Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng việt nam g...

Tài liệu Việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng việt nam g

.PDF
23
76
140

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TPHCM ĐỀ TÀI THUYẾT TRÌNH: VIỆC THAM GIA VỐN NƯỚC NGOÀI TẠI CÁC NGÂN HÀNG VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: TS. Trương Quang Thông Nhóm sinh viên thực hiện: STT 1 2 3 4 5 6 Họ và tên Phó Trúc Phương Trần Thị Kim Phương Đỗ Quang Sinh Lê Minh Tâm Lưu Bảo Trâm Vương Mỹ Trinh Nhóm Lớp 5 Cao học đêm 3 – TCDN k22 Tp.HCM, 08/2013 MỤC LỤC 1. Sơ lược về hệ thống ngân hàng Việt Nam .....................................................................................3 1.1. Tình hình hoạt động trước khi gia nhập WTO ........................................................................3 1.2. Nguyên nhân thu hút vốn nước ngoài......................................................................................4 1.3. Lợi ích đạt được từ việc thu hút vốn nước ngoài .....................................................................5 2. Những xu hướng điều chỉnh thể chế...........................................................................................6 3. Khái niệm đối tác chiến lược.....................................................................................................10 4. Động cơ của việc tham gia.........................................................................................................13 5. Quá trình tham gia vốn của các đối tác nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam..............17 5.1 Trước khi gia nhập WTO........................................................................................................17 5.2 Sau WTO – 2010.....................................................................................................................17 5.3 Sau 2010 – nay.........................................................................................................................18 6. Nguyên nhân của những vụ thoái vốn......................................................................................18 6.1 Nguyên nhân khách quan:......................................................................................................18 6.2 Nguyên nhân chủ quan ............................................................................................................19 7. Kết luận.......................................................................................................................................21 2 Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới - WTO vào năm 2007 đã mở ra nhiều cơ hội kinh doanh, hợp tác làm ăn mới cho mọi lĩnh vực, mọi doanh nghiệp trong đó không thể không nói tới lĩnh vực ngân hàng. Với sự cho phép chính thức của chính phủ bằng nghị định số 69 ban hành ngày 20/04/2007 quy định cụ thể về tỷ lệ sở hữu tối đa của một nhà đầu tư, của đối tác chiến lược và tổng tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại một tổ chức tín dụng Việt Nam, việc tham gia vốn nước ngoài tại các ngân hàng Việt Nam ngày càng phát triển mạnh mẽ. Để thấy được lợi ích mang lại từ các nhà đầu tư nước ngoài đối với ngân hàng Việt Nam, chúng ta sẽ xem xét tình hình hoạt động của ngân hàng Việt Nam trước và sau khi gia nhập WTO. 1. Sơ lược về hệ thống ngân hàng Việt Nam 1.1. Tình hình hoạt động trước khi gia nhập WTO Kể từ khi thực hiện đổi mới kinh tế vào năm 1986, ngành ngân hàng Việt Nam đã có những bước chuyển mình quan trọng, đánh dấu bằng việc chuyển từ hệ thống ngân hàng đơn cấp sang cơ chế ngân hàng hai cấp với sự phân tách riêng rẽ trong hoạt động của các ngân hàng thương mại với ngân hàng nhà nước. Hoạt động của các ngân hàng trong nước vẫn chiếm ưu thế về thị phần tiền gửi và cho vay. Các ngân hàng quốc doanh chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước trong khi các ngân hàng thương mại cổ phần mới thành lập tập trung vào các khách hàng doanh nghiệpnhỏ và vừa, cá nhân. Tuy nhiên, xét về tổng thể, hoạt động của các ngân hàng Việt Nam khi đó được đánh giá là yếu trên các mặt sau:  Về năng lực tài chính: Các ngân hàng trong nước có năng lực tài chính khiêm tốn, quy mô vốn hạn chế. Mặc dù vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại trong nước đã tăng trưởng gấp nhiều lần, s ong mức vốn điều lệ trung bình của cả ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần vẫn còn khiêm tốn so với quy mô vốn của các ngân hàng nước ngoài. Tỷ lệ an toàn vốn CAR của các ngân hàng trong nước đạt thấp, trung bình ở mức 5% trong khi tỷ lệ này tại các ngân hàng nước ngoài là khoảng 9%. Tỷ lệ an toàn vốn thấp dẫn đến khả năng chống đỡ với các rủi ro hệ thống yếu, nguồn vốn hạn chế khiến các ngân hàng gặp nhiều khó khăn trong việc cập nhật, ứng dụng các công nghệ mới và việc phát triển các sản phẩm đa dạng cho 3 khách hàng. Tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng trong nước cũng ở mức cao, tiềm ẩn nhiều rủi ro đối với nền kinh tế.  Về hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán: Do hạn chế về quy mô vốn, các ngân hàng trong nước cũng gặp khó khăn trong việc ứng dụng công nghệ vào hoạt động. Hạ tầng công nghệ và hệ thống thanh toán chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển và nhu cầu của khách hàng.  Về quản trị hoạt động ngân hàng: hệ thống quản trị của ngân hàng trong nước trên tất cả các mặt như quản trị nguồn nhân lực, quản trị rủi ro đều chưa phù hợp với thông lệ quốc tế. Các ngân hàng trong nước chưa có các công cụ hiện đại để quản trị rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, quản lý thanh khoản, hệ thống kiểm tra kiểm soát nội bộ trong ngân hàng lạc hậu, chưa có tính dự báo sớm với các rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động. Công tác quản lý nhân sự còn nhiều hạn chế, chất lượng lao động tại các ngân hàng trong nước chưa cao, chưa nhanh nhạy với nhu cầu của thị trường. 1.2. Nguyên nhân thu hút vốn nước ngoài Khi Việt Nam gia nhập WTO, bức tranh về tài chính, ngân hàng trong nước sẽ có sự thay đổi đáng kể. Các tổ chức tài chính nước ngoài có thể nắm giữ cổ phần của các ngân hàng trong nước, sẽ xuất hiện các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài, khi đó thị phần tín dụng của các ngân hàng Việt Nam sẽ bị phân hoá và chia sẻ vì ngân hàng nước ngoài có uy tín, trình độ quản lý tốt, có lợi thế về vốn và công nghệ, cách thức tiếp thị rất bài bản. Do vậy, sức ép về cạnh tranh của các ngân hàng trong nước sẽ rất lớn.Các ngân hàng yếu kém, quy mô nhỏ sẽ phải sáp nhập, hợp nhất tích tụ, tăng vốn điều lệ để cạnh tranh.Trước những thách thức khi Việt Nam gia nhập WTO, đã đến lúc các ngân hàng trong nước cần tăng tốc thực hiện kế hoạch nâng cao năng lực cạnh tranh thông qua việc đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, củng cố tăng cường năng lực tài chính, năng lực quản trị điều hành, đặc biệt là việc tăng vốn điều lệ. Theo các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng, để đảm bảo sức cạnh tranh của các tổ chức tài chính tín dụng thì hệ thống ngân hàng trong nước cần đề ra lộ trình huy động và tăng vốn điều lệ một cách cụ thể. Theo tính toán của các nhà hoạch định chính sách, 4 đến năm 2015 các ngân hàng thương mại nhà nước cần có số vốn chủ sở hữu đạt trên 1tỷ USD; có khoảng 10 ngân hàng cổ phần đạt số vốn trên 100 triệu USD; các ngân hàng thương mại cổ phần còn lại cần đạt số vốn tối thiểu là trên 50 triệu USD; hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần nông thôn cần đạt số vốn điều lệ trên 10 triệu USD. Với lộ trình như vậy đòi hỏi các ngân hàng nhỏ, khả năng tăng vốn chậm hoặc không có khả năng tăng vốn cần có chiến lược cụ thể để sáp nhập hoặc hợp nhất với các ngân hàng lớn. Theo cam kết gia nhập WTO thì lĩnh vực ngân hàng là lĩnh vực mở cửa hoàn toàn vào năm 2010. Có hai quan điểm đặt ra, một là lựa chọn hợp tác, hai là hạn chế hợp tác để cạnh tranh.Hệ thống ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều điểm yếu như nói trên và đa số các ý kiến cho rằng: hội nhập, cạnh tranh là tất yếu của quá trình phát triển, vì vậy, các ngân hàng nên lựa chọn giải pháp hợp tác để cùng phát triển. Như thế, các ngân hàng sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm quản lý, quản trị ngân hàng, tận dụng công nghệ hiện đại và nhất là thu hút được vốn đầu tư và nâng cao khả năng cạnh tranh với đối thủ chính là các ngân hàng 100% vốn đầu tư nước ngoài. 1.3. Lợi ích đạt được từ việc thu hút vốn nước ngoài Sau một quá trình thu hút vốn nước ngoài, các ngân hàng thương mại Việt Nam đã đạt được một số ưu điểm nhất định. Cụ thể như sau: Thứ nhất, tạo cơ hội cho các ngân hàng thương mại trong nước tiếp cận vốn quốc tế dễ dàng hơn. Thứ hai, tiếp thụ kiến thức, kinh nghiệm và công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng khi các ngân hàng trong nước lựa chọn các ngân hàng nước ngoài danh tiếng làm đối tác chiến lược vì một trong các cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO của Việt Nam là cho phép các ngân hàng nước ngoài được đầu tư mua cổ phần của các ngân hàng trong nước. Do vậy năng lực tài chính trong những năm qua của các ngân hàng thương mại được nâng lên: Cơ cấu và giá trị vốn điều lệ của hệ thống ngân hàng thương mại đã tăng lên đáng kể. Hầu hết các ngân hàng đều đạt được mức vốn pháp định là 3000 tỷ theo quy định của Ngân hàng nhà nước. Trong đó, một số ngân hàng còn có số vốn điều lệ khá cao như: 5 VietinBank, Agribank, Vietcombank, BIDV, Techcombank,… Giá trị tổng tài s ản của các ngân hàng thương mại cũng tăng mạnh, trong giai đoạn từ năm 2007- 2010, quy mô tài sản của các ngân hàng thương mại đã tăng gấp đôi, từ 1.069 nghìn tỷ lên 2.690 nghìn tỷ đồng và đạt khoảng 3600 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2012. Thứ ba, về hiệu quả hoạt động: khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại, thể hiện qua chỉ tiêu ROA, ROE đều được cải thiện, đa phần ROE trên 10% và ROA trên 1%. Tính đến tháng 3/2013, đã có 11 ngân hàng thực hiện chào bán thành công cổ phần cho đối tác nước ngoài đều là các ngân hàng lớn trong khu vực và trên thế giới. Việc tăng vốn điều lệ góp phần củng cố năng lực tài chính, đầu tư đổi mới công nghệ, nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại trong nước. Ngoài ra, các ngân hàng thương mại trong nước đã có cơ hội học tập và nâng cao trình độ quản trị và cung cấp dịch vụ, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới mà các ngân hàng trong nước chưa có hoặc có ít kinh nghiệm như: kinh doanh ngoại hối, thanh toán quốc tế, tín dụng thương mại quốc tế, dịch vụ ngân hàng điện tử, môi giới tiền tệ, quản lý rủi ro,... 2. Những xu hướng điều chỉnh thể chế Đẩy mạnh phát triển kinh tế không thể không nhắc đến vai trò của hệ thống ngân hàng vì đây là tổ chức trung gian điều phối luồng vốn trong nền kinh tế, giúp các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn nhàn rỗi, tạo điều kiện củng cố, mở rộng, gia tăng quy mô sản xuất, đây là đòn bẩy thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Do đó, sự hoạt động ổn định, chuyên nghiệp, an toàn của hệ thống ngân hàng phải được đảm bảo, đặc biệt trong tình hình hiện nay khi mà tính cạnh tranh ngày càng cao, rủi ro hoạt động ngày càng lớn, nhiều ngân hàng Việt Nam đã bộc lộ những yếu kém dẫn đến việc sáp nhập hoặc hợp nhất các ngân hàng này là không thể tránh khỏi. Nhìn nhận được những vấn đề trên,nhà nước đang cố gắng xây dựng một môi trường kinh doanh minh bạch, công bằng, các chính sách, thủ tục hành chính thuận tiện hơn, bên cạnh đó tiếp tục thực hiện rà soát và hệ thống hóa hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngành ngân hàng nhằm đánh giá sự phù hợp, tương thích của các văn bản quy phạm pháp 6 luật ngành ngân hàng với toàn bộ hệ thống văn bản quy phạm pháp luật Việt Nam, tình hình kinh tế - xã hội và định hướng phát triển dài hạn của đất nước. Nhiều ý kiến cho rằng,Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính cần tiến hành tái cơ cấu ngân hàng theo lộ trình, để tránh việc các ngân hàng thương mại trong nước rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán; nên cho phép phát hành cổ phiếu không có quyền biểu quyết dành riêng cho doanh nghiệp nước ngoài. Việc phát hành cổ phiếu này sẽ giúp doanh nghiệp nội địa có thêm nguồn vốn kinh doanh trong khi doanh nghiệp nước ngoài có thể đầu tư và hưởng các quyền lợi tài chính trong các công ty nội địa song vẫn bảo đảm các doanh nghiệp này không tham gia vào việc biểu quyết các vấn đề của công ty. Bên cạnh đó, bản thân các ngân hàng cần nâng cao năng lực tài chính: tiếp tục khẩn trương tăng vốn điều lệ, xử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hóa tình hình tài chính; nâng cao khả năng cạnh tranh; nâng cao quản trị rủi ro, xây dựng bộ chứng chỉ hành nghề, bộ quy tắc ứng xử ngân hàng; nâng cao năng lực quản trị điều hành;nâng cao chất lượng đội ngũ nhân viên ngân hàng; hiện đại hóa công nghệ, chú trọng hoạt động marketing,đa dạng hóa và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ, kỹ thuật tiên tiến. Nhận thức được tầm quan trọng của nguồn lực nước ngoài trong quá trình tái cơ cấu hệ thống tổ chức tín dụng Việt Nam, Chính phủ đã ban hành đề án 254 với nội dung quan trọng là khuyến khích các tổ chức, cá nhân nước ngoài hợp tác đầu tư với các tổ chức tín dụng Việt Nam, và khuyến khích các tổ chức tín dụng nước ngoài tham gia góp vốn mua cổ phần, sáp nhập hợp nhất vào các tổ chức tín dụng yếu kém của Việt Nam trên cơ sở tuân thủ các quy định của pháp luật. Theo đó,tỷ lệ góp vốn của các nhà đầu tư nước ngoài vào ngân hàng được nhà nước cho phép hay gọi là “room” cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực ngân hàng là điều rất quan trọng. Theo Hiệp hội các nhà đầu tư tài chính Việt Nam (VAFI), nếu room trong lĩnh vực ngân hàng bị bó hẹp thì rất khó khăn trong việc tìm kiếm đối tác chiến lược mạnh, đồng nghĩa với việc khó khăn trong việc huy động vốn từ các nhà đầu tư tổ chức và cũng đồng nghĩa với việc cơ cấu cổ đông nghèo nàn, kém cỏi, chỉ toàn những cổ đông cá nhân, cổ đông tổ chức thụ động và cổ đông gia đình. Chính cơ cấu cổ đông kiểu này đã không kiểm soát 7 được những cổ đông sáng lập điều hành và từ đó gây ra việc lạm quyền, tham nhũng, không những xâm phạm quyền lợi của người góp vốn mà còn xâm phạm quyền lợi của người gửi tiền, dẫn đến ngân hàng Nhà nước phải ra tay cứu. Theo một lãnh đạo cấp cao của ngân hàng Nhà nước, tăng room sở hữu cổ phần của ngân hàng nước ngoài là giải pháp tốt để hỗ trợ tái cơ cấu hệ thống ngân hàng, nhưng nếu không thận trọng, quyền lợi của quốc gia sẽ bị ảnh hưởng, hệ thống ngân hàng có thể bị thâu tóm, khi các ngân hàng ngoại bắt tay nhau thao túng thị trường. Trước tình hình hiện tại, khi mà vấn đề tái cơ cấu ngân hàng đang được quan tâm, ngân hàng Nhà nước sẽ nới lỏng một s ố tiêu chuẩn và cho phép nhà đầu tư nước ngoài tham gia nhiều hơn vào hệ thống ngân hàng Việt Nam theo dự thảo Nghị định về việc nhà đầu tư nước ngoài mua cổ phần của TCTD Việt Nam dự kiến sẽ thay thế cho Nghị định 69/2007/NĐ-CP ban hành ngày 20/04/2007 của Chính phủ đang được áp dụng hiện nay. Đây cũng là một trong những xu hướng thay đổi thể chế của Việt Nam về việc thu hút vốn nước ngoài vào ngân hàng trong hoàn cảnh hiện nay. Sau đây là bảng so sánh các quy định trước và sau khi thay đổi. Thay đổi giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài tại các tổ chức tín dụng trong Dự thảo Nghị định Nghị định 69 Tỷ lệ sở hữu tối đa Dự thảo Nghị định Tỷ lệ sở hữu tối đa Nhà đầu tư nước ngoài không phải tổ chức tín dụng và người có liên quan 5% Một cá nhân nước ngoài 5% Một tổ chức tín dụng nước ngoài và người có liên quan 10% Một nhà đầu tư nước ngoài và người có liên quan 20% Một tổ chức nước ngoài 15% 8 Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài và người có liên quan 15% Nhà đầu tư chiến lược nước Đến 20% nếu được ngoài Thủ tướng chấp thuận Tổng tỷ lệ sở hữu nước ngoài 30% Tổng tỷ lệ sở hữu nước ngoài 20% 30% Có thể thấy, có hai thay đổi quan trọng trong dự thảo Nghị định:  Một là nước ngoài có thể sở hữu trên 30% ở các tổ chức tín dụng yếu kém nếu được Thủ tướng chấp thuận.  Hai là loại bỏ một số tiêu chuẩn có thể cản trở việc tổ chức tín dụng yếu kém bán cổ phần cho tổ chức nước ngoài. Hai thay đổi này giúp các tổ chức tín dụng yếu kém có thể tìm kiếm nguồn vốn nước ngoài dễ dàng hơn và được kỳ vọng giúp đẩy nhanh quá trình tái cơ cấu ngân hàng vốn còn đang rất chậm. Trong dự thảo Nghị định mới, không có quy định cụ thể như như vốn điều lệ tối thiểu là 1.000 tỷ đồng, báo cáo tài chính lành mạnh, quản lý hiệu quả,… mà các tổ chức tín dụng Việt Nam phải đáp ứng trước khi có thể bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài. Việc loại bỏ tiêu chuẩn này sẽ hỗ trợ cho các tổ chức tín dụng yếu kém đang cần tái cơ cấu thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Kỳ vọng là vậy, nhưng với những thay đổi không nhiều như vậy cũng khó có thể kích thích được các nhà đầu tư nước ngoài bởi các lý do:  Hiện tại, Thủ tướng có thể cho phép bất kỳ tổ chức nào vượt quy định 15% lên 20%. Nhưng trong dự thảo mới, thay vì có thể quyết định từng trường hợp thì Thủ tướng chỉ quyết định cho những ngân hàng yếu kém, với mục đích là tái cấu trúc ngân hàng. Như vậy, trong vấn đề này quy định mới hình như còn chặt chẽ hơn.  Tại Dự thảo Nghị định, một ngân hàng được phép vượt quy định 30% sẽ bị liệt vào loại yếu kém thì mới nhận được ưu đãi. Điều này sẽ khiến các tổ chức tín dụng không mặn mà 9 với việc nhận “danh hiệu” này. Còn với nhà đầu tư nước ngoài cũng không muốn mua các tổ chức tín dụng đã được cho là yếu kém vì lo ngại sẽ ảnh hưởng đến thương hiệu. 3. Khái niệm đối tác chiến lược Theo những nội dung trên, việc thu hút vốn nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam là điều cần thiết trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, mục tiêucủa các ngân hàng Việt Nam khi thực hiện điều này ngoài việc tăng vốn điều lệ còn có mong muốn tiếp thu kiến thức, kinh nghiệm, công nghệ hiện đại về quản lý và hoạt động ngân hàng, phát triển các loại hình và kỹ năng kinh doanh mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh. Như vậy, để đáp ứng mục tiêu trên, ngân hàng Việt Nam trong quá trình kêu gọi nhà đầu tư nước ngoài không chỉ thu hút đại trà mà còn phải mang đến cho mình ai là đối tác chiến lược. Bởi vì, theo nghị định số 69/2007/NĐ-CP của chính phủ xác định: "Nhà đầu tư chiến lược nước ngoài" là tổ chức tín dụng nước ngoài có uy tín, có năng lực tài chính và khả năng hỗ trợ ngân hàng Việt Nam trong phát triển sản phẩm, dịch vụ ngân hàng, nâng cao năng lực quản trị, điều hành và áp dụng công nghệ hiện đại; có lợi ích chiến lược phù hợp với chiến lược phát triển của ngân hàng Việt Nam, đáp ứng các tiêu chí cụ thể do ngân hàng Việt Nam quy định. Đối tác chiến lược khi đã bỏ một lượng vốn nhất định để sở hữu một tỷ lệ đáng kể trong một ngân hàng, sẽ cố gắng cải thiện năng lực và vị thế cạnh tranh của ngân hàng. Thông thường, đối tác chiến lược có thể đóng góp thêm cho ngân hàng bằng công nghệ hiện đại, quyền sở hữu trí tuệ, kỹ năng quản lý, tiếp thị, khả năng tiếp cận với những thị trường mới, khách hàng mới,... Bằng cách đó, họ mong đợi ngân hàng mà họ đầu tư sẽ có thể đạt được những khoản lợi nhuận vượt trội so với các ngân hàng khác trong ngành, và họ được chung hưởng thành quả đó với ngân hàng mà họ đầu tư . Tìm đối tác chiến lược nước ngoài được coi là con đường dẫn đến thành công của các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam vì đa số ngân hàng ngoại có nền tảng tài chính và năng lực quản trị tốt, nhiều ngân hàng có mặt ở Việt Nam từ lâu như HSBC, ANZ, Standard Chartered, Deutsche Bank,… đã có bề dày hoạt động hàng trăm năm trên toàn cầu, do vậy họ có rất nhiều thế mạnh có thể bù đắp cho đối tác Việt Nam. Sau đây là một vài ví dụ dẫn chứng cho mối quan hệ này: 10  HSBC và Techcombank Ra đời năm 1993 với mức vốn điều lệ 20 tỷ đồng, ngân hàng TMCP Kỹ Thương Việt Nam (Techcombank) đã vươn lên trở thành một trong những ngân hàng TMCP lớn nhất của Việt Nam. Đến năm 2012, vốn điều lệ của ngân hàng này đã đạt trên 8.848 tỷ đồng. "Mối lương duyên" của Techcombank với HSBC bắt đầu khi ngân hàng Anh mua 10% cổ phần của Techcombank vào tháng 12/2005. Đến tháng 7/2007, HSBC mua tiếp 5% cổ phần nữa, nâng tỷ lệ sở hữu tại Techcombank lên 15%. Hơn một năm sau, tháng 9/2008, HSBC trở thành ngân hàng nước ngoài đầu tiên tại Việt Nam nắm quyền sở hữu 20% cổ phần tại một ngân hàng TMCP trong nước, sau khi mua thêm 5% vốn cổ phần trong Techcombank và vẫn giữ tỷ lệ này cho đến cuối 2012. Với sự tham gia điều hành của các lãnh đạo có kinh nghiệm quản trị từ HSBC, Techcombank đã có nhiều chuyển biến về mặt cơ cấu. Ngay từ những ngày đầu, HSBC đã tham gia vạch ra các chiến lược dài hạn nhằm xây nền móng vững chắc cho hoạt động của Techcombank. Đó là hình thành nên khối dịch vụ khách hàng doanh nghiệp, thành lập khối quản lý tín dụng và quản trị rủi ro. Việc hoàn thiện cơ cấu khối dịch vụ ngân hàng và tài chính cá nhân cũng được thực hiện dưới sự hỗ trợ từ ngân hàng Anh. Sau khi nâng tỷ lệ cổ phần sở hữu trong Techcombank lên 20% - "room" tối đa dành cho ngân hàng ngoại theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, HSBC đã hỗ trợ Techcombank gia nhập hai liên minh thẻ lớn nhất Việt Nam là Smartlink và Banknetvn. Ngoài ra, HSBC cũng giúp Techcombank kết nối hệ thống thẻ ATM của mình vào mạng lưới ATM đã hoàn thiện của HSBC tại Việt Nam. Ông Nguyễn Đức Vinh, ủy viên Hội đồng quản trị, cựu Tổng giám đốc Techcombank từng chia sẻ với Doanh Nhân: đối tác chiến lược nước ngoài đã hỗ trợ Techcombank rà soát lại các chính sách và xây dựng hệ thống cấu trúc nhân sự theo mô hình quản trị hiện đại. Nhiều nhiệm vụ quan trọng đã được hai bên hoàn tất trong quá trình hợp tác, chẳng hạn như xây dựng chế độ lương, thưởng hợp lý và chính sách đãi ngộ dài hạn dành cho nhân viên. Một trong những dấu ấn đậm nét nhất mà HSBC tạo lập cho Techcombank là chiến lược xây dựng hệ thống nhận diện thương hiệu Techcombank đồng bộ, gắn liền với các tiêu chuẩn về quản trị, chất lượng dịch vụ của một ngân hàng thương mại lớn. Hai bên duy trì mô hình 11 "đồng Giám đốc Tài chính" với hai chức danh, một của Techcombank và một của HSBC. Nếu để ý sẽ thấy, hệ thống báo cáo tài chính của Techcombank áp dụng chuẩn mực quốc tế, và đó có thể là dấu ấn của đối tác ngoại. Có vẻ như HSBC phần nào đó đã thành công với vai trò là đối tác chiến lược trong Techcombank. Tuy nhiên, để có được những tác động mang tính quyết định đến chiến lược hoạt động của Techcombank, chắc chắn đây là một điều không hề dễ dàng đối với HSBC. Hiện HSBC mới chỉ trực tiếp tham gia các mảng quản trị rủi ro, phát triển sản phẩm và quản trị tài chính trong cơ cấu hoạt động của Techcombank. Phần lớn các chiến lược quan trọng nhất của ngân hàng này vẫn nằm trong tay một số ít nhân vật nắm quyền chi phối trong Hội đồng quản trị. Tuy nhiên, mô hình đối tác chiến lược nước ngoài mà nhiều ngân hàng trong nước theo đuổi về cơ bản đã không thành công như mong đợi ở không ít ngân hàng. Số ngân hàng Việt có đối tác chiến lược quốc tế tên tuổi không ít, nhưng rất ít ngân hàng có đột phá trong hoạt động sau khi có sự tham gia của đối tác ngoại. Đơn cử như hợp tác chiến lược giữa Société Générale (Pháp) và SeABank.  Société Générale (Pháp) và SeABank Ngân hàng Pháp mua 20% cổ phần của SeABank vào tháng 8/2008. Đây là hoạt động đầu tư đầu tiên trong lĩnh vực ngân hàng bán lẻ của Société Générale tại châu Á. Mặc dù Société Générale đã cử các chuyên gia từ Pháp sang trực tiếp hỗ trợ SeABank trong các hoạt động hàng ngày của ngân hàng như: quản trị rủi ro, phát triển mạng lưới, xây dựng mô hình ngân hàng bán lẻ... song hiệu quả đạt được chưa thực sự rõ nét. Sau 4 năm hợp tác, SeABank hầu như chưa có cải thiện đáng kể nào về chiến lược kinh doanh, chủ yếu tập trung vào cho vay doanh nghiệp và một số ngành, trong khi thiếu vắng các sản phẩm ngân hàng. Một nguồn tin cho biết, phía nước ngoài chủ yếu tham gia vào các hoạt động phát triển kinh doanh của SeABank. Tuy vậy, không rõ đối tác ngoại có tham gia quản trị rủi ro một cách hữu hiệu tại ngân hàng này hay không. Thực tế cần phải thấy rằng, mặc dù đối tác nước ngoài sở hữu 20% vốn cổ phần của SeABank nhưng tỷ lệ này lại quá thấp để họ có thể can thiệp sâu và có quyền phủ quyết đối với những quyết định quan trọng của SeABank, chẳng hạn như chiến lược cho vay,đầu tư 12 bất động sản hay chứng khoán. Thêm vào đó, do nhiều lý do khác nhau, trong đó có cả từ mô hình quản trị, vị trí CEO của SeABank đã nhiều lần phải thay đổi. Tiếp nữa, đại diện nước ngoài không can thiệp được vào các hoạt động cho vay và quản trị rủi ro. Cuối cùng, do ngân hàng này chủ yếu cho vay khối khách hàng doanh nghiệp và không ít trong số đó là vào lĩnh vực bất động sản nên có rủi ro về nợ xấu. Không rõ SeABank tài trợ như thế nào và lớn đến đâu cho các khoản vay của BRG - tập đoàn mẹ của SeABank, nhưng hiện BRG có khá nhiều dự án đầu tư bất động sản lớn. Như vậy, bỏ vốn để trở thành đối tác chiến lược trong ngân hàng nội, nhà đầu tư nước ngoài kỳ vọng sẽ can thiệp được vào chiến lược kinh doanh của ngân hàng. Thực tế không dễ như họ tưởng. 4. Động cơ của việc tham gia Trong bất kỳ cuộc đầu tư nào, lợi nhuận bao giờ cũng được đặt lên hàng đầu. Đối với nhà đầu tư nước ngoài, Việt Nam là một mảnh đất màu mỡ trong lĩnh vực ngân hàng. Cụ thể: Về thị trường: Việt Nam là nền kinh tế mới nổi, có nền kinh tế đang phát triển và là nơi tiêu thụ hàng hóa lớn của thế giới. Tuy nhiên, với gần 90 triệu dân nhưng mới có khoảng 6 triệu người mở tài khoản ngân hàng. Đây là dấu hiệu cho thấy thị trường ngân hàng ở Việt Nam có tiềm năng rất lớn trong tương lai gần. Về môi trường đầu tư: môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng cải thiện cùng với việc gia nhập WTO, môi trường đầu tư của Việt Nam ngày càng có sức hút bởi hứa hẹn cơ hội phát triển kinh tế cũng sẽ ngày càng rộng mở. Về pháp lý: việc thành lập và hoạt động của một ngân hàng mới tại Việt Nam có vốn 100% nước ngoài s ẽ gặp không ít khó khăn về mặt pháp lý cũng như các quy định của Nhà nước; đặc biệt là trong giai đoạn đang tái cơ cấu ngành ngân hàng như hiện nay. Do đó, việc tham gia vốn vào ngân hàng trong nước là biện pháp khả thi nhất để các đối tác ở nước ngoài có thể hoạt động trong ngành ngân hàng tại Việt Nam. Cụ thể những trở ngại khi mở ngân hàng 100% vốn nước ngoài: 13  Đầu tiên là về việc thành lập: để được cấp giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng liên doanh, giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng nước ngoài phải đáp ứng một số điều kiện khắt khe sau:  Ngân hàng nước ngoài có tổng tài sản có ít nhất là tương đương 10 tỷ đô la Mỹ vào năm trước năm xin cấp giấy phép;  Ngân hàng nước ngoài phải có văn bản cam kết với Ngân hàng Nhà nước về việc sẵn sàng hỗ trợ về tài chính, công nghệ, quản trị, điều hành, hoạt động cho ngân hàng 100% vốn nước ngoài, ngân hàng liên doanh; đảm bảo duy trì giá trị thực có của vốn điều lệ không thấp hơn mức vốn pháp định và đáp ứng đầy đủ các quy định về an toàn hoạt động theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.  Tổ chức tín dụng nước ngoài có quan hệ hợp tác với các tổ chức kinh tế Việt Nam.  Chi nhánh ngân hàng nước ngoài chỉ thực hiện góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp và của các tổ chức tín dụng khác khi được ngân hàng mẹ ủy quyền và cấp vốn thực hiện việc góp vốn, mua cổ phần đó. Trong trường hợp cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi người gửi tiền. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam có thể yêu cầu chi nhánh ngân hàng nước ngoài gửi một phần hoặc toàn bộ vốn, tài s ản vào Ngân hàng Nhà nước hoặc một tổ chức tín dụng hay một tổ chức khác tại Việt Nam do Ngân hàng Nhà nước chỉ định.  Tiếp theo là về hoạt động:Ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam có thể được thực hiện một số hoặc toàn bộ các nghiệpvụ ngân hàng. Nội dung hoạt động cụ thể của từng Ngân hàng được quy định trong Giấy phép mở Ngân hàng.Khi có nhu cầu và được Ngân hàng Nhà nước cho phép, Ngân hàng mới được phép thực hiện các nghiệp vụ khác phù hợp với pháp luật liên quan của Việt Nam. Về tận dụng thị phần: Mặc dù các ngân hàng có 100% vốn nước ngoài đã tồn tại ở Việt Nam một thời gian nhưng vẫn khó có thể có được cơ cấu và mạng lưới trải rộng như những ngân hàng ở Việt Nam dù họ có chiến lược riêng. Do đó, việc tham gia vốn vào các ngân hàng ở Việt Nam sẽ giúp họ tận dụng được lợi thế này. 14 Về cơ hội: Khi phân tích cơ hội đầu tư ở Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài nhận định Việt Nam còn rất nhiều tiềm năng để phát triển, nhất là hậu khủng hoảng kinh tế toàn cầu. Khi kinh tế hồi phục thì Việt Nam sẽ là là một trong những nước hồi phục trước tiên bởi lẽ đây là một quốc gia có tình trạng đô la hóa và vàng hóa cao, tiền ngoài luồng kiểm soát lớn chứng tỏ sức dân rất mạnh nên có cơ hội phát triển rất dễ bùng phát. Mới đây, hãng kiểm toán Ernst & Young vừa công bố báo cáo dự báo hàng quý về các thị trường tăng trưởng nhanh trên thế giới, trong đó dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam sẽ bền vững đạt tối thiểu 6,5% mỗi năm. Theo dự báo của Ernst & Young, tăng trưởng GDP thực tế của Việt Nam trong năm 2013 dự kiến ở mức 5,5% và tăng lên 6,9% trong năm 2014, tương đương với con số tuyệt đối 154,2 tỷ USD và 170,7 tỷ USD. Bên cạnh đó, theo số liệu thống kê của Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư) Tính đến ngày 20/4/2013, cả nước có 341 dự án FDI mới được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký là 4,873 tỷ USD và 121 lượt dự án đăng ký tăng vốn đầu tư với tổng vốn đăng ký tăng thêm là 3,34 tỷ USD. Tính chung trong 4 tháng đầu năm 2013, tổng vốn FDI đầu tư cấp mới và tăng thêm là 8,219 tỷ USD, tăng 17% so với cùng kỳ năm 2012. Với những thông tin trên, các khoản đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được cho rằng sẽ hồi phục nhanh và giúp cho tình hình kinh tế vốnđang ảmđạm tươi sáng hơn, đồng thời 15 nhữngngân hàng nước ngoài có khách hànghiệnđã, đang và cóýđịnhđầu tư vào Việt Nam sẽ tham gia vốn vào các ngân hàng Việt Nam để phục vụ nhữngđối tượng khách hàng này vàđem lại nguồn lợi cho chính bản thân họ qua những dựánđầu tư trực tiếp (FDI) hayđầu tư gián tiếp (FPI). Trong khi đó, hiện tại nền kinh tế Việt Nam nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng vẫn đang trong tình trạng yếu kém so với các nước phát triển và các nước trong khu vực, đặc biệt là dưới tác động của khủng hoảng kinh tế từ 2008 đến nay. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang trong quá trình tái cơ cấu, và cần có sự tham gia của khối ngoại để có thể khôi phục và “lành mạnh hóa” hệ thống, “room” đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài đang dần được điều chỉnh theo hướng mở hơn. Đây chính là thời điểm tốt để các nhà đầu tư nước ngoài tham gia đầu tư vào thị trường ngân hàng Việt Nam. Hơn nữa, tham gia vào thời điểm này họ sẽ tỏ rõ được những ưu điểm của mình, và có cơ hội lớn trở thành một thành phần quan trọng trong cơ cấu của ngân hàng sau này. Mua cổ phần là hình thức có nhiều ưu điểm: thông thường, các ngân hàng, tập đoàn ngân hàng, tài chính nước ngoài có thể tham gia vào thị trường Việt Nam bằng 3 cách: (i) thiết lập và phát triển mạnh mẽ các chi nhánh; (ii) thành lập ngân hàng 100% vốn (theo cam kết WTO), (iii) tính toán phương án để từng bước “thôn tính” các ngân hàng ở Việt Nam bằng cách mua cổ phần. Theo đó, phương án mở chi nhánh khá tốn kém về yêu cầu vốn pháp định mà vẫn bị hạn chế trong việc nhận tiền gửi và cho vay; còn việc thành lập ngân hàng 100% vốn thì các ngân hàng nước ngoài thì còn có nhiều bất lợi về mặt pháp luật cũng như tập quán và thói quen sinh hoạt của con người Việt Nam. Như vậy cách thứ ba sẽ được quan tâm vì các ngân hàng ở Việt Nam đã có sẵn, việc thiết lập cơ chế quản trị sẽ dễ hơn; tận dụng được các nền tảng về chi nhánh, nhân lực, văn hóa để có thể nhanh chóng có được lợi nhuận. Tận dụng được sự phát triển, kinh nghiệm của nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam: đa phần các ngân hàng Việt Nam còn kém ưu thế về công nghệ, loại hình dịch vụ, chiến lược khách hàng, hiệu quả hoạt động và chất lượng tài sản. Thị trường ngân hàng Việt Nam vẫn được xem là non trẻ, độ hội nhập nền kinh tế quốc tế cũng chưa cao so với các 16 nước phát triển. Do đó, các nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào ngân hàng Việt Nam có thể áp dụng những kinh nghiệm và chiến lược của mình trước đây để khai thác thị trường. 5. Quá trình tham gia vốn của các đối tác nước ngoài vào các ngân hàng Việt Nam Theo Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam, tính đến hiện tại đã có 13 ngân hàng thương mại có nhà đầu tư nước ngoài tham gia làm đối tác chiến lược. Việc tham gia vốn nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam có thể tạm chia làm 3 thời kỳ: trước WTO; sau WTO – 2010; sau 2010 - nay Bảng thống kê cổ đông chiến lược tại một số ngân hàng Việt Nam C đông chi n l c T l HSBC 20% Maybank 20% Soc Gen 20% Commonwealth Bank of Austral ia 20% BNP Paribas 20% United Overseas 20% Fu llert on Financial 20% Standard Chartered 20% Su mitomo Mitsui 15% Oversea-Chinese Bank 15% Mizuho Bank 15% Deutsche Bank 10% Bank of Tokyo 20% Ngân hàng Tham gia Chi n l c Techcombank 2005 2008 ABBank 2008 2008 SeaBank 2008 2008 V IB 2010 2011 OCB 2007 2011 SouthernBank 2007 2011 MDB 2010 2010 ACB 2005 2008 Eximbank 2007 2007 V PBank 2006 2008 V CB 2011 2011 HBBANK 2007 2007 V ieti nBank 2012 2012 Nguồn: Tác giả 5.1 Trước khi gia nhập WTO Việc tham g ia vốn nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam đã bắt đầu phát triển ngay từ trước khi Việt Nam gia nhập WTO. Có thể kể đến một số tên tuổi lớn của ngành ngân hàng thế giới đã tham gia vào ngân hàng Việt Nam lúc bấy giờ như HSBC mua cổ phẩn Techcombank (2005), Standard Chartered đầu tư vào ACB (2005). Có lẽ đó là một động thái để đón đầu thị trường Việt Nam của các ngân hàng lớn. 5.2 Sau WTO – 2010 Sau khi gia nhập WTO, xu hướng tham gia vốn của ngân hàng nước ngoài ngày càng tăng lên. Với sự cho phép chính thức của chính phủ bằng nghị định số 69 ban hành ngày 20/04/2007, xu thế này ngày càng rầm rộ hơn. Đặc biệt giai đoạn 2007-2008 có thể coi là 17 giai đoạn bùng nổ của hoạt động tham gia vốn nước ngoài vào ngân hàng Việt Nam, với hơn 10 thương vụ được ghi nhận. Các ngân hàng lớn đã tham gia vốn trước đây như HSBC, Standard Chartered cũng nhanh chóng đẩy thị phần lên để trở thành các cổ đông chiến lược của đối tác Việt Nam. Đến thời điểm 2009 – 2010, do tác động của khủng hoảng, làn sóng đầu tư của ngân hàng nước ngoài giảm mạnh. Dù rằng trong thời điểm này, ngành ngân hàng trong nước vẫn tăng trưởng tốt nhưng tình hình kinh tế vĩ mô đã có chiều hướng đi xuống. 5.3 Sau 2010 – nay Giai đoạn 2010 – nay, việc tham gia vốn nước ngoài không có sự gia tăng đáng kể về mặt lượng, nhưng đã tiến một bước dài với giá trị mỗi thương vụ. Thương vụ Mizuho mua 15% cổ phần VietcomBank trị giá 567,3 triệu USD là thương vụ có giá trị lớn nhất năm 2011. Năm 2012 khép lại với thương vụ đạt giá trị kỷ lục 743 triệu USD cho 20% cổ phần VietinBank do Bank of Tokyo-Mitsubishi UFJ mua lại. Trong giai đoạn này cũng ghi nhận trường hợp thoái vốn của ANZ khỏi Sacombank vào năm 2012. 6. Nguyên nhân của những vụ thoái vốn 6.1 Nguyên nhân khách quan: Một là,môi trường kinh tế vĩ mô: Việt Nam là một trong những nước có tỷ lệ lạm phát cao nhất nhì khu vực Đông Nam Á, tốc độ tăng trưởng kinh tế năm 2012 giảm so với 2011. Đây là một nguyên nhân chung cho các vụ thoái vốn nước ngoài khỏi thị trường Việt Nam. Theo kết quả đợt khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp châu Âu (EuroCham) trong việc khảo sát chỉ số kinh doanh của các doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam quý IV/2012 cho thấy, mức độ tin cậy và triển vọng kinh doanh trong cộng đồng doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam tiếp tục giảm. Hơn 1/3 doanh nghiệp tiếp tục có đánh giá tiêu cực về tình hình hiện tại. Tại các doanh nghiệp Châu Âu, lo ngại về lạm phát ở Việt Nam vẫn còn ở mức cao với 50% doanh nghiệp cho rằng lạm phát có tác động căn bản đến công việc kinh doanh của họ trong trung hạn. Hai là, thực trạng hoạt động kinh doanh của ngân hàng Việt Nam hiện tại. 18 Quyết định thoái vốn của các nhà đầu tư khỏi lĩnh vực ngân hàng là do nỗi lo sợ khủng hoảng nợ. Không khó để chúng ta thấy rằng, vấn đề nổi bật trong hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện nay là tình hình nợ xấu ngày càng cao. Nhìn lại kết quả hoạt động năm 2012 cho thấy, ở nhóm 10 ngân hàng thương mại lớn nhất hầu hết duy trì tỷ lệ nơ xấu ở mức an toàn là dưới 3%. Tuy nhiên vẫn có những ngân hàng có nợ xấu rất cao, điển hình như Agribank với nợ xấu chiếm 5,8% trên tổng dư nợ và con số tuyệt đối là 27.803 tỷ đồng. Nợ xấu của Agribank cũng tương đương với tổng nợ xấu của Vietcombank, BIDV, Vietinbank, SHB và ACB cộng lại. Ngân hàng SHB năm 2012 có tỷ lệ nợ xấu cũng rất cao, tới 8,53% tương đương 4.844 tỷ đồng do nhà băng này phải gánh thêm nợ xấu sau khi hợp nhất với Habubank. Nợ xấu của toàn hệ thống đang ở mức cao, và thậm chí còn rất rất cao theo như đánh giá của các tổ chức quốc tế (hai chữ số). Các chuyên gia trong nước và quốc tế đều cho rằng, vấn đề của hệ thống ngân hàng hiện nay không phải là làm sao để kích tín dụng mà là phải giải quyết tốt nợ xấu vì vấn đề này ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của ngân hàng. Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu của các ngân hàng, rõ ràng là không cạnh tranh với doanh nghiệp ở các lĩnh vực khác. Đơn cử, năm 2012, OceanBank có lợi nhuận sau thuế 243 tỷ đồng, giảm 50% so với năm 2011; Techcombank, một trong những ngân hàng tư nhân được đánh giá có hoạt động hiệu quả nhất Việt Nam có lợi nhuận sau thuế 765 tỷ đồng, giảm mạnh so với 3.153 tỷ đồng năm 2011. Rõ ràng miếng bánh lợi nhuận trong ngành ngân hàng đã không còn hấp dẫn như trước nhưng đây lại là điều kiện tiên quyết dẫn đến quyết định đầu tư. Trước kia, các ngân hàng nước ngoài bị cuốn hút bởi sự phát triển của thị trường Việt Nam nhưng hiện nay bối cảnh đã hoàn toàn thay đổi. Hơn thế nữa, hiện nay các vụ án kinh tế đang là mới lo ngại lớn cho các nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia góp vốn vào ngân hàng Việt Nam.Ví dụ cụ thể có thể kể đến vụ Nguyễn Đức Kiên khi chỉ trong vòng ít ngày sau khi thông tin đối tượng này bị bắt, hàng ngàn tỉ đồng đã bị rút khỏi Ngân hàng ACB khiến ngân hàng này đối diện với nguy cơ mất thanh khoản nghiêm trọng. Hay như vụ lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ xảy ra tại Công ty Cho thuê tài chính II thuộc Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam gây thiệt hại 1.600 tỉ đồng. 6.2 Nguyên nhân chủ quan 19 Thứ nhất, từ những vấn đề trong hoạt động của ngân hàng Việt Nam như đã đề cập ở trên đã làm cho mức độ chấp nhận rủi ro của ngân hàng quốc tế ngày càng giảm, việc thoái vốn là không thể tránh khỏi. Thứ hai, khó khăn trong vấn đề tham gia quản trị ngân hàng Việt Nam khi trở thành đối tác chiến lược. Sự khác biệt về mô hình quản trị đã cản trở khá nhiều vai trò của đối tác chiến lược ngoại khi điều hành ngân hàng nội. Điều này thường xảy ra tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam hoạt động theo mô hình gia đình. Người của ngân hàng nước ngoài khó lòng can thiệp sâu vào quan hệ tín dụng của những ông(bà) chủ tư nhân các ngân hàng nội. Lựa chọn gần như duy nhất là ngân hàng ngoại phải tham gia điều hành ngân hàng mà họ hợp tác chiến lược, thông qua hình thức "tự nguyện" hoặc "bắt buộc". Nếu là bắt buộc,đối tác ngoại phải là cổ đông chi phối, hoặc cổ đông lớn nhất trong ngân hàng nội, nhưng việc này lại vướng quy định về mức trần tỷ lệ sở hữu cổ phần 20%. Tại hội thảo nâng cao "Kỹ năng đưa tin về Quản trị công ty ở Việt Nam" do Tổ chức Tài chính Quốc tế (IFC) tổ chức ở Hà Nội tháng 4/2012, Do min ic Scriven, Tổng giám đốc Công ty Quản lý quỹ Dragon Capital, tâm sự rằng bản thân ông đã từng tham gia Hội đồng quản trị một ngân hàng Việt Nam, tuy nhiên, do sự khác biệt trong cách định nghĩa về vai trò thành viên Hội đồng quản trị của ngân hàng Việt Nam, không tách bạch chuyện quản trị và điều hành, nên ông hầu như bị gạt ra ngoài trong quá trình hoạch định các quyết định chiến lược của ngân hàng này. Nhìn chung, mảng tín dụng tổ chức và quản lý rủi ro là hai trong số những "khu vực hạn chế" trong các ngân hàng nội mà đối tác ngoại cho dù có người trong hội đồng quản trị cũng khó đặt chân vào. Đơn giản bởi những mối quan hệ phức tạp và nhạy cảm của các ông (bà) chủ ngân hàng Việt Nam với các khách hàng của họ. Chính vì vậy, cho dù các đối tác nước ngoài thừa hiểu điều gì đằng sau các hợp đồng tín dụng kia, họ cũng khó lòng can thiệp; hoặc nếu can thiệp được vẫn không kịp và hệ quả để lại có thể là các khoản nợ xấu. Bỏ một số vốn đầu tư không nhỏ nhưng lại không có quá nhiều quyền quản lý, điều hành, kiểm soát dẫn đến số vốn mà nhà đầu tư bỏ ra có khả năng sẽ mất ngay trước mắt họ. Do đó, các đối tác nước ngoài phải tìm hướng thoát ra cho các khoản đầu tư này trước khi quá muộn. Ví dụ tiêu biểu như tháng 1/2012, thị trường được dịp xôn xao trước tin ANZ bán 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan