nhận xét chung ............................................................................................................. 44 2.1.2. Một số vụ việc cụ thể ................................................................................................. 51 2.2. Giải pháp ............................................................................................................................. 55 ii Kết luận chƣơng 2 .................................................................................................................... 60 KẾT LUẬN ................................................................................................................................ 62 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 64 iii MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Gia đình có lịch sử từ rất sớm và đã trải qua một quá trình phát triển lâu dài. Gia đình là tế bào của xã hội, ở đó, mối quan hệ gắn bó với nhau bởi tình cảm, quan hệ hôn nhân, quan hệ huyết thống hoặc quan hệ nuôi dƣỡng. Các chủ thể gắn bó một cách thƣờng xuyên, lâu dài, thậm chí suốt cả đời ngƣời về tình cảm và nghĩa vụ. Quan hệ vợ và chồng, cha mẹ và con… là những quan hệ tình cảm yêu thƣơng, chăm sóc nhƣ một điều tất yếu nhƣng cũng đầy ý thức trách nhiệm. Tuy nhiên, thực tế cho thấy tỷ lệ vô sinh ở các cặp vợ chồng trên toàn thế giới trong đó có Việt Nam đang có xu hƣớng tăng cao vì các yếu tố chủ quan cũng nhƣ khách quan khác nhau. Điều đó ảnh hƣởng đến quyền đƣợc làm cha, làm mẹ của các cặp vợ chồng. Mặt khác, cùng với sự phát triển của kinh tế - xã hội, khoa học kỹ thuật cũng có những bƣớc nhảy vọt trong từng lĩnh vực nhất là chăm sóc sức khỏe và y tế. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một trong những thành tựu đó, phƣơng pháp này đƣợc áp dụng ở rất nhiều nơi trên thế giới và bao gồm cả Việt Nam, điều đó mang ý nghĩa vô cùng quan trọng. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là vấn đề khá phức tạp, đặc biệt là vấn đề xác định cha, mẹ, con bởi trên một khía cạnh nào đó nó đã làm thay đổi những quan niệm truyền thống về quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ và con… Quan hệ cha, mẹ và con là cơ sở xác lập thực hiện các quy định về nghĩa vụ và quyền nhân thân cũng nhƣ quyền tài sản, quyền và nghĩa vụ cấp dƣỡng, thừa kế tài sản. Đồng thời đây cũng là cơ sở để giải quyết tranh chấp phát sinh giữa các thành viên trong gia đình một cách hợp tình, hợp lý, nhanh chóng và kịp thời. Chính vì vậy cần có hành lang pháp lý rõ ràng, cụ thể để có thể giải quyết các quan hệ phát sinh trong vấn đề này. 1 2. Tình hình nghiên cứu Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản không phải vấn đề khoa học quá mới, tuy nhiên do sự hạn chế về điều kiện kinh tế - xã hội cũng nhƣ sự phát triển của khoa học kỹ thuật mà việc áp dụng các phƣơng pháp khoa học kỹ thuật tác động đến việc sinh con còn gặp nhiều khó khăn. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là trƣờng hợp đòi hỏi kỹ thuật y khoa tiên tiến, chuyên môn cao của đội ngũ bác sỹ và cơ sở vật chất đảm bảo. Năm 1998, sự ra đời của ba đứa trẻ thụ tinh trong ống nghiệm ở bệnh viện phụ sản Từ Dũ đã đặt ra những yêu cầu cấp thiết quy định điều chỉnh về việc sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đặc biệt là quy định xác đinh cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2000 đã lần đầu tiên đề cập với thuật ngữ “sinh con theo phƣơng pháp khoa học” tại Điều 63. Kể từ năm 2000 đến nay, sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đƣợc quy định tại nhiều văn bản khác nhau nhƣ Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của chính phủ về việc về sinh con theo phƣơng pháp khoa học; Thông tƣ số 07/2003/TTBYT của bộ y tế ngày 28/5/2003 hƣớng dẫn thi hành Nghị định số 12/2003/NĐ-CP ngày 12/02/2003 của chính phủ về sinh con theo phƣơng pháp khoa học; Luật Hiến, ghép mô, bộ phận cơ thể ngƣời và hiến, lấy xác năm 2006; Thời gian gần đây, Quốc hội thông qua Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, đồng thời Chính phủ ban hành Nghị định số 10/2015/NĐ-CP ngày 28/01/2015 về việc quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; Thông tƣ 57/2015/TT-BYT hƣớng dẫn Nghị định 10/2015/NĐ-CP quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo do Bộ trƣởng Bộ Y tế ban hành… 2 Về các bài viết, công trình nghiên cứu dƣới góc độ pháp lý có liên quan đến vấn đề trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bài viết của Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan đăng trên Tạp chí Luật học số 2/2003 với tựa đề “Sinh con theo phương pháp khoa học và một số vấn đề pháp lý có liên quan” là một trong những bài viết đầu tiên tại Việt Nam đề cập đến vấn đề này. Trong đó có nêu lên nhiền khía cạnh pháp lý nhƣ phân tích điều kiện cho và nhận tinh trùng, xác định quan hệ cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con theo phƣơng pháp khoa học cũng nhƣ quy định pháp luật và bất cập của chế định pháp luật này. Cho đến thời gian gần đây, Luật Hôn nhân và Gia đình 2014 đã có hiệu lực quy định chi tiết hơn so với Luật hôn nhân và Gia đình năm 2000, theo đó các công trình nghiên cứu về đã cho thấy tầm nhìn rộng hơn. Điển hình nhƣ bài viết “Thụ tinh trong ống nghiệm và những vấn đề pháp lý phát sinh” tạp chí Luật học số 02/2016 của Tiến sỹ Nguyễn Thị Lan, “Một số bất cập trong các quy định về mang thai hộ vì mục đích nhân đạo của Luật Hôn nhân và gia đình 2014” Tạp chí Nhà nƣớc và Pháp Luật số 9/2016 của Tiến sỹ Nguyễn Huy Cƣơng, bài đăng trên tạp chí Luật học số 1/2000 của bà Nguyễn Thị Liên Hƣơng với tự đề “Thẩm quyền xác định cha, mẹ cho con”, bài viết “Từ những quy định pháp luật về mang thai hộ quan niệm thế nào về “Huyết thống” và “Mẹ”” đăng trên tạp chí Dân chủ và Pháp luật số 09/2015 của ông Nguyễn Văn Lâm… Các công trình nghiên cứu này phân tích đến những thay đổi, bổ sung của quy định Pháp Luật, những quy định mang tính tích cực, những quy định còn bất cập… Tuy nhiên, lƣợng bài viết, công trình nghiên cứu liên quan đến vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn hạn chế, chƣa tƣơng xứng với các khối lƣợng lớn vấn đề pháp lý đặt ra. Các bài viết, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào vấn đề sinh con bằng phƣơng pháp mang thai hộ mà ít đề cập đến sinh 3 con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Để làm rõ và sâu hơn nội dung quy định Pháp luật về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, qua đó nhằm góp phần phát hiện những hạn chế của pháp luật cũng nhƣ những khó khăn, vƣớng mắc trong quá trình thực thi ở Việt Nam. Từ đó, đề xuất, kiến nghị một số giải pháp nhằm xây dựng hành lang pháp lý vững chắc, hoàn thiện hơn, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật ở nƣớc ta trong giai đoạn hiện nay. Đó chính là lý do tôi lựa chọn đề tài: “Xác định cha, mẹ, con trong trường hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo pháp luật hôn nhân và gia đình Việt Nam” 3. Mục đích nghiên cứu Mục đích tổng quát: Luận văn nghiên cứu phân tích và làm rõ nội dung quy định pháp luật về vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các quy định đã cụ thể, chi tiết và sát thực tiễn chƣa, thuận lợi và khó khăn nhƣ thế nào. Qua đó, đánh giá khả năng thực hiện Pháp luật của các quy định, kiến nghị giải pháp để hoàn thiện Pháp Luật. Mục đích cụ thể: Với mục đích tổng quát nhƣ vậy, mục đích cụ thể nghiên cứu đƣợc xác định những khía cạnh sau: - Nghiên cứu những vấn đề Lý luận khái quát chung về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản nhƣ khái niệm liên quan, điều kiện áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. - Phân tích đánh giá những quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Thủ tục xác nhận cha, mẹ, con và giải quyết tranh chấp trong trƣờng hợp đó. - Nghiên cứu thực trạng ở Việt Nam hiện nay để có thể đánh giá khả năng thực hiện pháp luật của các quy định pháp luật trong thực tế, phân tích 4 một số vụ việc điển hình để từ đó đƣa ra những giải pháp để tháo gỡ vƣớng mắc còn tồn tại. 3. Đối tƣợng và Phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của đề tài là những vấn đề lý luận về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản theo Pháp Luật Việt Nam, thực trạng của vấn đề, những bất cập và khó khăn khi áp dụng trên thực tiễn. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là một lĩnh vực rộng vừa liên quan đến y học vừa liên quan đến Pháp luật. Tuy nhiên, trong luận văn này chỉ nghiên cứu khía cạnh pháp lý liên quan, đặc biệt chỉ nghiên cứu đến vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Phạm vi nghiên cứu của Luật văn là đề tài nghiên cứu toàn diện về cả lý luận và thực tiễn về xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Luận văn tập trung nghiên cứu các quy định của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 và một số văn bản hƣớng dẫn liên quan đến vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Luật văn không đề cập đến xác định cha, mẹ, con có yếu tố nƣớc ngoài vì vấn đề này có thể tiếp thu từ các công trình khoa học pháp lý khác. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đảm bảo mục đích nghiên cứu cũng nhƣ hiệu quả trong đề tài nghiên cứu, Luận văn đã sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản. Cụ thể, phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sử dụng phƣơng pháp phân tích, so sánh, liệt kê, tổng hợp, thống kê kết hợp lý luận và thực tiễn dựa trên nền tảng là phƣơng pháp luận, nghiên cứu khoa học duy vật biện chứng và duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mac – Lênin để làm rõ đối tƣợng nghiên cứu đã đặt ra. 5 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần làm sáng tỏ phƣơng diện lý luận trong khoa học pháp lý của vấn đề xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Phân tích quy định Pháp luật và thực trạng Pháp luật đối với vấn đề này, đƣa ra kiến nghị nhằm giải quyết những bất cập tồn tại và quy chế xác định cha, mẹ, con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Ngoài ra, những giải pháp hoàn thiện Pháp luật là cơ sở quan trọng để các cơ quan chức năng trong phạm vi, thẩm quyền của mình sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện Pháp luật trong lĩnh vực tƣơng ứng. Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo hữu ích không chỉ với đội ngũ giảng viên, sinh viên mà còn có giá trị đối với các cán bộ đang làm công tác hoạch định chính sách và xây dựng Pháp luật về xác địh cha, mẹ, con ở Việt Nam. 6. Kết cấu của Luận văn Ngoài Mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu thành hai chƣơng: Chƣơng 1: Pháp luật Việt Nam về sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và xác định cha, mẹ con trong trƣờng hợp đó. Chƣơng 2: Thực tiễn xác định cha, mẹ con trong trƣờng hợp sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản và một số giải pháp hoàn thiện pháp luật. 6 CHƢƠNG 1. SINH CON BẰNG KỸ THUẬT HỖ TRỢ SINH SẢN VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ XÁC ĐỊNH CHA, MẸ, CON TRONG TRƢỜNG HỢP ĐÓ 1.1. Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản 1.1.1. Khái niệm cha, mẹ, con Cha, mẹ, con những khái niệm có sự liên kết mật thiết với nhau bởi nó đƣợc hình thành trên cơ sở mối quan hệ cha, mẹ, con. Đó là sự tổng hòa về cả sinh học, gia đình lẫn mặt pháp lý. Khi tồn tại khái niệm cha, mẹ, con đồng nghĩa với sự cam kết chịu trách nhiệm về tất cả ý nghĩa xã hội và pháp lý kéo theo. Khái niệm cha, mẹ, con đƣợc nghiên cứu dƣới hai góc độ: góc độ sinh học – xã hội và góc độ pháp lý. Dƣới góc độ sinh học – xã hội, cha, mẹ, con đƣợc định nghĩa nhƣ sau: cha, mẹ đẻ trong quan hệ với con là ngƣời trực tiếp sinh ra con, có thể có hoặc không có quan hệ huyết thống với ngƣời con; Con đẻ, trong quan hệ với cha mẹ, là ngƣời đƣợc cha mẹ trực tiếp sinh ra, có thể có hoặc không có quan hệ huyết thống với cha, mẹ. [21, tr.9] Nhƣ vậy, đó là những khái niệm luôn cùng tồn tại, có liên hệ không thể tách rời. Khái niệm cha đẻ, mẹ đẻ và con đẻ luôn gắn liền với quá trình sinh đẻ, từ việc thụ thai, mang thai và sinh con. Trƣớc đây, khi khoa học công nghệ trong lĩnh vực y tế chƣa phát triển, luôn tồn tại quan điểm cho rằng khái niệm cha, mẹ, con phải đảm bảo nguyên tắc quan hệ huyết thống trực hệ với ngƣời con và cha, mẹ đẻ phải là ngƣời trực tiếp sinh ra con đẻ trong mọi trƣờng hợp. Theo thời gian, lĩnh vực y tế ngày càng phát triển, việc tách và nhận trứng, tinh trùng và noãn kết hợp với kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đã tạo ra nhiều thay đổi trong việc sinh con và tƣ duy về mặt pháp lý. 7 Dƣới góc độ pháp lý, tƣ cách là cha, là mẹ, là con chỉ đƣợc chính thức thừa nhận thông quan những thủ tục pháp lý nhất đinh. Vậy, cha đẻ, mẹ đẻ trong mối quan hệ với con là ngƣời trực tiếp sinh ra, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. Con đẻ, trong mối quan hệ với cha, mẹ là ngƣời đƣợc cha mẹ sinh ra, có quyền và nghĩa vụ theo quy định của pháp luật. [21, tr.9] Với khái niệm con đƣợc nghiên cứu với tƣ cách là con trong giá thú, con ngoài giá thú, con chung, con riêng. Theo đó, con trong giá thú là con của những ngƣời là vợ chồng hợp pháp tức là con đƣợc sinh ra trong thời kỳ hôn nhân hoặc ngƣời mẹ có thai trong thời kỳ hôn nhân thì chồng của mẹ đứa trẻ là cha của đứa trẻ. Ngoài ra, khi cha, mẹ của đứa trẻ không thực hiện thủ tục đăng ký kết hôn nhƣng đã đƣợc Tòa án công nhận hoặc gián tiếp công nhận bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật thì đứa trẻ đó vẫn đƣợc coi là con trong giá thú. Con ngoài giá thú là con mà cha và mẹ nó không phải là vợ chồng hợp pháp theo quy định của Pháp luật. Khái niệm con chung và con riêng: “Con chung” của vợ chồng là con mà vợ, chồng đƣợc xác định là cha, mẹ của ngƣời con đó. “Con riêng” là con của một bên vợ, chồng trong mối quan hệ với ngƣời chồng hoặc ngƣời vợ của họ [21, tr. 20]. Con chung và con riêng có thể là con trong giá thú hoặc ngoài giá thú. Con riêng có thể là con đẻ hoặc là con nuôi. 1.1.2. Khái niệm xác định cha, mẹ, con Theo từ điển Luật học xác định cha, mẹ cho con đƣợc hiểu là: “Định rõ một ngƣời là cha hoặc một ngƣời là mẹ cho con trên cơ sở các quy định của pháp luật”. Một số tài liệu khác cho rằng xác định con cho cha, mẹ là “Định rõ một ngƣời là con của cha hoặc của mẹ trên cơ sở các quy định của pháp luật”. Ở cả hai định nghĩa này, việc xác định cha, mẹ cho con hay xác định 8 con cho cha, mẹ đều dẫn đến một kết quả về mặt xã hội và pháp lý khi làm phát sinh những hậu quả pháp lý về quyền và nghĩa vụ theo Pháp Luật nhƣ nhau. Tuy vậy, mối quan hệ giữa cha, mẹ và con là mối quan hệ hai chiều và không thể tách rời, xác định cha, mẹ cho con cũng chính là xác định con cho cha, mẹ. Sau khi xác định đƣợc ai là cha, mẹ hoặc ai là con cũng sẽ phát sinh những quyền và nghĩa vụ theo pháp luật nhƣ nhau. Suy cho cùng xác định cha, mẹ, con là việc xác nhận mối quan hệ huyết thống giữa cha, mẹ, con. Quan hệ huyết thống không chỉ là cơ sở để xác định cha, mẹ, con mà còn là cơ sở xác định nguồn gốc, dòng họ, gia phả với những giá trị văn hóa tinh thần, đạo đức và truyền thống. Theo từ điển Tiếng Việt “xác định là qua nghiên cứu, tìm tòi, biết đƣợc rõ ràng, chính xác”, vậy xác định cha, mẹ cho con là việc nghiên cứu, tìm tòi để tìm ra nguồn gốc của một con ngƣời một cách rõ ràng và chính xác. Nhƣ vậy dƣới góc độ sinh học – xã hội: Xác định cha, mẹ, con là việc nghiên cứu, tìm kiếm nhận diện mối quan hệ huyết thống giữa hai thế hệ kế tiếp nhau thông qua sự kiện sinh đẻ. [21, tr.20] Theo từ điển Luật học, dƣới góc độ sinh học – xã hội, có cái nhìn tƣơng đối thuần túy với khái niệm xác định cha, mẹ cho con. Tuy nhiên, dƣới góc độ pháp lý có nhiều cách nhìn nhận khác nhau liên quan đến khái niệm xác định cha, mẹ cho con. Với khía cạnh là một chế định pháp lý, xác định cha, mẹ, con là tổng hợp các quy phạm pháp luật do Nhà nƣớc ban hành, quy định về quyền và nghĩa vụ của các chủ thể, căn cứ và thủ tục pháp lý nhằm nhận diện một ngƣời cha, một ngƣời mẹ, một ngƣời con có mối quan hệ huyết thống trực hệ [21, tr. 39]. Các quy phạm pháp luật điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con luôn quy 9 định quyền và nghĩa vụ tƣơng ứng giữa các chủ thể, đảm bảo quyền xác định cha, mẹ, con cho mỗi chủ thể, cũng nhƣ quy định nghĩa vụ của các chủ thể phải tôn trọng quyền xác định cha, mẹ, con của ngƣời khác; các quy phạm điều chỉnh việc xác định cha, mẹ, con thƣờng gắn bó mật thiết với quy phạm đạo đức, phong tục tập quán. Khi thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình trong việc xác định cha, mẹ con các chủ thể luôn phải hƣớng tới vì lợi ích chung của gia đình, đảm bảo việc xác định cha, mẹ, con theo đúng nghĩa của nó. Với khía cạnh là một quan hệ pháp luật: Xác định cha, mẹ, con là các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình tìm kiếm, nhận diện tƣ cách cha, mẹ, con về mặt huyết thống của các chủ thể đƣợc các quy phạm pháp luật điều chỉnh [21, tr.26]. Căn cứ vào tính chất của quan hệ pháp luật, việc xác định cha, mẹ, con căn cứ vào ý chí của các chủ thể bao gồm quan hệ tự nguyện nhận cha, mẹ, con đƣợc tiến hành tại cơ quan hành chính nhà nƣớc và quan hệ tranh chấp xác định cha, mẹ, con đƣợc tiến hành tại cơ quan tƣ pháp; căn cứ vào hôn nhân của cha, mẹ, khi cha mẹ có hôn nhân hợp pháp và khi cha mẹ không có hôn nhân hợp pháp. Ở mỗi cách phân loại, mối quan hệ về xác định cha, mẹ, con đều có những điểm tƣơng đồng và khác biệt nhất định. Mỗi chủ thể, tùy theo tƣ cách của mình trong mối quan hệ, có quyền và nghĩa vụ nhất định để nhận diện đúng tƣ cách cha, mẹ, con. Với khía cạnh là một sự kiện pháp lý: Xác định cha, mẹ, con là sự kiện pháp lý làm phát sinh quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ và con về mặt huyết thống. Sự kiện sinh đẻ là hành vi sinh con của ngƣời phụ nữ và hành vi này phụ thuộc rất nhiều vào cơ chế phát triển tự nhiên của bào thai, nhiều khi nằm ngoài sự kiểm soát của ngƣời mẹ. Vì vậy, sự kiện sinh đẻ là sự biến pháp lý tƣơng đối. Tuy nhiên, sự kiện sinh đẻ chỉ là một trong 10 những căn cứ để xác định tƣ cách cha, mẹ, con. Sự kiện sinh đẻ phải đi liền với một loạt các hành vi pháp lý khác mới đủ cơ sở để xác định quan hệ pháp luật giữa cha, mẹ, con nhƣ hành vi đăng ký khai sinh, một quyết định hay một bản án có hiệu lực của cơ quan nhà nƣớc có thẩm quyền công nhận hoặc xác định tƣ cách cha, mẹ, con. Tóm lại xác định cha, mẹ, con là khái niệm mang tình khái quát cao, thể hiện mối liên hệ chặt chẽ giữa cha và con, mẹ và con trên cơ sở huyết thống và sự kiện sinh đẻ. Đây cũng là cơ sở quan trọng để các chủ thể thực hiện quyền và nghĩa vụ theo quy định của Pháp Luật về kết hôn, ly hôn, nuôi con, thừa kế, giải quyết vụ việc có liên quan đến tố tụng Dân sự. 1.1.3. Một số kỹ thuật hỗ trợ sinh sản cơ bản 1.1.3.1. Thụ tinh nhân tạo (IUI) Thụ tinh nhân tạo (có thuật ngữ trong tiếng Anh là Intrauterine Insemination - IUI) là thủ thuật bơm tinh trùng của chồng hoặc tinh trùng của ngƣời cho tinh trùng vào tử cung của ngƣời phụ nữ có nhu cầu sinh con để tạo phôi. Tham khảo ý kiến của các chuyên gia, thụ tinh nhân tạo hay còn gọi là bơm tinh trùng vào buồng tử cung là một trong những biện pháp hỗ trợ sinh sản hiệu quả cao hiện nay và trở thành lựa chọn của rất nhiều cặp vợ chồng vô sinh hiếm muộn. [13] Kỹ thuật thụ tinh nhân tạo là phƣơng pháp kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đƣa số lƣợng tinh trùng đã lọc rửa, chọn lọc vào tử cung, theo nguyên tắc làm tăng số lƣợng tinh trùng tiếp cận đoạn xa vòi trứng, nơi mà tinh trùng gặp noãn và diễn ra quá trình thụ thai thành phôi. Đây là kỹ thuật tƣơng đối đơn giản, chi phí không cao, có thể áp dụng rộng rãi. Kỹ thuật hỗ trợ sinh sản này nhằm hỗ trợ cho những cặp vợ chồng hiếm muộn có thể có con, giúp tăng khả năng đậu thai cho những cặp vợ chồng bị hiếm muộn do tinh trùng yếu, ít; cổ tử 11 cung yếu; lạc nội mạc tử cung nhẹ… hoặc vô sinh hiếm muộn không rõ nguyên nhân. 1.1.3.2. Thụ tinh trong ống nghiệm (IVF) Thụ tinh trong ống nghiệm (có thuật ngữ trong tiếng Anh là In Vitro fertilization – IVF). Theo Khoản 1, Điều 2, Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo “Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi”. Kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm là kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đƣa tinh trùng sau khi lọc rửa, chọn lọc đem kết hợp với noãn ở bên ngoài cơ thể trong dụng cụ y tế riêng biệt thay vì đƣa tinh trùng vào vòi trứng của ngƣời phụ nữ. Hay nói cách khác, phƣơng pháp thụ tinh trong ống nghiệm là phƣơng pháp mà trứng và tinh trùng đƣợc thụ tinh bên ngoài cổ tử cung của ngƣời phụ nữ. Sau đó phôi hình thành và đƣợc chuyển trở lại buồng tử cung. Quá trình phát triển phôi và thai hoàn toàn diễn ra bình thƣờng trong tử cung ngƣời mang thai. Đây là kỹ thuật điều trị vô sinh – hiếm muộn trong các trƣờng hợp: Tắc nghẽn ống dẫn trứng; lạc nội mạc tử cung; tinh trùng ít, yếu, dị dạng; xin trứng… đây cũng là biện pháp đƣợc nhiều cặp vợ chồng vô sinh, phụ nữ độc thân tìm đến và mang lại hiệu quả tƣơng đối cao. 1.1.4. Khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản Để đƣa ra khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, cần hiểu rõ các khái niệm liên quan đƣợc tại Điều 2 Nghị định 10/2015/NĐ-CP Quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo: - Thụ tinh trong ống nghiệm là sự kết hợp giữa noãn và tinh trùng trong ống nghiệm để tạo thành phôi; 12 - Vô sinh là tình trạng vợ chồng sau một năm chung sống có quan hệ tình dục trung bình 2 - 3 lần/tuần, không sử dụng biện pháp tránh thai mà ngƣời vợ vẫn không có thai; - Noãn là giao tử của nữ; - Tinh trùng là giao tử của nam; - Phôi là sản phẩm của quá trình kết hợp giữa noãn và tinh trùng; - Phụ nữ độc thân là phụ nữ không có quan hệ hôn nhân hợp pháp theo quy định của pháp luật; - Ngƣời thân thích cùng hàng của bên vợ hoặc bên chồng nhờ mang thai hộ bao gồm: Anh, chị, em cùng cha mẹ, cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha; anh, chị, em con chú, con bác, con cô, con cậu, con dì của họ; anh rể, em rể, chị dâu, em dâu của ngƣời cùng cha mẹ hoặc cùng cha khác mẹ, cùng mẹ khác cha với họ. Dƣới góc độ y học, có nhiều định nghĩa kỹ thuật hỗ trợ sinh sản. Các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là những kỹ thuật kết hợp giữa y học và sinh học, can thiệp vào các bƣớc trong sinh lý sinh sản tự nhiên nhằm giúp làm tăng khả năng sinh sản. [16] Hoặc các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là các phƣơng pháp giúp đỡ và điều trị cho các cặp vợ chồng hiếm muộn, vô sinh bằng các thủ thuật y học với sự can thiệp của cơ sở y tế có thẩm quyền. Theo định nghĩa từ Đạo luật về Chứng chỉ và Mức thành công của các phòng Y tế Hỗ trợ sinh sản (Hoa Kỳ), từ kỹ thuật hỗ trợ sinh sản (tiếng Anh: Assisted Reproductive Technology A.R.T) bao gồm tất cả các phƣơng pháp chữa trị chứng vô sinh trong đó có cả trứng lẫn tinh trùng đều đƣợc sử dụng. [21, tr. 20] 13 Tuy nhiên, các định nghĩa nêu trên bộc lộ nhiều tồn tại thiếu sót vì các kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn đƣợc sử dụng để giúp những ngƣời phụ nữ sống độc thân, mong muốn có con mà không thuộc trƣờng hợp hiếm muộn hay vô sinh. Nói tóm lại, có thể hiểu sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con thông qua biện pháp áp dụng những kỹ thuật y sinh học bởi các cơ quan y tế có thẩm quyền để giúp các cặp vợ chồng hiếm muộn – vô sinh hoặc những ngƣời phụ nữ sống độc thân thực hiện đƣợc mong muốn có con của mình. Dƣới góc độ pháp lý, khái niệm sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản đƣợc quy định tại Khoản 21 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014: “Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh nhân tạo hoặc thụ tinh trong ống nghiệm”. Việc sử dụng phƣơng pháp liệt kê để định nghĩa một khái niệm không làm rõ đƣợc thế nào là “sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản” cũng chƣa nêu ra những đặc điểm, đặc trƣng cụ thể của khái niệm này, dẫn tới nhiều thiếu sót và không nhìn nhận đƣợc bản chất của vấn đề. Dựa vào những đặc trƣng của sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản dƣới góc độ pháp lý, ta có thể đƣợc định nghĩa nhƣ sau: Sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản là việc sinh con có sự can thiệp của các kỹ thuật y sinh học công nghệ cao trong trƣờng hợp quá trình mang thai tự nhiên của con ngƣời bị hạn chế bởi những nguyên nhân khác nhau, đƣợc tiến hành trên cơ sở quy định của Pháp luật nhằm đảm bảo việc thực hiện các quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Liên quan đến sinh con bằng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản còn có khái niệm mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đƣợc quy định tại khoản 22 Điều 3 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014 theo đó “Mang thai hộ vì mục đích nhân 14 đạo là việc một người phụ nữ tự nguyện, không vì mục đích thương mại giúp mang thai cho cặp vợ chồng mà người vợ không thể mang thai và sinh con ngay cả khi áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản, bằng việc lấy noãn của người vợ và tinh trùng của người chồng để thụ tinh trong ống nghiệm, sau đó cấy vào tử cung của người phụ nữ tự nguyện mang thai để người này mang thai và sinh con.” 1.1.5. Điều kiện áp dụng kỹ thuật hỗ trợ sinh sản 1.1.5.1. Điều kiện về việc cho tinh trùng và cho noãn Liên quan đến các trƣờng hợp cặp vợ chồng không thể tạo thành phôi do bệnh tật hoặc khuyết tật về mặt sinh học hoặc trƣờng hợp ngƣời phụ nữ độc thân muốn sinh con, việc thụ tinh nhân tạo và thụ tinh trong ống nghiệm có thể sử dụng tinh trùng, noãn của ngƣời cho tinh trùng, cho noãn. Việc cho tinh trùng và cho noãn cũng đặt ra các điều kiện nhất định. Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo đặt ra các điều kiện về việc cho tinh trùng, cho noãn. Ngƣời cho tinh trùng, cho noãn đƣợc khám và làm các xét nghiệm để xác định: Không bị bệnh di truyền ảnh hƣởng đến thế hệ sau; không bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ đƣợc hành vi của mình; không bị nhiễm HIV. Quy định này đảm bảo cho con đƣợc sinh ra khỏe mạnh, và các ảnh hƣởng khác liên quan đến mặt di truyền. Việc cho tinh trùng, cho noãn là sự tự nguyện, điều này đƣợc quy định tại Điều 3 Nghị định 10/2015/NĐ-CP của Chính Phủ quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo, theo đó ngƣời cho tinh trùng, cho noãn là chủ thể tiến hành theo nguyện vọng cá nhân theo nguyên tắc tự quyết định không bị áp đặt, 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan