VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒ HOÀI HỢP
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
LUẬN VĂN THẠC SĨ
LUẬT HÀNH CHÍNH VÀ LUẬT HIẾN PHÁP
HÀ NỘI – 2020
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
NGUYỄN HỒ HOÀI HỢP
VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG
ĐƯỜNG BỘ TỪ THỰC TIỄN TỈNH ĐẮK LẮK
Chuyên ngành: Luật Hành chính và luật hiến pháp
Mã số : 8.38.01.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS.TRẦN THỊ HIỀN
HÀ NỘI - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình do tôi tự nghiên cứu; các số liệu
trong Luận văn có cơ sở rõ ràng và trung thực. Kết luận của Luận văn
chưa từng được công bố trong các công trình khác,
Hà Nội, ngàytháng
Tác giả luận văn
năm 2020
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG BIỂU
MỞ ĐẦU.......................................................................................................... 1
1.TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI..................................................................1
2.TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU......................................................................... 4
3. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU...........................7
4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.............................................. 7
5. PHƯƠNG PHÁP LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.................8
6. Ý NGHĨA LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA LUẬN VĂN........................8
7. CẤU TRÚC CỦA LUẬN VĂN....................................................................9
CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VI PHẠM
HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ.......10
1.1 Giao thông đường bộ và vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ..........................................................................................................10
1.2 Khái niệm, đặc điểm và cấu thành vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao
thông đường bộ................................................................................................11
1.3 Những yêu cầu cơ bản đối với pháp luật về vi phạm hành chính trong lĩnh
vực giao thông đường bộ,................................................................................23
TIỂU KẾT CHƯƠNG 1............................................................................... 26
CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH VÀ XỬ LÍ VI
PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG
BỘ Ở TỈNH ĐẮK LẮK................................................................................ 27
2.1 Thực trạng vi phạm hành chính1trong lĩnh vực giao thông đường bộ tại
tỉnh DakLak.....................................................................................................27
2.2. Thực trạng xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay..................................................................................33
2.3 Giám sát, kiểm tra, kiểm soát hoạt động xử lý vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk................................................ 45
TIỂU KẾT CHƯƠNG 2............................................................................... 49
CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP GIẢM THIỂU TÌNH
TRẠNG VI PHẠM HÀNH CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO
THÔNG ĐƯỜNG BỘ TẠI TỈNH ĐẮKLẮK.............................................50
3.1. Phương hướng đảm bảo giảm thiểu vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk..............................................50
3.2. Giải pháp giảm nhằm thiểu vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk................................................................55
TIỂU KẾT CHƯƠNG 3............................................................................... 64
KẾT LUẬN....................................................................................................65
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................68
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
KT-XH
Kinh tế - xã hội
HĐND
Hội đồng nhân dân
UBND
Ủy ban nhân dân
GDPL
Giáo dục pháp luật
ĐCSVN
Đảng Cộng sản Việt Nam
VPHC
Vi phạm hành chính
CNH-HĐH
Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa
TTATGT
Trật tự an toàn giao thông
TNGT
Tai nạn giao thông
1
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1 Thống kê Tình hình xử phạt vi phạm giao thông
Bảng 2.2: Tổng hợp số vụ lái xe ô tô bị xử lý vi phạm hành chính về quy tắc
giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Bảng 2.3: Tổng hợp số vụ lái xe mô tô bị xử lý vi phạm hành chính về quy
tắc giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
Bảng 2.4: Tổng hợp số vụ phương tiện cơ giới không đảm bảo an toàn
kỹ thuật khi tham gia giao thông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Bảng 2.5: Tổng hợp số vụ người điều khiển phương tiện cơ giới không
giấy phép khi tham gia giao thông trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk
Bảng 2.6: Tổng hợp số vụ vi phạm quy định vận tải đường bộ bị xử lý trên
địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trật tự an toàn giao thông, bản chất của nó là trạng thái giao thông
công cộng ổn định, văn minh, không có sự cố đột xuất bât ngờ xảy ra đối với
hoạt động giao thông công cộng, được thiết lập và điều chỉnh bởi các qui
phạm pháp luật trong lĩnh vực GTVT công cộng mà mọi người tham gia giao
thông phải tuân theo, nhờ đó mà hoạt động giao thông được thông suốt, trật
tự, an toàn, hạn chế đến mức thấp nhất vi phạm, TNGT, UTGT gây thiệt hại
về người và tài sản. Quản lý TTATGT là sự tác động có hướng đích của các
chủ thể quản lý nhà nước về TTATGT trong đó CSGT là lực lượng nòng cốt;
dựa trên cơ sở hệ thống pháp luật về GTVT của nhà nước để điều chỉnh quá
trình hoạt động GTVT và hành vi hoạt động của người tham gia giao thông,
nhằm duy trì, ổn định và phát triển các yếu tố cấu thành hoạt động giao thông
theo mục tiêu đã đề ra.
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi hai “dọc” pháp lý là pháp luật về xử
phạt vi phạm hành chính và pháp luật về giao thông đường bộ. Trong những
năm qua, hai hệ thống quy phạm này đã ngày càng được hoàn thiện, tiêu biểu
là sự ra đời của Luật xử phạt vi phạm hành chính năm 2012 (tiền thân là Pháp
lệnh xử phạt vi phạm hành chính năm 2002, sửa đổi bổ sung năm các năm
2007, 2008), Luật Giao thông đường bộ năm 2008 (thay thế Luật giao thông
đường bộ ngày 29 tháng 6 năm 2001), cùng với chúng là sự ra đời các văn
bản hướng dẫn thi hành của khối các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm
quyền. Điều này đã tạo nên những chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội:
Tổ chức giao thông đã có những chuyển biến rõ rệt; ý thức chấp hành luật
giao thông đường bộ được nâng lên, trật tự lòng đường, vỉa hè thông thoáng
hơn, hạn chế ùn tắc giao thông; công tác quản lý của Nhà nước về trật
1
tự an toàn giao thông đường bộ được tăng cường, trang bị các phương tiện kỹ
thuật thuận lợi cho sự chỉ huy thống nhất và nhanh chóng ở các đô thị. Công
tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật đã được quan tâm, đa dạng hóa với nhiều
hình thức, nội dung phong phú, thiết thực. Công tác tuần tra kiểm soát, xử
phạt vi phạm có tác dụng răn đe, phòng ngừa tội phạm.
Tuy nhiên, trong những năm qua, tình hình vi phạm hành chính về
TTATGT đường bộ ở nước ta diễn biến rất phức tạp, vi phạm hành chính về
TTATGT đường bộ còn mang tính phổ biến. Chỉ tính trong thời gian từ 2009
đến 2015, lực lượng CSGT phát hiện hơn 33 triệu trường hợp vi phạm
TTATGT, xử phạt trên 9.676 tỉ đồng. Trung bình mỗi năm, lực lượng CSGT
phát hiện và xử phạt trên 6 triệu trường hợp vi phạm, với tổng số tiền xử phạt
vi phạm hành chính trên 1.600 tỉ đồng, số vụ vi phạm và số tiền phạt năm sau
cao hơn năm trước.
Trước tình hình này, đã có nhiều nguyên nhân được được chỉ ra, trong
đó có nguyên nhân thuộc về công tác phòng chống vi phạm của cơ quan công
quyền có liên quan tới sự khiếm khuyết của hệ thống thi hành pháp luật như:
triển khai thực hiện luật chưa quyết liệt, chậm phát hiện vi phạm, xử phạt
thiếu tính răn đe, xử phạt thiếu nghiêm túc. Do vậy, việc nghiên cứu vấn đề
xử phạt vi phạm hành chính là cần thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận,
mà còn có ý nghĩa thực tiễn sâu sắc, đặc biệt là đối với những người làm công
tác quản lý nhà nước về giao thông đường bộ hay những người nghiên cứu về
khoa học luật, khoa học hành chính công.
Ở bình diện địa phương, tình trạng vi phạm hành chính giao thông
đường bộ cũng diễn ra ngày cảng nhiều, trong đó có tỉnh Đắk Lắk. Đắk Lắk là
tỉnh có hệ thống giao thông khá đa dạng. Tỉnh Đắk Lắk có Sân bay Buôn Ma
Thuột tuyến từ Buôn Ma Thuột đến các thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí
Minh, thành phố Hà Nội, thành phố Đà Nẵng…. Ngoài ra, 14 tỉnh lộ với tổng
2
chiều dài 460 km, có quốc lộ 14 chạy qua nối với thành phố Đà Nẵng qua các
tỉnh Gia Lai, Kon Tum và nối với Thành phố Hồ Chí Minh qua Đắk
Nông, Bình Phước và Bình Dương... Song song với biên giới Campuchia có
quốc lộ 14C; Quốc lộ 27 nối thành phố Buôn Ma Thuột với tỉnh Lâm
Đồng. ....
Những tuyến quốc lộ này là mạch máu trung gian quan trọng của vùng.
Chính vì thế, tình hình vi phạm và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ của tỉnh là một vấn đề quan trọng. Làm tốt được hoạt
động này, có nghĩa là huyết mạch giao thông của tỉnh Đắk Lắk sẽ được thông
suốt, góp phần lớn vào mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đắk Lắk nói
riêng và của kinh tế miền Tây Nguyên nói chung.
Trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk hiện nay, tình hình vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn diễn biến phức tạp và liên tục có xu
hướng tăng lên. Có nhiều nguyên nhân được đề cập, trong đó có ý kiến cho
rằng do cơ sở hạ tầng giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiều nơi còn
xuống cấp nghiêm trọng trong khi lượng phương tiện giao thông đặc biệt là
phương tiện giao thông cá nhân (chủ yếu là ô tô và xe máy) không ngừng tăng
lên; hệ thống pháp luật giao thông đường bộ và xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn nhiều hạn chế, chưa nghiêm khắc và
mang tính răn đe, giáo dục cao; năng lực và đạo đức nghề nghiệp của một bộ
phận đội ngũ cảnh sát giao thông chưa cao; ý thức tham gia giao thông của
người dân còn kém… Những con số về TTATGT đường bộ, ĐTNĐ nêu trên
đang đặt ra cho các cơ quan quản lý Nhà nước về TTATGT, trong đó có lực
lượng CSGT hết sức năng nề; cần phải có những giải pháp hữu hiệu, cấp
bách, kịp thời để từng bước khắc phục những hạn chế, thiếu sót nói trên, để
đáp ứng yêu cầu bảo đảm TTATGT trong những năm tới.
Xuất phát từ những lý do về mặt lý luận và thực tiễn nêu trên; đồng thời
3
với yêu cầu của vị trí công tác với mục tiêu đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả công tác QLNN, giữ gìn trật tự an toàn giao thông đường bộ (ATGTĐB),
ngăn ngừa vi phạm, giảm nhẹ thiệt hại do vi phạm pháp luật giao thông đường
bộ gây ra đồng thời tăng cường hiệu quả xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh
vực GTĐB, trên phương diện lý luận chung về Nhà nước và pháp luật tôi
chọn đề tài "Vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ
thực tiễn tỉnh Đắk Lắk” làm nội dung nghiên cứu và bảo vệ tốt nghiệp
Chương trình đào tạo Thạc sĩ của mình.
2.Tình hình nghiên cứu
Vấn đề xử phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao
thông đường bộ nói riêng luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước
và giới nghiên cứu khoa học. Một số công trình khoa học tiêu biểu có thể kể
đến là:
- Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp (1980), Xử phạt vi phạm hành
chính, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ (mã số 85 98 008), Hà Nội; Đề tài
lần đầu tiên đề cập đến một cách toàn diện về việc xây dựng một hệ thống
khoa học của việc xử phạt vi phạm hành chính. Từ đó, đề tài làm nền tảng
pháp lý nghiên cứu áp dụng cho việc xử phạt vi phạm hành chính trên nhiều
lĩnh vực khác nhau trong đó có cả lĩnh vực giao thông đường bộ.
- Nghiên cứu của GS.TS Bùi Xuân Đức với bài viết “Về vi phạm hành
chính và hình thức xử phạt vi phạm hành chính”. Những hạn chế và giải pháp
đổi mới, Tạp chí Nhà nước và pháp luật. Tác giả nhìn nhận thực tế sâu sắc và
đưa ra những hạn chế về cách phân loại vi phạm hành chính và những điểm
còn tồn tại, bất hợp lý của hình thức xử phạt vi phạm hành chính được quy
định trong Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính 2002. Từ đó, PGS.TS Bùi
Xuân Đức đã đưa ra những hướng giải pháp đổi mới làm nền tảng cho việc
Nhà nước ban hành Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh Xử
4
phạt vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008.
- Th.S Nguyễn Mạnh Hùng (2006), Tạm giữ tang vật, phương tiện vi
phạm hành chính về giao thông đường bộ cần được áp dụng như thế nào, Tạp
chí Luật học. Tác giả Nguyễn Mạnh Hùng đã đề cập đến vấn đề tạm giữ tang
vật, phương tiện vi phạm hành chính về giao thông đường bộ - một nội dung
mà Pháp lệnh xử phạt phạm hành chính năm 2002 còn quy định chưa hoàn
thiện. Bài viết đã làm cơ sở quan trọng để Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số
điều của Pháp lệnh Xử phạt vi phạm hành chính ngày 02 tháng 4 năm 2008 đề
cập hoàn thiện hơn về nội dung này.
- Bài viết “Biện pháp xử phạt hành chính khác, Tạp chí Quản lý Nhà
nước” của tác giả Trần Minh Hương (2006). Tác giả đã đưa ra được ngoài
biện pháp xử phạt hành chính cơ bản là: phạt tiền, cảnh cáo và trục xuất thì
còn có các biện pháp xử phạt hành chính khác là: Giáo dục tại xã, phường, thị
trấn; Đưa vào trường giáo dưỡng; Đưa vào cơ sở giáo dục; Đưa vào cơ sở
chữa bệnh. Song điều đáng nói đến của nội dung bài viết là TS.Trần Minh
Hương đã đưa ra những ưu điển và nhược điểm của những biện pháp này và
thực tế khi áp dụng quy định này ở một số địa phương trong cả nước.
- Bài viết “Chế tài hành chính – Lý luận và thực tiễn” của tác giả Vũ
Thư tại Hội thảo khoa học về giao thông, Hà Nội; Tác giả đã đề cập sâu về
nội dung chế tài hành chính cả trên phương diện lý luận và thực tiễn. Công
trình nghiên cứu đã làm tài liệu tham khảo hiệu quả cho nhiều tác giả của các
trường Đại học trong cả nước khi hoàn thành giáo trình Luật Hành chính như
Học viện Hành chính quốc gia, Đại học Luật Hà Nội… Nhiều đề tài luận văn
liên quan đến đề tài, có thể kể đến:
- Nguyễn Văn Đô (2007), Xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
trật tự, an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sỹ
quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc gia, Hà Nội; Luận văn
5
đề cập đến vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ trên phạm vi toàn quốc khá toàn diện với lý luận sâu và đặc biệt là
bảng số liệu phong phú về nhiều nội dung đã khái quát được khá rõ về hoạt
động về đề tài nghiên cứu.
- Phạm Trung Hòa (2008), xử phạt vi phạm hành chính về trật tự an
toàn giao thông đường bộ của cảnh sát giao thông ở Việt Nam, Luận văn
Hành chính công, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà
Nội; Mặc dù chỉ có độ dài 88 trang song Luận văn của tác giả Phạm Trung
Hòa đã đề cập toàn diện về vấn đề xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
GTĐB của Cảnh sát giao thông ở Việt Nam. Là luận văn mang tính chuyên
ngành sâu sắc, tác giả đã có lý luận sâu sắc, thực tế rõ ràng và cả những giải
pháp toàn diện cho hoạt động mà đề tài đề cập đến.
- Trần Sơn Hà (2011), cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi
phạm hành chính về trật tự an toàn giao thông đường bộ ở Việt Nam đến năm
2020, Luận văn thạc sỹ quản lý hành chính công, Học viện Hành chính quốc
gia, Hà Nội. Đề cập đến nội dung khá mới mẻ và mang tính định hướng cho
tương lai về cải cách thủ tục hành chính trong xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực GTĐB đến năm 2020 nhưng tác giả Trần Sơn Hà đã có một
công trình nghiên cứu thành công và được Hội đồng khoa học đánh giá cao.
Vấn đề còn lại là làm thế nào để những định hướng mà luận văn nêu ra sớm
được áp dụng trong thực tế ở Việt Nam hiện nay.
Qua khảo sát thấy được, các công trình nghiên cứu đã giải quyết được
những vấn đề lý luận cơ bản về xử phạt vi phạm hành chính như: khái niệm,
đặc điểm củatrách nhiệm hành chính, các yếu tố của vi phạm hành chính, nội
dung pháp luật điều chỉnh công tác xử phạt vi phạm hành chính về giao thông
đường bộ,... Tuy nhiên, việc thực hiện pháp luật xử phạt, xử phạt vi phạm
hành chính về giao thông đường bộ là hoạt động mang tính đặc thù không
6
giống nhau ở mỗi địa phương, do vậy, trong bối cảnh thiếu vắng những công
trình nghiên cứu về thực tiễn áp dụng pháp luật xử phạt vi phạm hành chính
giao thông đường bộ ở Đắk Lắk, việc tác giả lựa chọn đề tài trên là cần thiết
và không bị trùng lặp với các công trình khác đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu và làm rõ trên phương diện lý luận, các quy định
pháp luật và tình hình thực hiện quy định pháp luật về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk từ đó đề xuất các
quan điểm, giải pháp hoàn thiện quy định và nâng cao hiệu quả áp dụng pháp
luật về xử phạt vi phạm hành chính về giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh
trong thời gian tới.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Một là, hệ thống hóa những vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành
chính và xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực trật tự, giao thông đường
bộ.
Hai là, phân tích, đánh giá thực trạng tình hình vi phạm hành chính và
hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ
trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk trong thời gian qua. Từ đó, rút ra được những ưu
điểm và hạn chế của công tác này.
Ba là, trên cơ sở quán triệt các quan điểm có tính chất chỉ đạo, đề xuất
một số giải pháp góp phần làm nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở Đắk Lắk trong
thời gian tới
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn: Những vấn đề lý luận, pháp lý và
7
thực trạng thực hiện quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Hoạt động xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông
đường bộ tại tỉnh Đắk Lắk từ năm 2016-2019.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở lý luận và phương pháp luận của
chủ nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác Lê Nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về luật pháp xử phạt vi phạm hành chính.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn sử dụng các
phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp so sánh, khái quát hóa, hệ
thống hóa…để nghiên cứu các vấn đề lý luận: khái niệm, mục tiêu, chủ thể,
đối tượng, nội dung, phương pháp và hình thức xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ để thu thập các thông tin, số liệu thực tế
phục vụ cho việc phân tích, đánh giá thực trạng, nguyên nhân của vấn đề
nghiên cứu và luận chứng tính khả thi của các giải pháp mà luận văn đưa ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Tác giả nghiên cứu và tập hợp cơ sở pháp lý và khái niệm pháp lý về
xử phạt, xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn là tài liệu tham khảo quan trọng cho các nhà quản lý hữu
quan ở tỉnh; là tài liệu tham khảo cho công tác bồi dưỡng, giáo dục pháp luật
về xử phạt, xử phạt vi phạm hành chính nói chung, trong lĩnh vực giao thông
đường bộ ở một địa phương nói riêng.
8
7. Cấu trúc của luận văn
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ.
Chương 2: Thực trạng vi phạm hành chính và xử lý vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ ở tỉnh Đắk Lắk hiện nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp giải thiểu vi phạm hành chính
trong lĩnh vực giao thông đường bộ từ thực tiễn tỉnh Đắk Lắk.
9
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ VI PHẠM HÀNH
CHÍNH TRONG LĨNH VỰC GIAO THÔNG ĐƯỜNG BỘ
1.1 Giao thông đường bộ và vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ
1.1.1 Khái niệm giao thông đường bộ
Có rất nhiều khái niệm đề cập đến giao thông, giao thông đường bộ.
Tuy nhiên có thể hiểu chung nhất: Giao thông là việc đi lại, di chuyển từ địa
điểm này đến địa điểm khác bằng các phương tiện chuyên chở.
GTĐB là một hiện tượng xã hội có xu hướng biến động phát triển mạnh
mẽ không chỉ ở Việt Nam mà còn diễn ra hầu hết các quốc gia trên thế giới.
Trên cơ sở của những khái niệm về đường bộ tại mục 1.1.1 có thể hiểu
GTĐB là việc đi lại từ nơi này đến nơi khác của người và phương tiện chuyên
chở trên đường, cầu đường bộ, hầm đường bộ, bến phà đường bộ.
Khi xem xét GTĐB với tư cách là một hiện tượng xã hội. Dưới góc độ
luật học hiện tượng GTĐB đang đặt ra những vấn đề pháp lý sau đây:
Thứ nhất, GTĐB là một nhu cầu của con người trong xã hội. Nhưng
những cá thể con người, tổ chức người nhất định không thể tự lo để thỏa mãn
nhu cầu của mình. Đặc biệt là với nhu cầu phát triển kinh tế- xã hội thì chỉ có
Nhà nước mới có thể có khả năng tổ chức, có tiềm lực kinh tế và là chủ sở
hữu đất đai mới có thể xây dựng kết cấu hạ tầng GTĐB. Tuy rằng ở mức độ
nào đó Nhà nước phải huy động sức dân, nhưng trách nhiệm thuộc Nhà nước.
Trách nhiệm này mang tính pháp lý được quy định trong chức năng, nhiệm vụ
của Nhà nước.
Thứ hai, các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực GTĐB luôn là đối
tượng điều chỉnh của pháp luật GTĐB. Nhà nước hướng dẫn và điều chỉnh
10
các quan hệ này để các quan hệ này diễn ra có sự kiểm soát và "trong vòng
luật".
Thứ ba, các quan hệ trong hoạt động GTĐB được thực hiện bởi nhiều
chủ thể với những mục đích kinh tế, văn hóa xã hội, quốc phòng an ninh khác
nhau. Cũng như các loại quan hệ xã hội khác, GTĐB cần được chế định hóa,
quy phạm hóa và tiến tới pháp điển hóa do vậy đó là những lý do hết sức cơ
bản để tạo ra sự ra đời của các văn bản pháp luật. Luật GTĐB năm 2001, Luật
GTĐB năm 2008 ra đời đã tạo ra một "luật chơi" thống nhất, nhất quán, ổn
định cho mọi tổ chức và cá nhân.
1.1.2 Đặc điểm giao thông đường bộ.
Giao thông đường bộ có vị trí trọng yếu trong hệ thống GTVT quốc
gia, đóng vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, góp
phần bảo đảm quốc phòng - an ninh, nâng cao đời sống nhân dân. GTĐB kết
nối các địa phương, vùng miền trong cả nước đảm bảo thông suốt.
GTĐB có ý nghĩa quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,
bảo đảm quốc phòng - an ninh, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. GTĐB có bảo đảm thông suốt, an toàn thì
việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng,
an toàn và trật tự xã hội sẽ thuận lợi. Muốn phát triển kinh tế - xã hội cần phát
triển hệ thống GTBĐ, phát triển GTĐB phục vụ phát triển kinh tế. GTĐB
phát triển tạo điều kiện cho hàng hóa lưu thông, chi phí vận tải giảm, giá hàng
hóa cạnh tranh, thuận lợi xuất, nhập khẩu, tạo điều kiện cho sản xuất, lưu
thông, đầu tư phát triển và các thuận lợi khác dẫn đến tăng trưởng kinh tế.
1.2 Khái niệm, đặc điểm và cấu thành vi phạm hành chính trong
lĩnh vực giao thông đường bộ
1.2.1 Khái niệm vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường
bộ.
11
Văn bản pháp quy hiện hành trực tiếp quy định về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ (GTĐB) và đường sắt là Nghị
định số 46/2016/NĐ-CP ngày 26/5/2016 không đưa ra định nghĩa pháp lý thế
nào là vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ. Điều này cũng
diễn ra tương tự với Nghị định bị thay thế trước đó là Nghị định số
171/2013/NĐ-CP ngày 13/3/2013. Tuy nhiên hai văn bản này lại xác định
phạm vi của thuật ngữ “lĩnh vực giao thông đường bộ” theo các hiểu tại các
Nghị định này. Theo Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 46/2016/NĐ-CP, “lĩnh vực
giao thông đường bộ” được xác định bởi loại phương tiện tham gia giao
thông, đó là: a) Máy kéo; b) Các loại xe tương tự xe ô tô; c) Các loại xe tương
tự xe mô tô; d) Xe máy điện; đ) Các loại xe tương tự xe gắn máy; e) Xe đạp
máy.
Vi phạm hành chính trong lĩnh vực GTĐB cũng như mọi vi phạm pháp
luật khác đều là hành vi trái pháp luật, gây nguy hiểm cho xã hội, cần bị áp
dụng các biện pháp xử phạt vi phạm, trong đó có xử phạt hành chính. Nó trực
tiếp xâm hại đến những quy tắc quản lý hành chính nhà nước trên các lĩnh vực
của đời sống xã hội, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích hợp pháp của các các cá
nhân và tổ chức, mà cụ thể là các quy định về ANGTĐB. Do đó, xử phạt vi
phạm hành chính là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa thực tiễn góp phần tuân
thủ pháp luật về an toàn giao thông đường bộ. Xử phạt vi phạm hành chính có
thể do nhiều cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền thực hiện theo quy định
của pháp luật.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 2 Luật xử phạt vi phạm hành chính
đưa ra định nghĩa pháp lý về xử phạt hành chính, theo đó, Xử phạt vi phạm
hành chính là việc người có thẩm quyền xử phạt áp dụng hình thức xử phạt,
biện pháp khắc phục hậu quả đối với cá nhân, tổ chức thực hiện hành vi vi
phạm hành chính theo quy định của pháp luật về xử phạt vi phạm hành chính.
12
Có thể đưa ra khái niệm xử phạt vi phạm hành chính như sau:
“Xử phạt hành chính là hành động của người có thẩm quyền theo quy
định của pháp luật áp dụng một hình thức cụ thể, biện pháp cụ thể đối với
người có hành vi vi phạm pháp luật hành chính theo quy định của pháp luật
hành chính”.
Khái niệm xử phạt vi phạm hành chính nêu trên phản ánh những đặc
điểm cơ bản sau đây của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính:
- Thứ nhất: Hành động xử phạt vi phạm hành chính chỉ được tiến hành
khi có vi phạm hành chính xảy ra. Cơ sở để xử phạt hành chính là hành vi vi
phạm hành chính.
- Thứ hai, xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động áp dụng pháp luật
do các cá nhân có thẩm quyền quản lý hành chính thực hiện. Việc tiến hành
xử phạt vi phạm hành chính đòi hỏi phải đúng trình tự, thủ tục đã được pháp
luật quy định. Kết quả xử phạt vi phạm hành chính phải thể hiện bằng quyết
định xử phạt vi phạm hành chính có hiệu lực pháp luật.
Xử phạt hành chính được áp dụng theo trình tự do các quy phạm thủ tục
của luật hành chính quy định (trình tự hành chính) chứ không phải trình
tự, thủ tục tư pháp. Việc áp dụng trình tự này đơn giản hơn nhiều so với trình
tự áp dụng cưỡng chế hình sự và cưỡng chế kỷ luật
-Thứ ba: Xử phạt vi phạm hành chính là hoạt động cưỡng chế nhà nước
do các chủ thể có thẩm quyền tiến hành và được đảm bảo bằng quyền lực nhà
nước. Mối quan hệ trong xử phạt vi phạm hành chính là mối quan hệ pháp
luật giữa một bên là Nhà nước – một bên là tổ chức, cá nhân vi phạm hành
chính. Để tránh lạm quyền, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ
chức và xã hội, pháp luật quy định thủ tục tố tụng hành chính, tức hoạt động
xử phạt vi phạm hành chính bị kiểm soát bởi chính Nhà nước và xã hội.
- Thứ tư: Mục đích của hoạt động xử phạt vi phạm hành chính là nhằm
13
- Xem thêm -