Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Văn xuôi thạch lam dưới góc nhìn văn hóa...

Tài liệu Văn xuôi thạch lam dưới góc nhìn văn hóa

.PDF
41
158
99

Mô tả:

MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Văn học là một trong những bộ phận quan trọng nhất của văn hóa. Nó tiêu biểu cho diện mạo và các giá trị văn hóa, nhất là văn hóa tinh thần. Văn học là một sản phẩm mang tính đại diện cho văn hóa, có khả năng nhận thức, phản ánh, sáng tạo chuyển tải và giữ gìn các giá trị văn hóa. Giữa văn hóa và văn học có mối quan hệ rất sâu sắc, chặt chẽ. Văn hóa không chỉ hiện diện trên bề mặt biểu hiện mà còn có khả năng chi phối, tác động ở chiều sâu đối với văn học, đặc biệt trong tâm thức sáng tạo của nhà văn. Tác phẩm văn chƣơng vì thế chắc chắn đã thể hiện những dấu ấn văn hóa nhất định. Nghiên cứu văn chƣơng từ góc nhìn văn hoá đã và đang là một hƣớng tiếp cận nghiên cứu hiệu quả vì trong bối cảnh hiện nay, việc giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc đã và đang đặt ra nhƣ một thách thức trƣớc xu hƣớng toàn cầu hoá. Trong những năm gần đây xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu văn chƣơng theo hƣớng này nhƣ: nghiên cứu sáng tác của Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Hoàng Phủ Ngọc Tƣờng, Sơn Nam … Thạch Lam là một trong số không nhiều các nhà văn hiện đại Việt Nam đã để lại đƣợc dấu ấn đậm nét trong lòng ngƣời đọc bằng những tác phẩm mang đậm chất văn hóa. Văn xuôi Thạch Lam chứa đựng trong đó những giá trị văn hoá truyền thống và hiện đại ở “chốn nước non lặng lẽ này” (Hoài Thanh). Nghiên cứu văn xuôi Thạch Lam dƣới góc nhìn văn hoá để thấy đƣợc cảm xúc và thái độ của nhà văn trƣớc thiên nhiên và cuộc sống con ngƣời. Đồng thời thấy đƣợc những đóng góp của riêng nhà văn trong tiến trình vận động và phát triển của văn học dân tộc, cũng nhƣ thấy đƣợc những giá trị văn hoá dân tộc hoặc ảnh hƣởng hoặc đƣợc thể hiện trong tác phẩm của ông nhƣ thế nào, từ đó làm nổi bật ý nghĩa của mối quan hệ giữa nhà văn và quá trình sáng tạo nghệ thuật. Nhà thơ Ấn Độ Rabindranath Tagor đã nói: “Có thể vượt qua thế giới lớn lao của loài người không phải bằng cách tự xóa mình đi, mà bằng cách mở rộng bản sắc của chính mình”. Theo ý nghĩa ấy, Thạch Lam đã tạo đƣợc cho mình một phong cách rất riêng không lẫn với ai. Vì vậy, trong chƣơng trình phổ thông và đại 4 học, Thạch Lam là một tên tuổi quen thuộc và quan trọng. Sau nhiều lần thay đổi chƣơng trình và chỉnh lí sách giáo khoa, vị trí của Thạch Lam vẫn đƣợc khẳng định. Do đó, việc nghiên cứu Thạch Lam có ý nghĩa thiết thực và bổ ích trong công tác giảng dạy. Một lí do không thể thiếu nữa đó là lòng yêu mến và ngƣỡng mộ của tác giả luận văn đối với sáng tác của nhà văn Thạch Lam. Từ những lí do trên, nên tôi đã chọn đề tài: Văn xuôi Thạch Lam dưới góc nhìn văn hóa với hi vọng sẽ đóng góp thêm một vài ý kiến để tiến tới có một cái nhìn tổng thể, toàn diện về sáng tác của Thạch Lam. 2. Lịch sử vấn đề nghiên cứu Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn và là một trong những gƣơng mặt lớn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Những sáng tạo và đóng góp của ông rất có ý nghĩa đối với quá trình hiện đại hóa nền văn học nƣớc ta giai đoạn này. Vì vậy, Thạch Lam là một hiện tƣợng văn học đƣợc nghiên cứu sớm và rất nhiều. Các ý kiến đều đánh giá cao tài năng và giá trị văn chƣơng của ông. Nhà phê bình văn học Vũ Ngọc Phan đã phát biểu: “Thạch Lam có một ngòi bút lặng lẽ, điềm tĩnh vô cùng, ngòi bút tả tỉ mỉ những cái rất nhỏ và rất đẹp, những cảm tình, cảm giác con con nảy nở và biểu lộ ở đủ các hạng người mà ông tả một cách thật tinh vi” [57; tr570]. Còn Thế Lữ trong bài viết “Tính cách tạo tác của Thạch Lam” in trên tờ Thanh Nghị số 39 ra ngày 16/6/1943 đã nhận xét “cái kho tàng cuộc sống bên trong rất châu báu” [51; tr820]. Tác giả Nhớ rừng đã bằng sự tinh tế và nhạy cảm của một thi sĩ mà hiểu ngƣời bạn văn của mình. Ông nhìn thấy trong những tác phẩm của Thạch Lam có ánh sáng của một sự thực khác, đó là sự thực tâm hồn. Hay trong lời giới thiệu cuốn Thạch Lam truyện ngắn và tiểu luận , nhà văn Nguyễn Tuân đã khẳng định: “Nói đến Thạch Lam người ta nhớ đến truyện ngắn nhiều hơn truyện dài”. Tác giả Bùi Việt Thắng trong bài viết Người chắt chiu cái đẹp khẳng định: “Thạch Lam là người có ý thức chắt chiu và bảo tồn cái đẹp có giá trị văn hóa của cộng đồng dân tộc” [71; tr170]. Lê Dục Tú trong Quan niệm con người trong sáng 5 tác của Thạch Lam (Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 4, 1993) một lần nữa khẳng định chiều sâu nhân bản trong ngòi bút miêu tả nhân vật của Thạch Lam: “Dù trong cảnh ngộ nào con người trong sự miêu tả của Thạch Lam vẫn luôn hướng về một thế giới tinh thần đẹp đẽ, trong sáng và giàu tính nhân bản” [89; tr16-22]. Trong bài Thạch Lam hương thơm và nỗi u hoài, Nguyễn Nhật Duật chỉ ra rằng: “Bằng một giọng văn nhẹ nhàng, đơn giản và trong sáng, Thạch Lam đã gợi cho chúng ta cả một bối cảnh Việt Nam không còn nữa với ngày nay cả một bầu không khí thanh bình, thơ mộng và nghèo khốn”. [25; tr12-16]. Nhà văn Hồ Dzếnh nhớ tới Thạch Lam nhƣ nhớ ngƣời đã gọi tên trìu mến và tha thiết với món ăn Hà Nội “Tôi nhớ anh những hôm đi qua phố Hàng Đào, Hàng Ngang, tưởng chừng như phong vị một Hà Nội ba sáu phố phường vẫn còn phảng phất đâu đây. Trước Thạch Lam, chưa mấy ai phát hiện đầy đủ cái thi vị, tinh hoa của những món quà thổ ngơi Hà Nội, khoan nói đến nghệ thuật thưởng thức như anh, với tấm lòng nâng niu trân trọng” [24]. Nhà văn Vũ Bằng lại viết: “Anh quí từ chén nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng một cách gần như thành kính, tiếc từ một cái kẹo vừng rơi xuống đất, nhặt lên phủi bụi rồi cầm lấy ăn một cách chậm rãi như thể vừa nhai vừa suy nghĩ, vừa cảm ơn trời đã cho mình sống để thưởng thức một món ăn ngon lành như vậy, anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời có câu gì không chu đáo để cho người ta tủi thân mà buồn …” [12]. Rồi các luận văn, luận án đề cập đến nghiên cứu văn chƣơng từ góc nhìn văn hoá: Cảm quan đô thị trong sáng tác của Thạch Lam của tác giả Trần Thị Thu Hà trường Đại học sư phạm Hà Nội, năm 2011; Sáng tác của Nguyễn Ngọc Tư dưới cái nhìn văn hóa của tác giả Hoàng Thị Hà trường ĐH sư phạm Hà Nội, năm 2011; Văn chương Vũ Bằng dưới góc nhìn văn hóa của Đỗ Thị Ngọc Chi, Học viện Khoa học Xã hội, năm 2013; Văn xuôi Nguyễn Tuân và Hoàng Phủ Ngọc Tường từ góc nhìn văn hóa của Ngô Minh Hiển … Nhìn chung các bài nghiên cứu, đánh giá, nhận xét về sáng tác của Thạch Lam tƣơng đối nhiều và phong phú các ý kiến. Song chƣa có công trình riêng biệt nghiên cứu về văn xuôi Thạch Lam từ hƣớng tiếp cận văn hóa học . Chính vì vậy, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài này với mong muốn sẽ cố gắng đi sâu, tìm hiểu 6 những giá trị mới trong tác phẩm của ông cũng nhƣ những đóng góp riêng của nhà văn Thạch Lam đối với văn xuôi Việt Nam hiện đại. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu * Mục đích nghiên cứu Luận văn dựa vào các phạm trù văn hóa, soi tỏ mối quan hệ giữa văn hóa văn học ở tầm khái quát và đi sâu vào văn xuôi Thạch nhƣ một hiện tƣợng văn hóa cụ thể. Luận văn xác lập hệ thống lý luận về vấn đề nghiên cứu mối quan hệ giữa văn hóa - văn học để từ đó nhận diện sự tồn tại và tiếp nối các mạch ngầm văn hóa đƣợc biểu hiện trong văn xuôi của Thạch Lam. Luận văn chỉ ra tầng sâu các giá trị văn hóa trong văn xuôi của Thạch Lam, làm rõ căn nguyên tồn tại chất văn hóa trong sáng tác của nhà văn, qua đó cũng khẳng định nét độc đáo và đóng góp của Thạch Lam trong nền văn học Việt Nam hiện đại. * Nhiệm vụ nghiên cứu Tìm hiểu khái lƣợc về tiếp cận văn hóa học và văn xuôi Thạch Lam. Tìm hiểu về các phƣơng diện biểu hiện văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam. Tìm hiểu về các phƣơng thức biểu hiện những cảm quan văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Triển khai luận văn Văn xuôi Thạch lam dưới góc nhìn văn hóa, chúng tôi khảo sát toàn bộ sáng tác văn xuôi của Thạch Lam, trong đó tập trung vào một số tác phẩm sau: Truyện ngắn - Tập: Gió đầu mùa - NXB Đời nay, Hà Nội 1937. - Tập: Nắng trong vườn - NXB Đời nay, Hà Nội 1938. Bút kí - Hà Nội băm sáu phố phường - NXB Đời nay, Hà Nội 1940. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu 7 Với đề tài Văn xuôi Thạch lam dưới góc nhìn văn hóa chúng tôi sử dụng một số phƣơng pháp nghiên cứu cơ bản sau: - Phƣơng pháp liên ngành: Chúng tôi xác định đây là phƣơng pháp quan trọng của luận văn này, trong đó phƣơng pháp nghiên cứu văn học là chủ đạo, đồng thời phối hợp vận dụng, phối hợp một số tri thức liên ngành văn hóa học, sử học, triết học, tôn giáo học, ngôn ngữ học, liên văn bản cắt nghĩa văn học bằng truyền thống văn hóa, hoạt động văn hóa, góc nhìn văn hóa. - Phƣơng pháp phân tích, tổng hợp: Phƣơng pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa, phát hiện các giá trị văn hóa kết tinh trong văn xuôi Thạch Lam. - Phƣơng pháp tiếp cận thi pháp học: Phƣơng pháp này giúp chúng tôi cắt nghĩa đƣợc các hình thức nghệ thuật trong tác phẩm và mối quan hệ với nội dung để chỉ ra những đặc trƣng nghệ thuật của tác phẩm, của quá trình văn học trong tác phẩm của Thạch Lam. - Phƣơng pháp tiếp cận văn hóa học: Phƣơng pháp này thiên về giải mã các hình tƣợng nghệ thuật, tìm ra nét mới của tác phẩm, trên cơ sở tìm hiểu sự chi phối các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, thẩm mỹ, quan niệm về con ngƣời … từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về mặt xây dựng nhân vật, mô tuýp, hình tƣợng, ngôn ngữ ... - Phƣơng pháp so sánh: Đây cũng là một phƣơng pháp cần thiết giúp chúng tôi đối chiếu các vấn đề ở cả hai bình diện đồng đại và lịch đại; so sánh ở nội bộ tác phẩm của một nhà văn, so sánh giữa tác phẩm của các nhà văn trong nhóm Tự lực văn đoàn với nhau nhằm khám phá một cách hiệu quả thế giới văn xuôi Thạch Lam, làm nổi bật nét văn hóa sâu đậm, rất riêng của nhà văn Thạch Lam. - Phƣơng pháp hệ thống: Chúng tôi xem văn xuôi Thạch Lam là một hệ thống bao gồm nhiều thành tố và có mối quan hệ chặt chẽ với các hệ thống khác nhƣ văn hóa, lịch sử, nghệ thuật, triết học … 6. Cấu trúc luận văn Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, phần nội dung luận văn gồm ba chƣơng: Chƣơng 1: Khái lƣợc về tiếp cận văn hóa học và văn xuôi Thạch Lam. Chƣơng 2: Các phƣơng diện biểu hiện văn hóa của văn xuôi Thạch Lam. 8 Chƣơng 3: Phƣơng thức biểu hiện những cảm quan văn hóa trong văn xuôi Thạch Lam. 9 Chƣơng 1 KHÁI LƢỢC VỀ TIẾP CẬN VĂN HÓA HỌC VÀ VĂN XUÔI THẠCH LAM 1. 1. Khái lƣợc về tiếp cận văn hoá học 1.1.1. Một số khái niệm về văn hóa Văn hóa là một khái niệm đã có từ lâu đời và có nội hàm rất rộng. Theo A.L.Kroeber và C.L.Kluckhohn trong cuốn Văn hóa: Cái nhìn phân tích về Khái niệm và Định nghĩa có khoảng hơn 200 định nghĩa về văn hóa. Sở dĩ số lƣợng định nghĩa văn hóa phong phú nhƣ vậy vì một phần văn hóa là một phạm trù hết sức rộng. Phần khác, mỗi nhà nghiên cứu xuất phát từ mục đích và phƣơng pháp của mình đều có quyền đƣa ra một định nghĩa thích hợp. Sau đây, tôi xin điểm qua một số định nghĩa về văn hóa tiêu biểu. Cụ thể nhƣ: Theo Từ điển tiếng Việt, Hoàng Phê (chủ biên) định nghĩa: 1. Văn hóa là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con ngƣời sáng tạo ra trong quá trình lịch sử. (Kho tàng văn hóa dân tộc. Văn hóa Phương Đông. Nền văn hóa cổ). 2. Những hoạt động của con ngƣời nhằm thỏa mãn nhu cầu của đời sống tinh thần. (Phát triển văn hóa. Công tác văn hóa). 3. Tri thức, kiến thức khoa học. (Học văn hóa. Trình độ văn hóa). 4. Trình độ cao trong sinh hoạt xã hội, biểu hiện của văn minh: (Sống có văn hóa. Ăn nói thiếu văn hóa). 5. Nền văn hóa của một thời kì lịch sử cổ xƣa, đƣợc xác định trên cơ sở một tổng thể những di vật tìm thấy đƣợc có những đặc điểm giống nhau. (Văn hóa rìu hai vai. Văn hóa Đông Sơn). Trong cuốn Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb TP HCM,1997, Trần Ngọc Thêm đã định nghĩa “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác giữa con người với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. 10 Theo Đỗ Lai Thúy trong Văn hóa Việt Nam nhìn từ mẫu người văn hóa thì "Văn hóa là tất cả những gì phi tự nhiên" [85; tr 16 -17]. Tác giả cũng cho rằng, đây là định nghĩa khái quát nhất, rộng lớn nhất. Định nghĩa về văn hóa có tính chất cấu trúc luận, tác giả Phan Ngọc cho rằng: "Văn hóa là quan hệ. Nó là mối quan hệ giữa thế giới biểu tượng và thế giới thực tại. Quan hệ ấy biểu hiện thành một kiểu lựa chọn riêng của một tộc người, một cá nhân so với một tộc người khác, một cá nhân khác. Nét khác biệt giữa các kiểu lựa chọn làm cho chúng khác nhau, tạo thành những nền văn hóa khác nhau là độ khúc xạ". [85; tr 16 -17]. UNESCO - Tổ chức khoa học và giáo dục Liên hợp quốc đã đƣa ra 200 định nghĩa về văn hóa và rồi đi đến một thống nhất chung nhƣ sau: “Trong ý nghĩa rộng nhất, văn hóa hôm nay có thể coi là tổng thể những nét riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và xúc cảm, quyết định tính cách của một xã hội hay một nhóm người trong xã hội. Văn hóa bao gồm cả nghệ thuật và văn chương, những lối sống, những quyền cơ bản của con người, những hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngưỡng. Văn hóa đem lại cho con người khả năng soi xét về bản thân. Chính văn hóa đã làm cho chúng ta trở thành những sinh vật đặc biệt nhân bản, có lý tính, có óc phê phán và dấn thân một cách đạo lý. Chính nhờ văn hóa mà con người tự thể hiện, tự ý thức được bản thân, tìm tòi không biết mệt những giá trị văn hóa mới mẻ và sáng tạo ra những công trình vượt trội lên bản thân” [ 85; Tr18] Theo quan điểm chỉ đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì: "Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội; Nền văn hóa mà chúng ta xây dựng là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa thống nhất mà đa dạng trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam; Xây dựng và phát triển văn hóa là sự nghiệp của toàn dân do Đảng lãnh đạo, trong đó đội ngũ trí thức giữ vai trò quan trọng; Văn hóa là một mặt trận; Xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng.” Tóm lại, dù có nhiều khái niệm khác nhau về văn hóa, nhƣng tựu chung lại, văn hóa có những đặc điểm cơ bản sau: Văn hóa là một hoạt động sáng tạo, mang 11 tính lịch sử chỉ riêng con ngƣời mới có. Hoạt động sáng tạo đó bao gồm mọi ứng xử của con ngƣời với nhau và con ngƣời với tự nhiên - xã hội, thể hiện trong mọi lĩnh vực của đời sống: đời sống vật chất, đời sống tinh thần, đời sống xã hội. Những hoạt động sáng tạo đó đã đạt đƣợc thành tựu của các giá trị văn hóa, đƣợc bảo tồn và khai thác phát huy từ thế hệ này sang thế hệ khác bằng con đƣờng giáo dục (theo nghĩa rộng). Văn hóa là thể hiện của mối quan hệ giữa thế giới biểu tƣợng với thế giới thực tại, tạo ra một kiểu lựa chọn riêng của tộc ngƣời, một cá nhân so với một tộc khác, một cá nhân khác tạo thành những nhân cách văn hóa (cá nhân), những nền văn hóa khác nhau (cộng đồng). Dù hiểu theo cách nào thì văn hóa cũng đều là sản phẩm độc đáo của quá trình lịch sử do cá nhân và cộng đồng ngƣời tạo nên. Trong phạm vi của đề tài, chúng tôi nghiêng về cách hiểu văn hóa gắn liền với bản sắc văn hóa theo định nghĩa của Phan Ngọc và của UNESCO. 1.1.2. Bản sắc văn hóa Văn hóa là sản phẩm, là diện mạo của cá nhân và cộng đồng. Vì thế nói tới văn hóa không thể không nhắc đến vấn đề bản sắc văn hóa, tức là cái “tinh túy”, cái cốt lõi của văn hóa trong quá trình phát triển của lịch sử. Bản sắc văn hóa, theo Ngô Đức Thịnh là “một tổng thể các đặc trưng của văn hóa được hình thành, tồn tại và phát triển suốt quá trình lịch sử của dân tộc, các đặc trưng văn hóa ấy mang tính bền vững, trường tồn, trừu tượng và tiềm ẩn, do vậy muốn nhận biết nó phải thông qua vô vàn các sắc thái văn hóa, với tư cách là sự biểu hiện của bản sắc văn hóa ấy. Nếu bản sắc văn hóa là cái trừu tượng, tiềm ẩn, bền vững thì các sắc thái biểu hiện của nó tương đối cụ thể, bộc lộ và khả biến hơn” [79]. Theo Dƣơng Phú Hiệp thì: “Bản sắc riêng của mỗi nền/ dạng/ kiểu văn hóa thường được biểu hiện là những nét đặc thù và độc đáo thể hiện trong hiện tượng văn hóa hoặc các sản phẩm của văn hóa, quy định bộ mặt của mỗi nền văn hóa” [47; tr40]. Ngoài ra, phần đáng kể của nó lại đƣợc thể hiện trong cuộc sống thƣờng ngày của cộng đồng ngƣời. Tuy nhiên, trong quá trình hội nhập, giao lƣu, tiếp biến giữa các nền văn hóa, bản sắc đó luôn có thêm những giá trị mới đƣợc hình thành và tiếp tục đƣợc bồi tụ để định hình và lộ diện, phù hợp với sự 12 tiến hóa của lịch sử. Các giá trị mang bản sắc văn hóa của từng tộc ngƣời, không phải ngẫu nhiên đƣợc hình thành mà đó là sản phẩm tất yếu của hoàn cảnh địa lí, lịch sử và chính trị. Nhƣ vậy, bản sắc văn hóa đƣợc hiểu là những gì tinh hoa, bền vững của một nền văn hóa. Nó mang ý nghĩa chỉ cái cốt lõi, chỉ những đặc trƣng riêng của một cộng đồng văn hóa và là yếu tố cơ bản để phân biệt giữa một nền văn hóa này với một nền văn hóa khác. Vì vậy, dấu ấn bản sắc văn hóa của mỗi dân tộc, mỗi vùng miền sẽ đƣợc thể hiện trong mọi sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó có văn học. 1.1.3. Mối quan hệ giữa văn hóa và văn học 1.1.3.1. Văn học là sản phẩm và hiện thân của văn hóa “Văn học là nhân học” (Macxim Gorki), văn học lấy con ngƣời làm đối tƣợng trung tâm để phản ánh và khắc họa. Mà bản chất của văn hóa là hƣớng đến tinh thần nhân văn, nhân bản và mục tiêu duy nhất là xây dựng con ngƣời. Và cả văn hóa lẫn văn học đều lấy chân - thiện - mỹ làm thƣớc đo cho trình độ phát triển. Văn học là một bộ phận của văn hóa. Nhờ có văn học, những sắc màu văn hóa đƣợc tái hiện một cách sinh động và sắc nét “Khi thì hiện diện trên bề mặt của hiện thực đời sống với những phong tục, tập quán, hội hè đình đám, những nghi lễ, có khi được thể hiện ở chiều sâu, trong sâu thẳm tâm thức văn hóa cộng đồng” [64; tr161] hay tính cách, ứng xử của con ngƣời với con ngƣời và con ngƣời trƣớc thiên nhiên. Văn học, cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục tập quán…là những thành tố hợp thành cấu trúc tổng thể bao trùm lên tất cả là văn hóa. Vì vậy, cũng nhƣ các thành tố khác, văn học luôn chịu sự chi phối trực tiếp “từ môi trường văn hóa của một thời đại và truyền thống văn hóa độc đáo của một dân tộc, đồng thời thể hiện cả nội hàm tâm lý văn hóa độc đáo của một thời đại và một cộng đồng dân tộc” [11; tr5]. Bàn về mối quan hệ giữa văn hóa và văn học, Đỗ Thị Minh Thúy chỉ ra rằng: “Đặt văn học trong văn hóa tức là nhấn mạnh sự tác động tổng thể của văn hóa tới văn học, như vậy các nhân tố xã hội, kinh tế, chính trị... tác động tới toàn bộ văn hóa nói chung, thông qua văn hóa mới tác 13 động đến văn học, ở quan hệ đặc biệt này, văn học trở thành một trong những tiêu điểm của văn hóa, đóng vai trò nhân tố đại diện cho văn hóa [86; tr239]”. Nhƣ vậy, văn học là một trong những bộ phận quan trọng của văn hóa, là tấm gƣơng phản chiếu đời sống xã hội và văn hóa dân tộc. Đồng thời văn học cũng là phƣơng tiện lƣu giữ và bảo lƣu văn hóa thời đại cũng nhƣ truyền thống độc đáo của dân tộc. Song nhà văn - chủ thể sáng tạo cũng là con đẻ của một cộng đồng. Muốn hay không, nhà văn đó cũng tiếp nhận những thành tố văn hóa của cộng đồng mình, những lối tƣ duy, những mô thức ứng xử trong đó chứa đựng nội hàm văn hóa của thời đại. Sau nữa, nếu văn hóa là những gì còn đọng lại trong chiều sâu tâm trí con ngƣời sau khi thời gian đã sàng lọc tất cả thì cái hình ảnh hiển hiện ngày một lắng sâu của diện mạo, bản sắc văn hóa Việt Nam lại đƣợc hiện hình rõ nét qua văn học. Không phải ngẫu nhiên mà tìm hiểu về văn hóa Việt Nam nhiều ngƣời lại tìm về văn học Việt Nam. Nói cách khác, văn học là hiện thân của văn hóa. Bằng sức mạnh của ngôn từ, văn học đã diễn đạt đƣợc khá đầy đủ và trực tiếp lớp vỏ của tƣ duy và tầng sâu của cảm xúc trong hệ thống tinh thần và đời sống văn hóa dân tộc. Việt Nam không có nền văn hóa lộ thiên đồ sộ nhƣ nhiều quốc gia trong khu vực nhƣng chúng ta lại có bề dày văn hóa của ngƣời Việt Nam với những đức tính cao đẹp nhƣ yêu nƣớc, cần cù, đoàn kết, giàu lòng yêu thƣơng, trọng tình trọng nghĩa, giữ chữ tín … Khi đƣợc tổ chức UNESCO phong tặng danh hiệu danh nhân văn hóa thế giới cho Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Chí Minh nghĩa là thế giới đã công nhận nét đặc sắc văn hóa trong giá trị tinh thần của ngƣời Việt Nam chúng ta ở cả quá khứ và hiện tại. Nếu không có cái bề thế của nền văn hóa - văn học cách mạng biết nâng niu kiệt tác Truyện Kiều, biết khai thác tƣ tƣởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh hòa quyện trong thơ văn vì đại nghĩa dân tộc thì có lẽ trong văn học của chúng ta không có tiếng vang nhƣ thế. Là hiện thân của văn hóa, văn học đã mang trong mình hình hài của bề sâu văn hóa nơi mà từng bị che lấp bởi nét dáng tân kỳ của văn hóa phƣơng Tây hoặc bởi cái nhìn mơ hồ của những quan niệm văn chƣơng lỗi thời. Văn học bao giờ cũng là lực lƣợng xung kích trên mặt trận văn hóa. Chính lịch sử văn hóa - văn học dân tộc đã cho chúng ta 14 một nhận thức đúng đắn rằng: người cầm bút chỉ trở thành một nhà văn lớn khi nào đạt đến tầm vóc của một nhà văn hóa tư tưởng. Là một bộ phận của văn hóa, hiện thân cho nền văn hóa, văn học đƣơng nhiên là một sản phẩm đặc biệt của văn hóa. Chính điều này đã đặt ra những yêu cầu đối với ngƣời đọc và ngƣời nghiên cứu tác phẩm đó là: 1/ Phải đặt văn học trong bối cảnh rộng lớn của văn hóa xã hội hoặc trong ảnh hƣởng qua lại của văn học đối với các hiện tƣợng văn hóa khác. 2/ Xem văn học là bộ phận của văn hóa thì văn bản văn học cũng là một sản phẩm văn hóa vì thế cần giải mã nó trong ngữ cảnh văn hóa. 3/ Văn học là một trong những loại hình nghệ thuật có khả năng bao quát, chạm tới cả mạch ngầm sâu thẳm của đời sống văn hóa cũng nhƣ chiều sâu tƣ tƣởng của ngƣời nghệ sỹ. 1.1.3.2. Văn học kết tinh giá trị văn hóa Chúng ta biết rằng, giá trị (value) là “cốt lõi” của văn hóa, là “thước đo” nhân bản của xã hội loài ngƣời. Vì vậy nghiên cứu các vấn đề văn hóa, chúng ta không thể bỏ qua giá trị và giá trị văn hóa bởi đó chính là hình thái của đời sống tinh thần. Nó phản ánh và kết tinh đời sống văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần của con ngƣời. Nói nhƣ Ngô Đức Thịnh, giá trị là “những đánh giá mang tính chủ quan của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy theo những gì là cần, là tốt, là hay, là đẹp. Nói cách khác, đó chính là những cái được con người cho là Chân Thiện - Mĩ, giúp khẳng định và nâng cao bản chất con người” [79; tr38]. Nhƣ vậy, giá trị văn hóa còn gọi là giá trị xã hội, nó gắn bó với sự tồn tại và phát triển của mỗi xã hội. GS Trần Văn Giàu rất có lý khi gọi tên những “giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam là yêu nước, cần cù, anh hùng, sáng tạo, lạc quan, thương người”. Đó là những sắc màu khác nhau trong “bảng màu” tạo nên giá trị truyền thống đáng tự hào của dân tộc Việt Nam. Giá trị còn là một phạm trù tinh thần đƣợc con ngƣời nhận thức, đúc kết những kinh nghiệm, những va chạm với thực tiễn, dùng để phân biệt với những gì "phi giá trị”. Giá trị con ngƣời đƣợc nhận thức, sàng lọc, kết đọng qua “bộ lọc" của tâm thức văn hóa. Chỉ những gì là 15 hợp lý, hợp chuẩn mực, nhân đạo, nhân văn mới đƣợc gìn giữ, bảo lƣu, bảo tồn qua nhiều thế hệ, góp phần làm giàu thêm cho truyền thống văn hóa của dân tộc. Ngƣợc lại, những gì “phi giá trị", “kém giá trị” tất yếu sẽ bị đào thải không có sức sống bền lâu với thời gian. Do không phải là một phạm trù đơn lẻ, những giá trị hƣớng đến Chân - Thiện - Mĩ sẽ tạo nên một hệ giá trị. Hệ giá trị này có vai trò quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của xã hội. Nó giống nhƣ một "mao mạch” giúp con ngƣời không ngừng phấn đấu vƣơn lên để hoàn thiện chính mình. Trên cơ sở đó, mỗi cá nhân sẽ góp thêm một tiếng nói vào sự tiến bộ chung của cộng đồng. Soi chiếu vào văn học, chúng ta nhận thấy văn học là bộ phận của văn hóa, chịu ảnh hƣởng trực tiếp từ môi trƣờng văn hóa thời đại thì nhà văn - chủ thể sáng tạo lại là con đẻ của cộng đồng. Muốn hay không thì nhà văn cũng phải tiếp cận những thành tố của văn hóa cộng đồng. Cho nên, những sáng tác của họ sẽ luôn đƣợc tắm mình trong hệ giá trị. Đó chính là lí do để giải thích vì sao ngƣời tiếp nhận luôn hƣớng đến những giá trị thẩm mỹ - một phạm trù mỹ học gắn với sự tự biểu hiện độc đáo của chủ thể sáng tạo. Đặc biệt những giá trị này luôn luôn đƣợc đặt trên phông nền của giá trị truyền thống. Nói nhƣ nhà phê bình Trƣơng Đăng Dung thì giá trị thẩm mĩ chính là “tấm hộ chiếu” quyết định tác phẩm của thời đại này bƣớc sang thời đại khác và tiếp tục sự đào thải, lựa chọn thông qua hệ thống thẩm mĩ. Theo đó giá trị thẩm mĩ đích thực trong sáng tác văn học sẽ hƣớng con ngƣời tới Chân - Thiện - Mĩ, gắn liền với sáng tạo, xây dựng hình tƣợng con ngƣời theo cái đẹp và xác định một tiêu chuẩn đánh giá cái đẹp. Những sáng tác văn học vừa gắn liền với bản chất đặc thù nghệ thuật vừa mang đến cho đối tƣợng thƣởng thức một cảm nhận đúng hƣớng sẽ luôn tạo ra một “hiệu ứng” mỹ cảm nhất định trong lòng ngƣời đọc. Giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học sẽ đƣợc thế hệ sau nuôi dƣỡng, bồi đắp theo thời gian. Tuy nhiên, giá trị không phải là phạm trù tĩnh tại. Trong cuộc giao lƣu tiếp biến, bên cạnh những yếu tố nội sinh đƣợc cấy trồng và giữ lại, có những yếu tố chƣa phù hợp sẽ đƣợc cải biến cho phù hợp với thực tiễn hơn nữa, văn học còn nâng đỡ cho con ngƣời bằng một niềm tin, một tinh thần lạc quan về những giá trị vĩnh hằng có sức sống vƣợt thời gian, vƣợt qua sự băng 16 hoại. Bên cạnh đó, văn học còn viết về cái xấu, cái ác, “phản văn hóa”, “phản giá trị”. Do đó, sáng tác văn học còn có khả năng tác động, điều chỉnh các hành vi của con ngƣời trong mối quan hệ với môi trƣờng tự nhiên, xã hội và với chính mình. Soi chiếu phạm trù giá trị vào tác phẩm văn học sẽ giúp ngƣời nghiên cứu tránh đƣợc cái nhìn thiển cận trong việc bình giá những mô hình phản ánh. Bằng bảng màu giá trị sẽ ngấm sâu, “khúc xạ” trong sự rung động mãnh liệt của nhà văn, vào từng “mao mạch” trong quá trình sáng tạo của ngƣời nghệ sĩ. Ngƣợc lại với con đƣờng nhà văn đã đi, ngƣời thƣởng thức sẽ thụ cảm, tri nhận giá trị văn hóa ngôn ngữ, phong tục tập quán, lối sống, thói quen, tâm thức dân tộc, tâm lý cộng đồng. Điều đặc biệt, bảng màu giá trị không lung linh hiện hình một cách sắc nét nhƣ màu hữu hình của hiện thực đời sống. Nhiều khi nó ngầm ẩn trong mạch ngầm sâu thẳm của tâm thức cho nên ngƣời tiếp nhận phải biết phát hiện, nhận ra nó. Trong tổng thể chung của định hƣớng xã hội, văn hóa - văn học bao giờ cũng có mối quan hệ hữu cơ với các lĩnh vực khác của đời sống. Mặt khác, nếu coi văn hóa là “bộ chỉnh” bên trong của xã hội thì mọi động thái, mọi biến thiên, mọi rối loạn trong văn hóa đều để lại những hậu quả trực tiếp trong chính trị, kinh tế, đạo đức… từ đó rất có thể sẽ làm chệch hƣớng văn hóa. Nguy cơ "chệch hướng" trong văn hóa có thể hủy hoại sức sống một dân tộc, biến văn hóa dân tộc thành “bản sao” của dân tộc khác. Nói đúng hơn, nếu giá trị văn hóa không đƣợc định hƣớng đúng khiến văn hóa có nguy cơ “thay máu” thì cũng sẽ đẩy đến sự thay máu của cả hệ thống chính trị. Lúc đó, văn học đóng vai trò nhƣ một “bộ lọc” tin cậy để thẩm định giá trị văn hóa. Văn học còn biết đào thải những gì là “phi văn hóa”, “phản giá trị”. Nói cách khác, văn học có khả năng phê phán về văn hóa. Chúng ta đều biết văn hóa là một hiện tƣợng lịch sử, là một cấu trúc đa tầng. Bản thân văn hóa có những yếu tố bất biến, kết đọng thành dạng thức bên cạnh đó văn hóa cũng có mặt động, không ngừng nghỉ theo đà tiến hóa của văn minh. Vì thế nó không chấp nhận sự ngƣng đọng. Những cái gì thuộc giá trị văn hóa tích cực của ngày hôm qua ở một mặt nào đó rất có thể sẽ là cái chƣa phù hợp, phản văn hóa của ngày hôm nay. Ví dụ nhƣ: "trung, hiếu, tiết, nghĩa" là phạm trù văn hóa lâu đời nhƣng "ngu trung, ngu hiếu" là phản văn hóa. Nhƣ vậy, văn học có thể phát huy 17 vai trò thẩm định phê phán. Trong hiện trạng có nhiều biểu hiện văn hóa xuống cấp nhƣ hiện nay, nhất là những nguy cơ băng hoại giá trị đạo đức thì ngòi bút phê phán của văn học càng nên đƣợc mài sắc hơn bao giờ hết. Hơn nữa, nếu văn hóa là toàn bộ những gì do con ngƣời tạo ra thì văn hóa cũng chính là thƣớc đo của trình độ phát triển. Văn học đã mang trong mình một năng lực đặc biệt - năng lực sáng tạo văn hóa. Văn học sáng tạo văn hóa, không phải vì văn học có khả năng lƣu trữ những dữ liệu văn hóa của đời sống. Cao hơn, văn học góp phần quan trọng trong việc tạo nên giá trị văn hóa mà nổi lên hàng đầu là những giá trị nghệ thuật trong ngôn ngữ dân tộc và những giá trị nhân văn trong phẩm chất con ngƣời. Văn học xét theo một góc độ nhất định là ngệ thuật ngôn ngữ, mà ngôn ngữ lại là sản phẩm của một tiến trình văn hóa lâu dài của xã hội loài ngƣời, vừa là công cụ của sự phát triển văn hóa, vừa là một giá trị văn hóa hàng đầu. Văn hóa càng vƣơn lên trình độ cao thì ngôn ngữ càng trở nên phong phú, tinh tế hơn. Do đó, văn học đã phát triển diện mạo của văn hóa dân tộc qua ngôn ngữ. Trong sự cạnh tranh quyết liệt của các phƣơng tiện nghe, nhìn hiện đại, quỹ thời gian của con ngƣời rất eo hẹp song văn học vẫn có chân trời riêng của nghệ thuật ngôn từ. Nói nhƣ GS Trần Đình Sử “ngôn từ là phương tiện giao tiếp không gì cạnh tranh được”. Bản thân nghệ thuật ngôn từ đổi mới và phát triển sẽ kéo theo sự phát triển của văn hóa, tạo điều kiện cho văn học phát triển là bƣớc đột phá cho sự phát triển của đời sống văn hóa. Tuy nhiên, văn học là nhân học, do đó văn học còn hun đúc tạo nên giá trị văn hóa hàng đầu khác: đó là phẩm giá con người. Đây chính là phƣơng tiện khẳng định tác dụng chiều sâu của văn học trong quá trình xây dựng, phát triển nhân cách văn hóa. Văn học có tác dụng to lớn và sâu sắc giúp con ngƣời hiểu đƣợc ngƣời khác và hiểu đƣợc chính mình. Nếu nhƣ khoa học khai hóa nhận thức về tự nhiên, xã hội, về con ngƣời…thì văn học có thể cắt nghĩa những lí lẽ riêng của trái tim mà khoa học khó nắm bắt. Đời sống tâm hồn và tâm lý con ngƣời ngày càng trở lên phức tạp và nghệ thuật mới có thể soi thấu để chuẩn bị cho sự tự ý thức. Có những tác phẩm đọc xong ta thấy bàng hoàng vì nó giúp ta nhận ra chính mình. Văn học 18 có khả năng tác động tới sự tự ý thức của con ngƣời, cả về những mặt mạnh, mặt yếu, những tiềm lực lớn lao nhiều khi không ngờ tới, qua đó giúp con ngƣời hoàn thiện và phát triển chính mình. Văn học đã tạo ra những cuộc hành trình bên trong có ý nghĩa quyết định với sự cải tạo, hoàn thiện, phát triển bản thân. Nói cách khác nó có vai trò quan trọng để phát triển nhân cách văn hóa. 1.1.4. Phương pháp tiếp cận văn hóa học Xu hƣớng vận dụng các quan điểm và thành tựu văn hóa để lý giải văn học mới xuất hiện vào khoảng giữa thế kỷ XX mà ngƣời khởi xƣớng là M.Bakhatin, giáo sƣ văn học ngƣời Nga thuộc Đại học Saransk.Bakhtin quan niệm: “Trước hết, khoa học nghiên cứu văn học cần phải gắn bó chặt chẽ với lịch sử văn học. Văn học là một bộ phận không thể tách rời của văn hóa. Không thể hiểu nó ngoài cái bối cảnh nguyên vẹn của toàn bộ văn hóa một thời đại trong đó nó tồn tại” [10]. Phƣơng pháp tiếp cận văn học từ quan điểm văn hóa học ƣu tiên cho việc phục nguyên không gian văn hóa, trong đó tác phẩm văn học đã ra đời, xác lập sự chi phối của các quan niệm triết học, tôn giáo, đạo đức, chính trị, luật pháp, thẩm mỹ, quan niệm về con ngƣời…từng tồn tại trong một không gian văn hóa xác định đối với tác phẩm về các mặt xây dựng nhân vật, kết cấu, mô tuýp, hình tƣợng, ngôn ngữ … Phƣơng pháp này thiên về giải mã các hình tƣợng nghệ thuật, tìm ra nét thời đại của tác phẩm. Lịch sử nghiên cứu văn học đã chỉ ra rằng: Có nhiều con đƣờng, nhiều cách thức khác nhau để tiếp cận một tác phẩm văn học nhƣ: nghệ thuật học, phân tâm học, xã hội học, thi pháp học, văn hóa học …Trong mỗi lĩnh vực nghiên cứu chuyên biệt, mỗi góc nhìn đều có giá trị bình đẳng, cần thiết, bổ sung cho nhau và không loại trừ nhau. Tính hiệu quả, tính ƣu việt của mỗi cách tiếp cận đƣợc quy định bởi ngƣời nghiên cứu có xác định đúng đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu thích hợp và vận dụng, xử lý mối quan hệ giữa chúng với mục tiêu đặt ra. Do vậy cần có một cái nhìn toàn diện về góc nhìn văn hóa xuất phát từ yêu cầu của thời đại, đáp ứng và thừa nhận tác phẩm văn học nhƣ một bộ phận của văn hóa. 19 Tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hóa là phƣơng pháp đã xuất hiện khá lâu trong nghiên cứu văn học ở trong và ngoài nƣớc. Những thành tựu nghiên cứu đạt đƣợc từ phƣơng pháp này gần đây mới thực sự đƣợc chú ý ở Việt Nam. Phƣơng pháp tiếp cận tác phẩm văn học dƣới góc nhìn văn hóa không đơn thuần là việc dùng văn hóa để giải thích văn học mà quan trọng hơn là việc các nhà nghiên cứu văn học “vận dụng những tri thức về văn hóa để nhận diện và giải mã các yếu tố thi pháp của tác phẩm” và “đặt văn học vào bối cảnh rộng lớn của văn hóa - xã hội, hoặc trong ảnh hưởng qua lại của văn học đối với những hiện tượng văn hóa xã hội khác, từ đó làm nổi bật những sắc thái văn hóa phong phú được thể hiện trong tác phẩm văn học: hoặc giải mã khám phá những phù hiệu, biểu tượng hàm ẩn muôn vàn lớp nghĩa trầm tích của văn hóa trong văn bản văn học cụ thể " [11; tr7]. Cùng với thời gian, sự ra đời của các công trình nghiên cứu văn học Việt Nam trên cơ sở tìm hiểu những tác động và chi phối của văn hóa đã cho thấy tính ƣu việt của nó so với các cách tiếp cận tác phẩm văn học khác. Tiêu biểu nhƣ: Trần Đình Hƣợu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại, Nxb Văn hóa, Hà Nội. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn hóa, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, Hà Nội. Trần Lê Bảo (2011), Giải mã văn học từ mã văn hóa, Nxb ĐHQG Hà Nội. Nói nhƣ tác giả Trần Nho Thìn, trong cuốn Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa: “Phương pháp tiếp cận tác phẩm văn học dưới góc nhìn văn hóa ưu tiên cho việc giải mã các hình tượng nghệ thuật, tìm ra nền tảng văn hóa lịch sử của chúng, đồng thời cũng nhấn mạnh đến sự liên tục, tính chất mở của chúng trong không gian và thời gian”. [75; tr10]. 20 Nhƣ vậy, có thể tóm lƣợc nghiên cứu văn học dƣới góc nhìn văn hóa là đặt tác phẩm văn học đó gắn với thời đại văn hóa mà nó ra đời để từ đó giải mã những chi phối của văn hóa thời đại đến việc xây dựng tác phẩm văn học. 1.2. Khái lƣợc về văn xuôi Thạch Lam 1.2.1. Tiểu sử, con người nhà văn Thạch Lam Thạch Lam là một cây bút tiêu biểu của Tự lực văn đoàn và là một trong những gƣơng mặt lớn của văn học Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945. Những sáng tạo và đóng góp của ông rất có ý nghĩa đối với quá trình hiện đại hóa nền văn học nƣớc ta giai đoạn này. Thạch Lam tên khai sinh là Nguyễn Tƣờng Vinh, sinh ngày 7 tháng 7 năm 1910 tại Hà Nội, nhƣng nguyên quán ở làng Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dƣơng. Sau này khi làm lại giấy khai sinh để thi nhảy Tú Tài, ông mới đổi tên là Nguyễn Tƣờng Lân. Thi đỗ Tú Tài phần thứ nhất, vừa lúc hai anh mở báo, Thạch Lam liền thôi học, chuyển sang viết báo với anh. Bắt đầu cầm bút từ năm 1931, Thạch Lam viết cho hai tờ báo của nhóm Tự lực văn đoàn là Phong hóa, Ngày nay, ngoài ra còn viết cho một tờ báo khác. Tuy vậy mãi đến năm 1936 Thạch Lam mới viết truyện ngắn, đƣợc tuyển thành ba tập: Gió đầu mùa (1937), Nắng trong vườn (1938), Sợi tóc (1942); Tiểu thuyết Ngày mới (1939); Tập tiểu luận Theo dòng (1941); Tập ký Hà Nội băm sáu phố phường (1943) Và hai quyển truyện viết cho thiếu nhi: Quyển sách, Hạt ngọc. Cả hai đều do Nhà xuất bản Đời Nay ấn hành năm 1940. Thạch Lam còn đƣợc xem nhƣ là một trong số những ngƣời đầu tiên “giới thiệu tác phẩm Đi tìm thời gian đã mất của Marcel Proust”. Trƣớc khi qua đời năm 1942, Thạch Lam còn dự định viết cuốn Thập niên đăng hỏa, “Một thiên hồi ký kể lại thời kỳ suốt mười năm anh dan díu với ả phù dung” theo lời kể của Đinh Hùng - trong đó tác giả muốn kể lại “tấn bi kịch mà cũng là huyền thoại của những kẻ ít nhất cũng phải trải qua mười năm từ cả thiên đường lẫn địa ngục”. Tiếc rằng cái chết đến quá sớm đã không cho Thạch Lam hoàn thành đƣợc hồi kí đó. Thạch Lam ra đi ở cái tuổi quá trẻ nhƣng ông đã để lại cho nền văn học Việt Nam những trang văn lấp lánh cái tài, cái tâm của ngƣời cầm 21 bút. “ Thạch Lam mất đi không những là làng Việt nam thiệt một anh tài mà quốc dân ta cũng mất một phần tử tâm huyết và trung thành vậy.”( Huyền Kiêu) Trong kí ức của ngƣời thân và bạn bè, Thạch Lam luôn luôn hiện lên bóng dáng một con ngƣời từ tốn khiêm nhƣờng, với lối sống phong nhã, tài hoa, một con ngƣời “cao hơn một thước bảy mươi. Mắt sâu và buồn. Người chỉ cần cái phẩm hơn cái lượng…người yêu hoa cẩm chướng,… thích thơ Nguyễn Nhược Pháp, yêu văn Nguyễn Tuân". [95]. Nhà văn Thế Uyên (con trai bà Nguyễn Thị Thế, cháu gọi Thạch Lam là cậu), trong bài Tìm kiếm Thạch Lam, có đoạn: "Mẹ tôi bảo chú Thạch Lam mơ mộng, tế nhị, đa cảm, thì thủa nhỏ đã thế... Và chính ở đây (trại Cẩm Giàng) những người đàn ông ngồi uống trà, hút thuốc, nói chuyện tâm đắc... Có khi bàn chuyện văn chương, báo chí, có thể là chuyện cải cách dân tộc. Thường trong lúc ấy, Thạch Lam ngồi trong đám bạn văn thơ, bởi tính cách Thạch Lam chỉ có thế..." [95; tr43]. Nhà văn Vũ Bằng kể lại: "Thạch Lam yêu sự sống hơn bất kỳ ai. Anh quý từ cốc nước chè tươi nóng, trang trọng đưa lên miệng uống một cách gần như thành kính... như thể cảm ơn trời đất đã cho mình sống để thưởng thức ngon lành như vậy. Anh cẩn thận từng câu nói với cô bán hàng vì sợ lỡ lời...khiến người ta tủi thân mà buồn. Thạch Lam đi đứng nhẹ nhàng… Anh là một người độc đáo có tài lại khiêm nhường, người nhỏ mà nhân cách lớn..." [12]. Có lần Thạch Lam nói: "Xét cho cùng, ở đời ai cũng khổ. Người khổ cách này, người cách khác. Bí quyết là biết tìm cái vui trong cái khổ. Vì chỉ sống thôi cũng đã quý lắm rồi. Người ta không bao giờ nên phí phạm cái sống, coi thường sự sống". Có lẽ ít thấy tác giả nào, văn với ngƣời lại có một sự thống nhất nhƣ ở Thạch Lam. Dù viết tiểu thuyết, truyện ngắn hay tùy bút, bao giờ văn chƣơng Thạch Lam cũng tinh tế, nhẹ nhàng, sâu sắc nhƣ chính cuộc đời ông vậy. Đặc biệt truyện ngắn : “Nói đến nghệ thuật của Thạch Lam tức là nói đến nghệ thuật viết truyện ngắn của Thạch Lam… một số truyện ngắn Thạch Lam có thể coi như là mẫu mực 22 được” [95]. Hầu hết các nhà nghiên cứu xƣa và nay, miền Nam và miền Bắc, đều thống nhất với nhau ở một điểm: Sở trƣờng của Thạch Lam là truyện ngắn, tiểu thuyết của ông không mấy thành công. Riêng tập tùy bút Hà Nội băm sáu phố phường thì đƣợc coi là “kết tinh tư tưởng, quan niệm của Thạch Lam, mới cho độc giả thấy rõ nhà văn qua ngòi bút” [95]. Điều đó quả là đúng. Tha thiết, trân trọng, nâng niu đối với những gì nhỏ bé nhất, thơm thảo nhất góp phần tạo nên đất nƣớc, dân tộc, tinh tế, nhạy cảm trong cách thƣởng thức những giá trị văn hóa tƣởng chừng bình thƣờng, đƣa việc thƣởng thức “Quà Hà Nội” lên thành một nghệ thuật … đó là những gì ngƣời đọc sẽ bắt gặp trong Hà Nội băm sáu phố phƣờng của nhà văn. Với những đóng góp to lớn của nhà văn trong nền văn học dân tộc, năm 1996, ở Cẩm Giàng có một con đƣờng mang tên Thạch Lam. Đây là một việc làm mạnh dạn, là cách trân trọng nhà văn và văn chƣơng của ông. Hiện nay, truyện ngắn Hai đứa trẻ (in trong tập truyện Nắng trong vườn) của ông đang đƣợc giảng dạy ở lớp 11 trong hệ thống giáo dục Việt Nam. 1.2.2. Đặc điểm nghệ thuật và quan điểm sáng tác của Thạch Lam Là thành viên của Tự Lực văn đoàn, nhƣng khác với Nhất Linh, Hoàng Đạo, Khái Hƣng... ngòi bút của Thạch Lam có khuynh hƣớng đi gần với cuộc sống của những ngƣời dân bình thƣờng nghèo khổ. Trong Từ điển bách khoa toàn thư Việt Nam có đoạn viết: "Thạch Lam là một cây bút thiên về tình cảm, hay ghi lại cảm xúc của mình trước số phận hẩm hiu của những người nghèo, nhất là những người phụ nữ trong xã hội cũ, sống vất vả, thầm lặng, chịu đựng, giàu lòng hi sinh (Cô hàng xén). Có truyện miêu tả với lòng cảm thông sâu sắc một gia đình đông con, sống cơ cực trong xóm chợ (Nhà mẹ Lê ). Có truyện phân tích tỉ mỉ tâm lí phức tạp của con người (Sợi tóc). Ngày mới đi sâu vào nội tâm của một cặp vợ chồng trí thức nghèo. Chưa có truyện nào có ý nghĩa xã hội rõ nét như các tác phẩm của các nhà văn hiện thực phê phán. Theo dòng là một thiên tiểu luận viết kiểu tuỳ bút, ghi lại suy nghĩ của ông về nghệ thuật tiểu thuyết, có những ý kiến hay, nhưng chưa đi sâu vào khía cạnh nào. Cuốn Hà Nội băm sáu phố phường có phong vị đậm đà của quê hương xứ sở, lại rất gợi 23
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan