Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa...

Tài liệu Vi phạm cơ bản hợp đồng theo công ước viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật việt nam

.PDF
196
102
149

Mô tả:

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT TP.HỒ CHÍ MINH VÕ SỸ MẠNH VI PHẠM CƠ BẢN HỢP ĐỒNG THEO CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980 VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA QUỐC TẾ VÀ ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CÓ LIÊN QUAN CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM CHUYÊN NGÀNH: LUẬT KINH TẾ MÃ SỐ: 62.38.50.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS. TS. NGƯT MAI HỒNG QUỲ TP.HỒ CHÍ MINH - 2015 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT Từ viết tắt Tiếng Anh Tiếng Việt Công ước Viên Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế CIETAC China International Ủy ban trọng tài thương mại và Economic and Trade kinh tế quốc tế Trung Quốc Arbitration Commission Hợp đồng Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc MBHHQT tế PICC Principles of International Những nguyên tắc hợp đồng thương Commercial Contract mại quốc tế của UNIDROIT PECL Principles of European Những nguyên tắc Luật hợp đồng Contract Law châu Âu TNHH ULIS ULF Trách nhiệm hữu hạn Uniform Law on International Sale Goods 1964 Uniform Law on the Luật thống nhất về mua bán hàng of hóa quốc tế năm 1964 the Luật thống nhất về giao kết hợp Formation of Contracts for đồng mua bán hàng hóa quốc tế the International Sale of năm 1964 Goods 1964 UNCITRAL Nations Ủy ban về luật thương mại quốc tế United Commission on của Liên hợp quốc International Trade Law UNIDROIT Insitut International pour Viện Thống nhất Tư pháp Quốc tế l`Unification Privé des Droits i MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương 7 pháp nghiên cứu 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 7 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 15 1.3. Phương pháp nghiên cứu 18 Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán 20 hàng hóa quốc tế 2.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc điểm 20 2.2. Vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế: khái niệm và đặc 28 điểm 2.3. Cơ chế pháp luật điều chỉnh về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng 46 hóa quốc tế Kết luận Chương 2 52 Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo 53 Công ước Viên 3.1. Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có so sánh với pháp luật 53 Việt Nam) 3.2. Quy định và thực tiễn xác định yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm 60 hợp đồng theo Công ước Viên Kết luận Chương 3 86 Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên 95 4.1. Khái quát về chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên (có 95 so sánh với pháp luật Việt Nam) 4.2. Quy định và thực tiễn áp dụng chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo 100 Công ước Viên Kết luận chương 4 126 Chương 5. Định hướng hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng 127 trong pháp luật Việt Nam 5.1. Một số bất cập của quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ 127 ii bản trong pháp luật Việt Nam 5.2. Định hướng hoàn thiện quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ 153 bản hợp đồng 5.3. Một số giải pháp cụ thể sửa đổi, bổ sung quy định về vi phạm cơ bản hợp 161 đồng trong pháp luật Việt Nam Kết luận Chương 5 173 KẾT LUẬN 175 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 177 NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN TỚI LUẬN ÁN ĐÃ CÔNG BỐ 1 LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Luật Thương mại được Quốc hội Khóa XI, kỳ họp thứ 7 thông qua ngày 14/6/2005 (sau đây gọi tắt là Luật Thương mại) và chính thức có hiệu lực từ ngày 1/1/2006, thay thế Luật Thương mại năm 1997. Phải thừa nhận một điều rằng, những người soạn thảo Luật Thương mại đã rất cố gắng trong việc khắc phục những điểm chưa phù hợp của Luật Thương mại năm 1997 và đặc biệt là đưa vào Luật Thương mại nhiều khái niệm, quy định mới nhằm điều chỉnh một số loại hình hoạt động thương mại mà trước đây Luật Thương mại năm 1997 chưa đề cập tới, ví dụ: mua bán hàng hóa qua sở giao dịch hàng hóa, nhượng quyền thương mại, logistic, tạm ngừng thực hiện, đình chỉ thực hiện hợp đồng… Cũng cần nhấn mạnh thêm rằng, Luật Thương mại có nhiều quy định tốt hơn, có nhiều điểm mới hơn Luật Thương mại năm 1997. Tuy nhiên, khi xem xét, nghiên cứu kỹ Luật Thương mại, có thể thấy bên cạnh những điểm mới còn có một số khái niệm, quy định cần phải được lý giải và làm sáng rõ hơn và một trong số đó là khái niệm “vi phạm cơ bản” nghĩa vụ hợp đồng với ý nghĩa là căn cứ để áp dụng một số chế tài do vi phạm hợp đồng thương mại. Theo quy định tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại thì vi phạm cơ bản là “sự vi phạm hợp đồng của một bên gây thiệt hại cho bên kia đến mức làm cho bên kia không đạt được mục đích của việc giao kết hợp đồng”. Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng là cơ sở pháp lý quan trọng để áp dụng các chế tài trong thương mại, như chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng hoặc chế tài hủy bỏ hợp đồng khi các bên trong hợp đồng không có thỏa thuận về điều kiện áp dụng ba chế tài này [40, Điều 308, 310, 312]. Tuy nhiên, Luật Thương mại còn thiếu nhiều quy định có tính hướng dẫn để làm rõ hơn về khái niệm này. Bên cạnh đó, theo Điều 4 Luật Thương mại, trong trường hợp Luật Thương mại hoặc luật chuyên ngành không quy định thì áp dụng quy định của Bộ luật dân sự [40, Điều 4]. Song, Bộ luật dân sự năm 1995 cũng như năm 2005 cũng không quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và các văn bản dưới luật của Việt Nam hiện hành cũng không có quy định hướng dẫn về vấn đề này. Đây thực sự là những bất cập của pháp luật Việt Nam. Những bất cập này nếu không được loại bỏ hay sửa đổi thì việc áp dụng ba chế tài nói trên khó có tính khả thi. Và như vậy thì sẽ dẫn đến một thực tế là quy định “vi phạm cơ bản hợp đồng” sẽ 2 khó được áp dụng trong thực tiễn, thậm chí trao cho tòa án, trọng tài thẩm quyền lớn trong việc xác định có hay không có vi phạm cơ bản hợp đồng. Trong khi đó, “vi phạm cơ bản hợp đồng” là một chế định pháp luật được sử dụng trong Công ước Viên. Được ký kết vào năm 1980, có hiệu lực từ năm 1988, đến nay đã có 83 quốc gia tham gia [170], Công ước Viên được xem là nguồn luật thống nhất về hợp đồng MBHHQT, đã dung hòa được quan điểm của các quốc gia theo hệ thống luật Civil Law và Common Law về vấn đề này. Công ước Viên cũng được các nhà soạn thảo Luật Thương mại “tham khảo” và “căn cứ các nguyên tắc của Công ước” [62, tr.11; 5] nhằm khắc phục sự “chưa tương thích của Luật Thương mại với điều ước đã được thừa nhận rộng rãi trên thế giới như Công ước Viên”[62, tr.2; 5]. Điều 25 Công ước Viên quy định “Vi phạm hợp đồng do một bên gây ra là cơ bản nếu vi phạm đó gây tổn hại cho bên kia đến mức tước đi đáng kể những gì bên kia có quyền kỳ vọng từ hợp đồng, trừ khi bên vi phạm không tiên liệu được và một người có lý trí cũng không tiên liệu được hậu quả đó nếu họ ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự”. Tương tự Luật Thương mại, Công ước Viên cũng không đưa ra sự giải thích cụ thể để xác định hành vi vi phạm như thế nào bị coi là vi phạm cơ bản. Tuy nhiên, trải qua hơn 30 năm tồn tại, thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT có liên quan đến vi phạm cơ bản hợp đồng, các tòa án và trọng tài tại các quốc gia thành viên Công ước Viên đã, căn cứ vào từng tình huống cụ thể, xác định có hay không có một sự vi phạm cơ bản hợp đồng để làm cơ sở áp dụng chế tài hủy hợp đồng, yêu cầu thay thế hàng hóa…theo Công ước Viên. Vấn đề đặt ra là chế định vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên đặt ra những vấn đề gì trong thực tiễn áp dụng?. Việt Nam học được gì từ những quy định và vận dụng của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên của Công ước Viên về vi phạm cơ bản hợp đồng và Việt Nam phải đối mặt với vấn đề gì khi không sửa đổi để hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng? Để trả lời được những câu hỏi này, cần phải có sự nghiên cứu kỹ những quy định về vi phạm cơ bản trong Công ước Viên. Đó là lý do để Nghiên cứu sinh chọn vấn đề “Vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và định hướng hoàn thiện các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam” làm đề tài Luận án Tiến sĩ Luật học của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của đề tài là trên cơ sở phân tích những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên 3 (có so sánh với pháp luật Việt Nam), đề tài đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm, một mặt, tạo sự phù hợp giữa pháp luật Việt Nam và Công ước Viên, mặt khác tạo cơ sở pháp lý thuận lợi và dễ áp dụng cho các doanh nghiệp Việt Nam trong giao kết và thực hiện hợp đồng, cho các cơ quan giải quyết tranh chấp của Việt Nam trong việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT khi phải áp dụng quy định về vi phạm cơ bản. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để thực hiện mục tiêu nói trên, luận án có các nhiệm vụ cụ thể sau đây: - Làm rõ những vấn đề lý luận về hợp đồng MBHHQT, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT; - Phân tích, làm rõ quy định về vi phạm cơ bản theo Công ước Viên (có so sánh với pháp luật Việt Nam) và thực tiễn xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Công ước Viên của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước; - Phân tích, làm rõ quy định của Công ước Viên về chế tài do vi phạm cơ bản (có so sánh với Việt Nam) và thực trạng vận dụng các chế tài này của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước; - Phân tích những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam; - Đề xuất định hướng và giải pháp hoàn thiện quy định pháp luật có liên quan của Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng để giúp các cơ quan giải quyết tranh chấp thuận lợi trong việc áp dụng các chế tài khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của Luận án là những vấn đề liên quan đến vi phạm cơ bản, là các quy định của Công ước Viên và của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng, về các chế tài được áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản hợp đồng. Đối tượng nghiên cứu của Luận án là sự vi phạm hợp đồng từ phía người bán và người mua trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung, đặc biệt là trong hợp đồng MBHHQT. Đối tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm những án lệ, những vụ tranh chấp cũng như thực tiễn xét xử của các tòa án và trọng tài của một số quốc gia là thành viên của Công ước Viên liên quan đến việc áp dụng các quy định của Công ước Viên về vi 4 phạm cơ bản hợp đồng để giải quyết tranh chấp hợp đồng MBHHQT. Ngoài ra, đối tượng nghiên cứu của Luận án còn bao gồm cả việc phân tích những khó khăn trong việc áp dụng các quy định về vi phạm cơ bản của pháp luật Việt Nam so với các quy định của Công ước Viên. 3.2. Phạm vi nghiên cứu - Về nội dung: Như tên gọi của Công ước Viên là Công ước quốc tế điều chỉnh hợp đồng MBHHQT, do đó, về phạm vi nghiên cứu, đề tài giới hạn ở việc phân tích vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của pháp luật Việt Nam nhưng chỉ đối với hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng MBHHQT nói riêng. Vi phạm cơ bản hợp đồng, bản thân nó, luôn gắn liền với việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng. Nói cách khác, phạm vi nghiên cứu về mặt nội dung của Luận án tiến sĩ này là những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên trong mối quan hệ với việc áp dụng chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng bằng cách yêu cầu giao hàng thay thế hoặc hủy bỏ hợp đồng khi người bán hoặc người mua vi phạm hợp đồng. Theo quy định của Luật Thương mại, khi một bên có sự vi phạm cơ bản, bên kia có quyền áp dụng cả chế tài hủy hợp đồng, chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng, chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, do đó phạm vi nghiên cứu của Luận án về nội dung còn bao gồm cả việc phân tích các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng, đặc biệt là quy định của Luật Thương mại về vi phạm cơ bản hợp đồng trong mối quan hệ với việc áp dụng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng, hủy bỏ hợp đồng. - Về không gian: Khi nghiên cứu thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng, Luận án phân tích thực tiễn và án lệ tòa án, trọng tài ở một số nước như Đức, Pháp, Trung Quốc…là những nước đã gia nhập Công ước Viên. - Về thời gian: Khi phân tích về những vấn đề phát sinh từ thực tiễn áp dụng Công ươc Viên, Luận án lấy số liệu từ năm 1988, năm Công ước Viên có hiệu lực cho đến nay. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Về phương diện lý luận, luận án góp phần củng cố và hoàn thiện cơ sở lý luận về vi phạm cơ bản trong pháp luật hợp đồng Việt Nam để các nhà lập pháp, các cơ quan có thẩm quyền, các cán bộ nghiên cứu, các nhà kinh doanh vận dụng trong quá trình thực hiện, giải quyết tranh chấp hay xây dựng và hoàn thiện pháp luật về vi phạm cơ bản hợp đồng. 5 Về phương diện thực tiễn, những quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng được đề xuất trong luận án sẽ là tài liệu tham khảo có giá trị cho các nhà lập pháp, cho các cơ quan có thẩm quyền trong việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng. Luận án cũng là tài liệu tham khảo cho trọng tài, tòa án khi xem xét vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm áp dụng đúng các chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng và hủy bỏ hợp đồng. Luận án cũng là tài liệu tham khảo hữu ích cho các doanh nghiệp Việt Nam khi soạn thảo hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và hợp đồng MBHHQT nói riêng. 5. Những điểm mới của Luận án - Luận án là công trình đầu tiên nghiên cứu có hệ thống và toàn diện cơ sở lý luận và thực tiễn về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên có so sánh với pháp luật Việt Nam. - Luận án đã phân tích, bình luận, đánh giá một cách khách quan về quy định và thực tiễn vận dụng quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT theo Công ước Viên như xác định các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng để từ đó có cái nhìn cụ thể và đầy đủ hơn về quy định này trong Công ước Viên và đặt nó trong mối quan hệ với các quy định về vi phạm cơ bản theo pháp luật Việt Nam nhằm tìm ra những bất cập, những điểm chưa hợp lý trong các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản. - Luận án đã đưa ra kiến nghị về sửa đổi, bổ sung các quy định có liên quan của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản, trên cơ sở chọn lọc các quy định có tính ưu việt của Công ước Viên về cùng vấn đề nhằm nâng cao tính khả thi cho các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản. - Những đề xuất định hướng và giải pháp cụ thể của Luận án sẽ là cơ sở khoa học cho việc hoàn thiện các quy định cúa pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng, từ đó góp phần tạo khung pháp luật phù hợp cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa của các doanh nghiệp và góp phần thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng, hợp đồng thương mại nói chung. 6. Kết cấu của Luận án Ngoài Phần mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, Luận án gồm 5 Chương: 6 Chương 1. Tổng quan về tình hình nghiên cứu, cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu. Chương 2. Những vấn đề lý luận về vi phạm cơ bản hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế Chương 3. Các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng theo Công ước Viên. Chương 4. Chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Chương 5. Định hướng hoàn thiện quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam. 7 CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Việc xác định vi phạm cơ bản hợp đồng luôn mang đến ảnh hưởng nhất định về quyền lợi và nghĩa vụ đối với các bên và việc áp dụng các chế tài trong thương mại như tạm ngừng thực hiện hợp đồng, đình chỉ thực hiện hợp đồng hay hủy bỏ hợp đồng. Chính vì vậy, nội dung này được các nhà lập pháp, các nhà nghiên cứu và kể các các bên trong quan hệ hợp đồng thương mại trong nước và ngoài nước đánh giá là vấn đề quan trọng và cơ bản, luôn quan tâm để tìm ra phương hướng hoàn thiện. 1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu 1.1.1. Tình hình nghiên cứu ở trong nước Ở Việt Nam, tính đến nay, chưa có công trình hay sách chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Mặc dù vậy, các nghiên cứu đơn lẻ về vi phạm cơ bản hợp đồng cũng đã có, cụ thể: Cuốn sách “Chế định hợp đồng trong Bộ luật dân sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Khánh được Nxb Tư pháp xuất bản năm 2007 chỉ dành hơn 2 trang (tr.382&383) để đề cập rất sơ lược về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng và tác giả cuốn sách cho rằng định nghĩa về vi phạm cơ bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại cũng “tương tự” khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nêu trong Công ước Viên. Cuốn sách “Các biện pháp xử lý việc không thực hiện đúng hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị quốc gia xuất bản năm 2010 (tái bản năm 2013), cũng đã đề cập đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng. Tác giả cho rằng “chỉ nên coi những vi phạm có ảnh hưởng lớn tới hợp đồng mới là cơ bản” và việc xác định tính chất nghiêm trọng của hành vi vi phạm hợp đồng là “phụ thuộc hoàn cảnh cụ thể và khi có tranh chấp thì Tòa án sẽ tự xác định”. Cuốn sách “Luật hợp đồng Việt Nam: Bản án và bình luận bản án” của tác giả Đỗ Văn Đại, Nxb Chính trị Quốc gia xuất bản năm 2013 (tái bản lần thứ tư, tập 2), trong đó tác giả đã đưa ra một số bản án liên quan đến chấm dứt, hủy bỏ hợp đồng do không thực hiện đúng hợp đồng từ trang 565-612 có đề cập sơ lược đến vi phạm nghiêm trọng, vi phạm cơ bản hợp đồng. 8 Luận văn Thạc sỹ Luật của tác giả Phạm Thị Minh Nguyệt, trường Đại học Luật Tp.HCM “Vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng và chế tài khi vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng” năm 2013. Luận văn này chỉ nghiên cứu khái quát về khái niệm vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng thương mại nói chung và theo quy định của Luật Thương mại, các chế tài áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng. Bài viết “Hướng tới sự thống nhất pháp luật về xử lý vi phạm hợp đồng ở Việt Nam” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trong Kỷ yếu Hội thảo “Hoàn thiện các báo cáo rà soát Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư, Luật Thương mại” do VCCI phối hợp với Văn phòng Chính phủ tổ chức tại Tp.Hồ Chí Minh ngày 24/8/2011. Tác giả của bài viết này đã chỉ ra những bất cập trong việc áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng (được quy định tại Điều 308 Luật Thương mại) và quyền hoãn thực hiện hợp đồng của bên mua (theo quy định tại khoản 2 Điều 415 Bộ luật dân sự năm 2005) vì những khó khăn trong việc xác định cái gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng – điều kiện để áp dụng chế tài tạm ngừng thực hiện hợp đồng theo quy định của Luật Thương mại. Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/2010 [30]. Bài viết này phân tích một tranh chấp giữa bên mua là các Công ty của Argentina và của Hungary, còn bên bán là một Công ty của Nga. Bên mua đã khởi kiện bên bán và cho rằng bên bán đã có sự vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã không giao hàng như cam kết. Bên bán thì lại cho rằng bên mua đã có sự vi phạm cơ bản hợp đồng vì đã chậm thanh toán. Tranh chấp được xét xử tại Hội đồng trọng tài Zurich, phán quyết tuyên ngày 31/5/1996. Tương tự, bài viết “Hủy hợp đồng do chậm giao hàng” cũng của tác giả Nguyễn Minh Hằng đăng trên Báo Diễn đàn doanh nghiệp, ngày 22/3/2010 [29], trong đó tác giả đã phân tích căn cứ mà tòa án tuyên bố hủy hợp đồng trong vụ tranh chấp giữa Công ty Diversitel Communications Inc. (Canada) và Công ty Glacier Bay Inc. (Mỹ) là do người bán Mỹ không giao hàng khi hết thời hạn quy định trong hợp đồng. Tranh chấp này đã được xét xử tại Tòa Công lý tối cao tại Ontario (Canada), phán quyết tuyên ngày 6/10/2003. Bài viết “Hoàn thiện chế định hợp đồng” của tác giả Phan Chí Hiếu đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 4/2005, trong đó tác giả này cho rằng khái niệm vi phạm cơ bản là một sự vi phạm nghiêm trọng và cần có giải thích thế nào là vi phạm nghiêm trọng. 9 Bài viết “Vi phạm cơ bản hợp đồng” của tác giả Đỗ Văn Đại đăng trên Tạp chí Nghiên cứu lập pháp, số 9/2004 đã giải nghĩa thuật ngữ “cơ bản”, “vi phạm cơ bản”. Tác giả này nhấn mạnh một số văn bản quốc tế về hợp đồng như PICC, PECL đều không sử dụng khái niệm “vi phạm cơ bản”. Theo quan điểm của tác giả này, không nên tiếp nhận từ nước ngoài những thuật ngữ cũ hoặc không rõ ràng, gây khó khăn trong áp dụng thống nhất. Như vậy, có thể thấy các công trình, bài viết của các tác giả ở Việt Nam mới chỉ đề cập đơn lẻ đến vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng…Chưa có công trình nào nghiên cứu vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với pháp luật Việt Nam về cùng vấn đề. 1.1.2. Tình hình nghiên cứu ở nước ngoài Ở nước ngoài, cũng có một số công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng liên quan đến đề tài của luận án đã được công bố. Tiêu biểu trong số đó là: Cuốn sách của tác giả Djakhongir Saidov có tên: “The Law of Damages in International Sales: The CISG and other International Instruments” (Dịch ra tiếng Việt là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán quốc tế: Công ước Viên và các công cụ quốc tế khác) được Nxb Hart Publishing xuất bản năm 2008. Sau khi phân tích Công ước Viên với ý nghĩa như là Luật bồi thường thiệt hại trong mua bán hàng hóa quốc tế, tại Chương 5 của cuốn sách này, tác giả Djakhongir Saidov đã phân tích về khả năng tiên liệu thiệt hại do hành vi vi phạm hợp đồng gây ra – một trong nhưng yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên. Nói cách khác, tác giả này phân tích thiệt hại do vi phạm hợp đồng với ý nghĩa là yếu tố cấu thành vi phạm cơ bản hợp đồng. Cuốn sách của tác giả Benjamin K.Leisinger có nhan đề: “Fundamental Breach considering Non-conformity of the goods” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng – xem xét về tính không phù hợp của hàng hóa) được Nxb Sellier European Law Publishers xuất bản năm 2007, trong đó phân tích một số vụ tranh chấp liên quan đến nghĩa vụ của các bên về giao hàng thiếu, giao hàng chậm, giao hàng kém chất lượng…với ý nghĩa nhấn mạnh vào tính chất không phù hợp của hàng hóa khi một bên vi phạm hợp đồng và coi tính không phù hợp của hàng hóa đến mức như thế nào thì sẽ cấu thành một sự vi phạm cơ bản hợp đồng. 10 Công trình nghiên cứu của tác giả Jorge Ivan Salazar Tamez: “The CISG Remedies of Specific Performance, Damages and Avoidance, Compared to the Equivalent in the Mexican Law on Sales” (Dịch ra tiếng Việt là Các chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng, so sánh với các chế tài có liên quan trong Luật mua bán của Mexico) được Nxb ProQuest Information and Learning Company xuất bản năm 2007. Công trình này nghiên cứu các chế tài buộc thực hiện đúng hợp đồng, bồi thường thiệt hại và hủy hợp đồng theo Luật mua bán của Mexico và đặt chúng trong mối quan hệ với khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng là điều kiện tiên quyết để áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Công ước Viên. Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the CISG: A Controversial Rule” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên: Một quy tắc gây tranh cãi) của tác giả Eduardo Grebler, được đăng trên Tạp chí Proceedings of the Annual Meeting (American Society of International Law), Vol. 101 (năm 2007). Trong bài viết này, tác giả Eduardo Grebler đã bình luận Điều 25 Công ước Viên cả về mặt hình thức lẫn nội dung. Theo tác giả này, về mặt hình thức, việc dịch ra nhiều thứ tiếng có thể tạo sự không thống nhất trong cách hiểu về Điều 25 Công ước Viên. Về mặt nội dung, tác giả này cho rằng tính chất cơ bản của vi phạm cơ bản hợp đồng phụ thuộc vào cái gọi là sự lấy đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, thế nào là sự lấy đi đáng kể lợi ích của bên bị vi phạm lại không được giải thích bởi Công ước Viên. Điều này gây khó khăn và do đó trong thực tiễn, vấn đề này do cơ quan giải quyết tranh chấp tự xem xét và quyết định. Trên cơ sở đó, Eduardo Grebler cho rằng đây là bất cập của chính Công ước Viên liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định tại Điều 25 Công ước Viên. Bài viết “Fundamental Breach of Contract under the UN Sales Convention – 25 years of Article 25 CISG” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước viên – 25 năm của Điều 25 Công ước Viên), của tác giả Franco Ferrari đăng trên tạp chí 25 J.L. & Com. 489 (năm 2006). Bài viết này đã phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên dưới góc độ xem xét mức độ của sự vi phạm hợp đồng, về mức độ của tổn hại với ý nghĩa là những điều kiện tiên quyết để xác định cái gọi là vi phạm cơ bản hợp đồng và khả năng mà người ta có thể tiên liệu được về những hậu quả do sự vi phạm hợp đồng đó gây ra. Bài viết này cũng xem xét hành vi vi phạm cơ bản hợp đồng từ phía người bán trong những tình huống cụ thể như người 11 bán giao hàng có khiếm khuyết, người bán giao chứng từ chậm hoặc giao chứng từ không phù hợp với hợp đồng. Bài viết “The Concept of fundamental breach: Perspectives from the CISG, UNIDROIT Principles and PECL and case law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng: triển vọng từ Công ước Viên, những nguyên tắc UNIDROIT, PECL và án lệ) của tác giả Chengwei Liu đăng trên tạp chí 20 J.L. & Com. 460 (năm 2005). Bài viết này sau khi giới thiệu khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định tại Điều 25 Công ước Viên, khoản 1 Điều 7.3.1 Bộ nguyên tắc UNIDROIT và Điều 8:103 của PECL, tác giả Chengwei Liu kết luận rằng cả 3 quy định này là tương tự nhau mặc dù ngôn từ và nội dung của mỗi điều khoản có một số điểm khác nhau. Bài viết “Fundamental Breach and the CISG - a Unique Treatment or Failed Experiment?” (Dịch ra tiếng Việt là Vi phạm cơ bản và Công ước Viên – cách xử lý duy nhất hay thử nghiệm thất bại) của tác giả Bruno Zeller đăng trên tạp chí 8 Vindobona Journal of International Commercial Law & Arbitration 81 (năm 2004) là bài đưa ra quan điểm cho rằng việc giải thích Điều 25 Công ước Viên cần phải dựa vào ý định của các bên giao kết hợp đồng và phải phân tích ý nghĩa của Điều 25 trong mối quan hệ với hệ thống các chế tài của Công ước Viên đã quy định. Từ đó, tác giả này cho rằng khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng cần phải được tiếp cận từ vai trò của khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên hơn là chỉ giải thích nó theo nghĩa đen. Bài viết “Avoidance and the notion of fundamental breach under the CISG: An English perspecitive” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy bỏ hợp đồng và khái niệm vi phạm cơ bản theo Công ước Viên) của tác giả Darren Peacock đăng trên tạp chí 8 Int’l Trade & Bus. L. Ann. 95 (năm 2003). Bài viết này, sau khi trình bày khái quát về lịch sử ra đời của Điều 25 Công ước Viên, đã phân tích các khái niệm về “vi phạm”, “tổn hại” và “khả năng tiên liệu” được sử dụng tại chính khái niệm vi phạm cơ bản trong Điều 25 Công ước Viên. Tác giả của bài viết này cũng so sánh cơ chế áp dụng chế tài hủy hợp đồng đối với người mua và người bán theo Công ước Viên với cơ chế hủy hợp đồng theo quy định Luật mua bán hàng hóa của Anh năm 1979. Bài viết “Case law on the concept of fundamental breach in the Vienna Sales Convention” (Dịch ra tiếng Việt là Án lệ về khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên) của tác giả Leonardo Graffi đăng trên tạp chí Int'l Bus. L.J. 338 (năm 12 2003). Trong bài viết này, dựa trên nội dung quy định của Điều 25 Công ước Viên, tác giả này chia khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng ra hai góc độ để phân tích, đó là góc độ liên quan đến bên có quyền lợi bị vi phạm với cái gọi là “tổn hại đáng kể”, “mong muốn của người này trên cơ sở hợp đồng” và góc độ liên quan đến người vi phạm với cái gọi là “khả năng tiên liệu”, “người có lý trí ở vào địa vị và hoàn cảnh tương tự”. Từ đó, tác giả này đã phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong những tình huống vi phạm cụ thể của các bên như chậm thực hiện hợp đồng, hàng hóa được giao có khiếm khuyết. Bài viết “The Concept of fundamental breach as an International Principle to create uniformity of commercial law” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng như là nguyên tắc quốc tế để thống nhất pháp luật thương mại) của tác giả Clemens Pauly đăng trên tạp chí 19 J.L. & Com. 221 (năm 2000). Tác giả này sử dụng phương pháp phân tích theo nghĩa đen của khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và có so sánh với Điều 2 Bộ luật thương mại thống nhất Hoa Kỳ (UCC) và Luật nghĩa vụ trong Bộ luật dân sự của Đức (Bürgerliches Gesetzbuch). Bài viết này phân tích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng thông qua 3 vụ tranh chấp được giải quyết bởi tòa án Đức, đó là: Vụ "Fabrics in Wrong Color" (giao vải sai màu), "Cobalt Sulphate of Different Quality" (Colablt Sulphate không phù hợp về chất lượng) và "Compressors of Lower Cooling” (máy nén làm lạnh kém) để nêu ra quan điểm riêng khi vận dụng quy định của Điều 25 Công ước Viên vào các vụ việc tranh chấp cụ thể. Bài viết “The Concept of fundamental Breach of Contract under the United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)” (Dịch ra tiếng Việt là Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Robert Koch đăng trong Cuốn “Review of the Convention on Contracts for the International Sale of Goods (CISG)” năm 1998. Tác giả này đã giới thiệu một phương pháp giải thích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng đang được tòa án tối cao Đức áp dụng. Đó là phương pháp dựa trên thuật ngữ có kết hợp chặt chẽ với việc trả lời câu hỏi nhằm xác định rõ mục đích của hợp đồng có bị mất đi do hành vi vi phạm hay không và xác định bên bị vi phạm có cần áp dụng chế tài hủy hợp đồng hoặc giao hàng thay thế hay không. 13 Ngoài các công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng như đã nêu ở trên, còn có một số công trình phân tích về chế tài hủy hợp đồng, theo hướng nhấn mạnh rằng vi phạm cơ bản hợp đồng là một trong những điều kiện để áp dụng chế tài này. Ví dụ, bài viết “Avoidance for Breach under the Vienna Convention: A Critical Analysis of Some of the Early Cases” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp đồng do vi phạm theo Công ước Viên: phân tích một số vụ tranh chấp) của tác giả Alastair Mullis đăng trong Andreas & Jarborg eds., Anglo-Swedish Studies in Law, Lustus Forlag, năm 1998; Bài viết “The remedial provisions of the Vienna Convention on the international sale of goods 1980: A small business perspective” (Dịch ra tiếng Việt là Quy định chế tài của Công ước viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế năm 1980: triển vọng kinh doanh nhỏ) của tác giả David G.Fagan đăng trên tạp chí the Journal of Small & Emerging Business Law, Vol.2:317 (năm 1998); Bài viết “Avoidance of the contract in case of non-conforming goods (Article 49(1)(a) CISG)” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp đồng khi hàng hóa không phù hợp hợp đồng (Điều 49(1)(a)) của tác giả Ingeborg Schwenzer đăng trên tạp chí Journal of Law and Commerce, Vol.25:437 (năm 2005); Bài viết “Avoidance in non-payment situations and fundamental breach under the 1980 U.N Convention on contracts for the international sale of goods” (Dịch ra tiếng Việt là Hủy hợp đồng trong trường hợp không thanh toán và vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế) của tác giả Olof Clausson đăng trên tạp chí N.Y.L.Sch.J.Int’l & Comp.L, Vol.6 (năm 1986); Bài viết “Cancellation for “material” or “fundamental” breach: A comparative analysis of South African Law, the UN Convention on contracts for the international sale of goods (CISG) and the UNIDROIT Principles of International Commercial Contracts” (Dịch ra tiếng Việt là Chấm dứt hợp đồng do vi phạm cơ bản: phân tích so sánh Luật Nam phi, Công ước Viên về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và Những nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại) của tác giả Tjakie Naudé đăng trên tạp chí Stellenbosch L.Rev, Vol.12 (năm 2001) v.v… Các công trình nêu trên chỉ phân tích việc áp dụng chế tài hủy hợp đồng theo Điều 49, Điều 51, Điều 64, Điều 72 và Điều 73 Công ước Viên. Đây là những tài liệu tham khảo bổ ích vì nó giúp tác giả Luận án Tiến sĩ hiểu rõ hơn về mục đích cuối cùng của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng là nhằm để giúp các bên trong hợp đồng 14 MBHHQT có thể áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng thay thế nếu sự vi phạm hợp đồng của một bên là vi phạm cơ bản. 1.1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu Như đã trình bày ở trên, những công trình nghiên cứu ngoài nước phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là khái niệm được quy định tại Điều 25 Công ước Viên và điều kiện áp dụng chế tài yêu cầu giao hàng thay thế, hủy hợp đồng theo quy định tại các Điều 46, 49, 51, 64,70, 72 và Điều 73 Công ước Viên. Trong khi đó, ở Việt Nam thì chưa có công trình nào nghiên cứu trực tiếp khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên mà đơn thuần chỉ là những quan điểm phản ánh sự khó khăn do tính phức tạp trong quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng tại khoản 13 Điều 3 Luật Thương mại. Nhìn chung, các bài viết, công trình nghiên cứu chưa đề cập một cách chuyên sâu, toàn diện về những vấn đề liên quan đến khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên và theo pháp luật Việt Nam nhằm làm rõ những bất cập của cả Công ước Viên và của cả pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Qua tìm hiểu tình hình nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước liên quan đến đề tài luận án, tác giả đưa ra những nhận định như sau: 1.1.3.1. Những vấn đề đã được giải quyết - Khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng trong Công ước Viên còn mang tính trừu tượng, do đó, nhiều tác giả nước ngoài đã phân tích về tổn hại và mức độ tổn hại; về tính không phù hợp của hàng hóa; về mục đích của việc giao kết hợp đồng.v.v…và coi đó là các tiêu chí xác định tính chất cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng để giải thích khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng được quy định trong Công ước Viên. Tùy theo cách tiếp cận, cách hiểu của từng tác giả mà khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng nên được áp dụng như thế nào trong thực tiễn. Quan điểm của các tác giả này có giá trị khoa học ở chỗ là họ đã “mổ xẻ” khái niệm về vi phạm cơ bản hợp đồng theo quy định của Công ước Viên theo nhiều cách tiếp cận. Điều này cho thấy khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên cũng đang gây nhiều tranh luận và chưa có sự thống nhất. - Một số công trình nghiên cứu của các tác giả ở nước ngoài đã tiếp cận khái niệm vi phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là điều kiện để áp dụng chế tài hủy hợp đồng, giao hàng thay thế. Điều này cho thấy, về mặt lý luận, các tác giả này đã hiểu khá thống nhất về mục đích của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng tại Điều 25 Công ước Viên là nhằm áp dụng một số chế tài cụ thể khi có sự vi phạm hợp đồng MBHHQT. 15 - Trong thực tiễn giải quyết tranh chấp về vi phạm cơ bản hợp đồng MBHHQT, chế tài hủy hợp đồng đã được Tòa án một số nước áp dụng khi có sự vi phạm cơ bản. Tuy nhiên, chưa có tác giả nào hệ thống hóa hay rút ra án lệ cho việc áp dụng vi phạm cơ bản trong giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng MBHHQT. - Ở Việt Nam, chưa có nhiều công trình nghiên cứu về vi phạm cơ bản hợp đồng với ý nghĩa là một chế định pháp luật, dù ở góc độ hợp đồng dân sự cũng như hợp đồng thương mại và cả hợp đồng có yếu tố nước ngoài. Trong thực tế, giải quyết tranh chấp về hợp đồng MBHHQT cũng chưa có nhiều án lệ về vận dụng các quy định về vi phạm cơ bản trong Luật Thương mại để xem xét việc áp dụng chế tài hủy bỏ hợp đồng hay chế tài đình chỉ thực hiện hợp đồng và tạm ngừng thực hiện hợp đồng. 1.1.3.2. Những vấn đề còn bỏ ngỏ - Chưa có công trình hay Luận án tiến sĩ Luật học nào nghiên cứu một cách cụ thể, toàn diện những vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối liên hệ, so sánh với các quy định này của pháp luật Việt Nam. - Chưa có các công trình nghiên cứu, đánh giá hay nhận xét về những khó khăn trong việc vận dụng các quy định của pháp luật Việt Nam về vi phạm cơ bản hợp đồng và cũng chưa có các công trình nghiên cứu về việc áp dụng các chế tài khi có sự vi phạm cơ bản trong thực tiễn giao kết và thực hiện hợp đồng thương mại của doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là chế tài hủy bỏ hợp đồng. - Chưa có các công trình nghiên cứu những bất cập của pháp luật Việt Nam trong các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng nhằm đề xuất giải pháp sửa đổi và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề này. Có thể khẳng định đây là Luận án tiến sĩ Luật học đầu tiên nghiên cứu vấn đề về vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên trong mối quan hệ với pháp luật Việt Nam và định hướng hoàn thiện pháp luật Việt Nam. 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài 1.2.1. Câu hỏi nghiên cứu - Hợp đồng MBHHQT là gì? Vi phạm hợp đồng là gì? Vi phạm cơ bản hợp đồng, vi phạm cơ bản hợp đồng MBHH là gì? Cơ chế điều chỉnh pháp luật đối với vi phạm cơ bản hợp đồng?. - Công ước Viên quy định như thế nào về các yếu tố cấu thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng và thực tiễn xác định các yếu tố này của tòa án, trọng tài một số quốc gia thành viên Công ước? Các quy định của Công ước Viên về các yếu tố cấu 16 thành tính cơ bản của vi phạm hợp đồng có điểm tương đồng với quy định của pháp luật Việt Nam hay không? - Khi có vi phạm cơ bản hợp đồng, bên vi phạm phải gánh chịu chế tài nào theo Công ước Viên và thực tiễn vận dụng các chế tài đó của tòa án, trọng tài ra sao? Các chế tài do vi phạm cơ bản hợp đồng có điểm tương đồng với các quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng trong pháp luật Việt Nam? - Những bất cập trong quy định và thực tiễn áp dụng quy định về vi phạm co bản hợp đồng theo pháp luật Việt Nam là gì? Định hướng nào để hoàn thiện, khắc phục những bất cập đó? Giải pháp cụ thể để hoàn thiện, khắc phục những bất cập của quy định về vi phạm cơ bản hợp đồng và các quy định khác có liên quan là gì? 1.2.2. Lý thuyết nghiên cứu Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật. Các quan điểm của Đảng về phát triển nền kinh tế thị trường, về hội nhập kinh tế quốc tế và về xây dựng nhà nước pháp quyền cũng là cơ sở phương pháp luận nghiên cứu của luận án. Các lý thuyết liên quan đến hợp đồng, hiệu lực hợp đồng, vi phạm hợp đồng, vi phạm cơ bản nghĩa vụ hợp đồng của Việt Nam, chế tài do vi phạm hợp đồng và một số nước trên thế giới. 1.2.3. Các giả thuyết nghiên cứu - Vi phạm cơ bản hợp đồng là ngoại lệ của nguyên tắc tuân thủ hiệu lực của hợp đồng, đòi hỏi chế tài áp dụng phù hợp tác động lên hiệu lực của hợp đồng nhằm đảm bảo quyền lợi của các bên giao kết hợp đồng. Tính cơ bản của hành vi vi phạm hợp đồng được xác định trên cơ sở lợi ích mà các bên mong muốn khi giao kết hợp đồng, không phụ thuộc vào loại hợp đồng. - Bản chất pháp lý của vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên là dựa trên tiêu chí chung về lợi ích kỳ vọng của các bên trên cơ sở hợp đồng bị lấy đi đáng kể. Vì vậy, tổn hại do hành vi vi phạm hợp đồng không phải là yếu tố bắt buộc khi xác định vi phạm cơ bản hợp đồng. - Vi phạm cơ bản hợp đồng theo Công ước Viên vừa mang yếu tố khách quan (cơ quan tài phán ra phán quyết dựa vào những gì bên bị vi phạm mong muốn trên cơ
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan