Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Văn hóa tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo lý sơn – quảng ngãi...

Tài liệu Văn hóa tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo lý sơn – quảng ngãi

.PDF
24
234
99

Mô tả:

DẪN LUẬN 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI VÀ TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Trong sự nghiệp đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế trên nhiều lĩnh vực, thì vấn đề gìn giữ những giá trị đặc trưng của văn hóa điều mang tính cấp bách và cần thiết, bởi văn hóa không chỉ là động lực, sức mạnh tổng hợp mà còn là cốt cách, bản sắc của dân tộc Việt Nam. Vì vậy, chúng tôi chọn đề tài: “Văn hóa tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi” làm luận án nhằm tìm hiểu các loại hình tín ngưỡng trong đời sống của cư dân Lý Sơn. Những giá trị văn hóa tín ngưỡng được dung hợp, tích hợp, thực dụng và linh hoạt trong quá trình giao lưu – tiếp biến từ các lớp văn hóa Sa Huỳnh, văn hóa Chăm, văn hóa Đại Việt trên vùng đất biển đảo này. Qua nghiên cứu, chúng ta sẽ hiểu rõ hơn vai trò tín ngưỡng của cư dân. Hơn thế, huyện đảo Lý Sơn lại gắn với lịch sử về việc xác lập chủ quyền của Việt Nam với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Kết quả nghiên cứu sẽ giúp “chắp nối” những đứt gãy từ truyền thống đến hiện đại, trả lại giá trị vốn có rất đặc trưng của Lý Sơn. Giúp các loại hình văn hóa tín ngưỡng này có điều kiện bảo tồn và phát huy giá trị, cũng như khẳng định và thừa nhận cái mới tích cực được tích hợp trong từng loại hình văn hóa tín ngưỡng này. Từ đó, đề xuất các kiến nghị nhằm bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa qua các loại hình tín ngưỡng trên đảo Lý Sơn, đó là những vấn đề mà người nghiên cứu quan tâm và sẽ công bố, mong muốn có những đóng góp khoa học và thực tiễn nhất định khi đề tài hoàn thành. 2. MỤC ĐÍCH, ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU - Mục đích nghiên cứu: hệ thống lại các tư liệu thành văn, những kết quả nghiên cứu để tìm ra những giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn. Nhận diện và lý giải một số hiện tượng của tín ngưỡng. Cung cấp thêm tư liệu về văn hóa tín ngưỡng cho công tác giảng dạy, học tập về văn hóa ở các trường, các viện nghiên cứu. Góp thêm tư liệu phục vụ cho công tác quản lý của các ban ngành chức năng huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi và Trung ương có những chính sách tốt hơn trong việc quản lý tín ngưỡng, tôn giáo. - Đối tượng nghiên cứu: các loại hình tín ngưỡng đặc trưng đã từng gắn bó trong đời sống cư dân Lý Sơn hơn vài trăm năm, nhưng đến nay vẫn được cư dân gìn giữ, duy trì, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng đó. Từ việc tìm hiểu những biến đổi của các loại hình tín ngưỡng đó, chúng ta thấy những điểm tương đồng và dị biệt so với những vùng khác ở Việt Nam. Từ đó, nêu lên và lý giải những đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng ở Lý Sơn. Luận án đã vận dụng các lý thuyết vùng văn hóa, sinh thái học văn hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa, chức năng luận vào thực tiễn những vấn đề cần nghiên cứu này. Bởi chính các yếu tố đó đã tác động đến loại hình kinh tế, ngành nghề theo từng 1 khu vực cư trú đã tạo nên những loại hình tín ngưỡng của từng khu vực nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh. - Phạm vi nghiên cứu: thời gian nghiên cứu về văn hóa tín ngưỡng của cư dân Lý Sơn cả lịch đại lẫn đồng đại. Về không gian nghiên cứu gồm ba xã: An Hải, An Vĩnh và An Bình. Những giá trị văn hóa tín ngưỡng của từng vùng là sự đúc kết, sáng tạo và tích lũy từ trong đời sống sinh kế của cư dân nhằm đáp ứng nhu cầu tâm linh thông qua hành vi giao tiếp và ứng xử bằng những nghi lễ, tập tục gắn liền với môi trường biển đảo Lý Sơn. 3. LỊCH SỬ NGHIÊN CỨU VẤN ĐỀ 3.1. Nhóm tài liệu viết về lịch sử, văn hóa, con người Quảng Ngãi Trước năm 1945, có các tác giả viết về Quảng Ngãi tỉnh chí như Nguyễn Bá Trác - Nguyễn Đình Chi - Khiếu Lựu Kiều in trong Nam phong tạp chí (1933) và sách Địa dư Quảng Ngãi của Nguyễn Đóa - Nguyễn Đạt Nhơn (1939) cũng được biên soạn nhiều vấn đề như văn hóa, tín ngưỡng, phong tục… của các cộng đồng tộc người ở Quảng Ngãi. Cuốn Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú (1960), Non nước xứ Quảng tân biên (1969) của Phạm Trung Việt đã viết về lịch sử xã hội hình thành tỉnh Quảng Ngãi, còn về Lý Sơn thì Ông đã viết: “trước năm 1604 thì Lý Sơn là một đảo hoang nên sau đó 15 vị tiền hiền từ đất liền ra khai hoang lập ấp”. Về tín ngưỡng, Ông chỉ nêu về tín ngưỡng đua ghe của cư dân nhân ngày giỗ Tổ mà thôi (Phạm Trung Việt, 1969, tr. 30). Cuốn Hải ngoại kỷ sự (1962) của Thích Đại Sán đã nghiên cứu từ những năm 1695 nhưng chủ yếu đề cập đến Cù lao Chàm, Quảng Nam, Hội An và vùng đất Thuận hóa, bởi những vùng này có bến tàu tập họp hàng hóa của người ngoại quốc, mà không đề cập đến đảo Lý Sơn. Cuốn sách Đại Nam nhất thống chí, (Người dịch: Phan Trọng Điềm, Người hiệu đính: Đào Duy Anh) của Quốc sử quán triều Nguyễn (1970), cuốn Đại Việt sử ký toàn thư (1971) của Ngô Sĩ Liên và các tác giả cũng đã có những ghi chép về lịch sử, địa lý, văn hóa vùng đất Quảng Nam (bao gồm cả Quảng Ngãi ngày nay), nhưng chưa đầy đủ. Sách Non nước xứ Quảng (1971) của Phạm Trung Việt đã viết về vùng đất Quảng Ngãi trên nhiều lĩnh vực từ lịch sử - kinh tế - văn hóa - chính trị, cũng như những phong tục tập quán tín ngưỡng của dân gian. Mặc dù tác giả chưa đi sâu vào những vấn đề cụ thể theo từng lĩnh vực. Sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục của Quốc sử quán triều Nguyễn (1998). Hoàng Việt nhất thống địa dư chí (Người dịch: Phan Đăng) của Lê Quang Định (2005). Luận án về Quá trình xác lập chủ quyền của Việt Nam tại Quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (2002) của Nguyễn Nhã đề cập đến đội Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn và nguồn gốc của người Việt đầu tiên từ cửa biển Sa Kỳ di dân ra đảo vào thế kỷ XVII. (Nguyễn Nhã, 2002, tr. 64 – 65). Sách Quảng Ngãi – một số vấn đề lịch sử văn hóa (2008) của Nguyễn Đăng Vũ đã tổng hợp những bài viết về con người và lịch sử, một số hiện tượng văn hóa dân gian của người Việt - Quảng Ngãi. 2 3.2. Nhóm tài liệu viết về văn hóa biển đảo Sách Biển với người Việt cổ của Phạm Đức Dương, Trần Quốc Vượng, Cao Xuân Phổ (1996) là công trình nghiên cứu văn hóa biển của người Việt cổ chủ yếu từ khảo cổ học. Sách Cộng đồng ngư dân ở Việt Nam của Nguyễn Duy Thiệu (2002) đã giới thiệu một cách tổng thể về quá trình hình thành và phát triển các nhóm ngư dân qua khảo sát một số làng chài để thấy cơ cấu tổ chức xã hội truyền thống và hiện nay. Điều này rất có ý nghĩa để xác định loại hình cư trú, kinh tế, văn hóa của cư dân ở Lý Sơn có những điểm giống và khác trong quá trình khảo sát nghiên cứu. Sách về Văn hóa biển miền Trung và văn hóa biển Tây Nam bộ (2008) đã xác định những đặc trưng văn hóa biển, tìm hiểu mối liên hệ với văn hóa Chăm và bước đầu luận giải những vấn đề liên quan. Sách Đời sống xã hội - kinh tế, văn hóa của ngư dân và cư dân vùng biển Nam Bộ (2014) của Phan Thị Yến Tuyết là một công trình nghiên cứu tổng thể về xã hội, kinh tế, văn hóa biển của cư dân và ngư dân vùng biển Nam Bộ với nhiều khía cạnh như dân cư, học vấn, cơ cấu lao động, phương tiện đánh bắt, khai thác hải sản, nghề nuôi trồng hải sản, tín ngưỡng, tôn giáo, tri thức dân gian, ẩm thực biển thông qua cách tiếp cận Nhân học biển. Về nghiên cứu văn hóa biển ở một địa phương thì có một số công trình như: Tục thờ cúng của ngư phủ lưới đăng Khánh Hòa (1970) của Lê Quang Nghiêm, Tục thờ cá voi ở các làng biển từ đèo Ngang đến đèo Hải Vân (1999) của Trần Hoàng, Văn hóa biển làng chài Nhượng Bạn (2000)của Trương Minh Hằng; Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa – Vũng Tàu” (2004) của Đinh Văn Hạnh - Phan An, Tín ngưỡng thờ Mẫu và nữ thần từ chiều kích văn hóa biển của vùng biển đảo Kiên Hải, Kiên Giang (2010) của tác giả Phan Thị Yến Tuyết;… Các công trình trên là nguồn tài liệu để người nghiên cứu hiểu hơn về văn hóa của ngư dân và cư dân trên khắp các vùng biển Việt Nam, để so sánh đối chiếu văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn nhằm tìm ra những đặc điểm và vai trò. 3.3. Nhóm tài liệu liên quan đến văn hóa tín ngưỡng Sách Văn hóa dân gian làng ven biển (2000) của Ngô Đức Thịnh đã trình bày về văn hóa dân gian các làng ven biển từ Quảng Ninh đến Thừa Thiên Huế, trong đó chú trọng đến người Việt với truyền thống văn hóa biển trong yếu tố cấu thành văn hóa biển cận duyên truyền thống ở Việt Nam. Đến năm 2001, Ngô Đức Thịnh (chủ biên) cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam với các loại hình tín ngưỡng ở Việt Nam. Trong phần tín ngưỡng tổ tiên, ông nêu “một hiện tượng khá bí ẩn nhưng được con người tin tưởng, đó là âm phù – người chết phù hộ cho người sống hay mối quan hệ giữa người sống và người chết cùng chung huyết thống lại càng gắn bó hơn” (Ngô Đức Thịnh, 2001, tr. 40). Đó cũng là đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng. Sách Văn hoá truyền thống đảo Lý Sơn (Nhiều tác giả, 2002) giới thiệu về văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần của cư dân Lý Sơn. Trong phần văn hóa tinh thần, đã đề cập đến phong tục 3 sinh hoạt tín ngưỡng trong gia đình, tộc họ và cộng đồng nhưng mang tính khái lược. Tuy vậy, đây là công trình bước đầu hỗ trợ tác giả định hướng trong nghiên cứu thực địa. Luận án Văn hóa dân gian của cư dân ven biển Quảng Ngãi (2003) của Nguyễn Đăng Vũ đã khảo sát, miêu tả và phân tích các giá trị văn hóa dân gian của người Việt vùng ven biển Quảng Ngãi trên các khía cạnh: tín ngưỡng – lễ hội, nghệ thuật dân gian, ngữ văn dân gian và nêu một số giá trị đặc trưng, giải pháp bảo tồn, phát huy những giá trị văn hóa, cũng trong luận án này tác giả cũng đề cập một số tín ngưỡng có liên quan ở huyện đảo Lý Sơn. Sách“Đại Nam nhất thống chí” do Quốc sử quán triều Nguyễn biên soạn đã nói đến con người vùng đất Quảng Ngãi nói chung và cư dân Cù Lao Ré nói riêng về phong tục tín ngưỡng cúng tổ tiên, cúng thần như sau:“Cư dân nơi đây có tục thích đồng bóng, ham hát tuồng, người ốm không uống thuốc, thường mời thầy cúng về nhà bày cúng để mong khỏi bệnh. Có việc vui mừng thì bày tiệc ăn uống và hát tuồng, không ngại phí tổn” (Quốc sử quán triều Nguyễn (tập 2), 2006, tr.474).Tư liệu từ sách này đã cung cấp thêm cho người nghiên cứu thông tin về địa lý, kinh tế, chính trị của vùng đất Quảng Ngãi thời trước. Sách Tín ngưỡng của cư dân ven biển Quảng Nam – Đà Nẵng (2009) của Nguyễn Xuân Hương đã cung cấp những tư liệu và thông tin về diện mạo và sinh hoạt tín ngưỡng trong đời sống với những đặc trưng qua các hình thái tín ngưỡng của cộng đồng cư dân ven biển Quảng Nam - Đà Nẵng, như tín ngưỡng thờ Tiền hiền có những tương đồng cúng tiền hiền ở xã An Vĩnh – Lý Sơn nhưng khác với xã An Hải trong thành phần tham gia nghi thức cúng. Tác giả đã nghiên cứu các hình thái tín ngưỡng của cộng đồng cư dân vùng ven biển Quảng Nam và Đà Nẵng trên phương diện hệ thống và chức năng với các nội dung như tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ Mẫu, Âm linh và Tiền hiền. Sách Văn hóa dân gian huyện đảo Phú Quốc và Lý Sơn (Trương Thanh Hùng & Phan Đình Độ, 2012) đã giới thiệu các loại tín ngưỡng văn hóa dân gian ở hai huyện đảo chứ chưa phân tích sâu về sự ảnh hưởng của chúng trong đời sống của cộng đồng. Đề tài về Đời sống tín ngưỡng của cư dân Việt ở đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi (Đề tài NCKH cấp trường, ĐH KHXH&NV, TP. HCM, 2013) mà người nghiên cứu là thành viên tham gia đã đóng góp một số khái quát về tín ngưỡng của cộng đồng và mối liên hệ với tín ngưỡng trong gia đình được thể hiện trong Lễ khao lề thế lính Hoàng Sa, cũng như việc cúng Âm hồn ở huyện đảo Lý Sơn. Đây cũng chính là phần mà trong luận án này người nghiên cứu đã kế thừa từ đề tài cấp trường để tiếp tục nghiên cứu chuyên sâu. Sách về Xứ đàng trong: lịch sử kinh tế – xã hội Việt Nam thế kỷ 17 – 18 (2014) của Li Tana đã trình bày những ảnh hưởng trong tín ngưỡng đối với Nho – Phật – Đạo, đặc biệt văn hóa tín ngưỡng Chăm góp phần củng cố cho các di dân người Việt về mặt tinh thần và tâm lý. Sách Văn hóa biển miền Trung - Việt Nam (2015) của Lê Văn Kỳ đã nghiên cứu văn hóa biển của người Việt trên địa bàn 14 tỉnh thành từ Thanh 4 Hóa đến Bình Thuận, với những vấn đề chung về biển; văn học dân gian vùng biển miền Trung; tục thờ phụng thần biển ở miền Trung... trong phần này tác giả đưa ra những loại hình tín ngưỡng có liên quan mật thiết đến luận án của chúng tôi như tín ngưỡng thờ cá Voi, tín ngưỡng thờ mẫu, tục thờ cúng âm linh và tục thờ cúng tiền hiền. Đây cũng là những công trình đã giúp người nghiên cứu có những dữ liệu so sánh đối chiếu với tín ngưỡng cá Ông ở huyện đảo Lý Sơn, từ đó tìm ra những giá trị đặc trưng riêng của vùng biển đảo này. Dưới đây, người nghiên cứu xin chia theo nhóm công trình của các loại hình tín ngưỡng liên quan trực tiếp đến luận án. Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng gia đình - dòng họ Sách Tín ngưỡng dân gian Huế (1995) của Trần Đại Vinh đã nêu việc thờ cúng tổ tiên, nghi thức lễ kỵ giỗ theo từng cách thờ phụng tổ tiên cũng khác nhau trong từng chi phái. Tư liệu này liên quan đến nghi lễ thờ cúng việc lề nên rất cần thiết để so sánh với tín ngưỡng cúng Việc lề ở huyện đảo Lý Sơn. Luận văn Lễ hội khao lề thế lính Hoàng Sa ở đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi (2011) của Cao Nguyễn Ngọc Anh thể hiện từ nghi lễ của dòng họ đến lễ hội cộng đồng, cũng như chức năng và vai trò của chúng. Trong cuốn Văn hóa, tín ngưỡng và thực hành tôn giáo người Việt (2015), tác giả Léopold Cadière viết về tín ngưỡng gia đình và cộng đồng của người Việt ở vùng đất Ngũ Quảng1 và ở vùng đất kinh đô Huế ngày xưa qua việc thể hiện nghi thức cúng, cách bài trí, linh vị thờ có những điểm tương đồng mà hiện nay cư dân Lý Sơn vẫn còn lưu giữ và thờ phụng trong tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên hay cúng việc lề. Sách về Văn hóa gia đình dòng họ và gia phả Việt Nam (2015) của Trường ĐHKHXH&NV – ĐHQG Tp.HCM và Viện Lịch sử Dòng họ góp phần giải quyết những vấn đề lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu gia đình, dòng họ và gia phả, từ đó phát huy và gìn giữ những truyền thống tốt đẹp. Trong đó, người nghiên cứu có bài tham luận về Tín ngưỡng cúng Việc lề trong gia đình, dòng họ của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi. Ngoài ra, bài viết Tín ngưỡng cúng Việc lề- một tâm thức về cội nguồn của cư dân Việt khẩn hoang tại Nam Bộ (Phan Thị Yến Tuyết, 1999, tr. 64) và Cúng Việc lề- một sinh hoạt văn hóa từ thời khẩn hoang của lưu dân người Việt (Qua cách thức cúng của họ Phan ở huyện Châu Thành – Long An) (Phan Kim Thoa, 2009, tr. 71-72) cũng giúp người nghiên cứu hiểu hơn quá trình hình thành và phát triển loại hình tín ngưỡng này trên mảnh đất Nam Bộ để so sánh với Lý Sơn. Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng Âm hồn Trong cuốn Đình Nam bộ xưa và nay (1999) đã đề cập đến các vị thần thờ phụng ở phương Nam, như Nam Hải Tướng Quân vốn có nguồn gốc từ người Chăm, là một vị thần được thờ cúng với Thủy Long Thần Nữ, Hà Bá Thủy Quan, Cửu Thiên Huyền Nữ, Thần Hổ,…Khi nói về âm hồn, Đạo giáo cho rằng 5 “âm hồn gồm mọi tầng lớp của xã hội, từ vua đến dân, từ người giàu đến người nghèo, từ con người đến côn trùng thú vật” (Huỳnh Ngọc Trảng – Trương Ngọc Tường, 1999, tr. 138). Âm hồn cũng có quyền năng chi phối đến cuộc sống của người dân nên phải cúng kiếng. Đối với cư dân Lý Sơn, “những âm hồn đó là những bậc linh thiêng, bề trên, sẽ trở thành phúc thần cho nhân dân nếu như họ được cúng lễ một cách chu đáo nên mới gọi là âm linh, cô bác” nên thể hiện niềm tin với đấng thiêng “vừa kính vừa sợ” qua nghi thức cúng Bạt thục hay cúng Chiêu hồn. Theo Đại từ điển tiếng Việt cho rằng: “tế có nghĩa là cúng dâng trọng thể, thường đọc văn cúng và có trống chiêng kèm theo” (Nguyễn Như Ý, 1999, tr. 1008). Như vậy, nghi thức tế lễ là một hành vi của tôn giáo, một nghi thức tỏ lòng thành kính đối với bậc “thiêng” để cầu mong những điều tốt đẹp. Theo đạo Phật thì thập loại cô hồn gồm mười loại của tứ sanh và lục đạo. Khái niệm này có nguồn gốc từ thuyết vạn vật hữu linh nên mọi vật đều có linh hồn. Còn sách Phong tục thờ cúng (2005) của Toan Ánh đã ghi: “Đối với người Việt cổ, chết chưa phải là hết, thể xác tuy chết đi nhưng linh hồn vẫn còn và vẫn hằng“lui tới”gia đình. Thể xác tiêu tan nhưng linh hồn bất diệt”. Đây chính là cơ sở để phong tục thờ cúng tổ tiên của người Việt phổ biến hay những vong linh của chúng sanh chết oan, từ đó xuất phát tục cúng âm hồn” (Toan Ánh, 2005, tr. 11). Về tín ngưỡng thờ cúng âm hồn của cư dân ven biển Quảng Ngãi nói chung và Lý Sơn nói riêng, bài viết Tục thờ cúng âm hồn dọc biển (2006) của Nguyễn Đăng Vũ đã khái quát về tục cúng âm hồn dọc biển Nam Trung Bộ và đưa ra những giá trị đặc trưng, giải pháp bảo tồn về loại hình tín ngưỡng này trong điều kiện môi trường sinh thái, văn hóa biển. Đối với Nho giáo thường biểu hiện quan điểm “thượng tôn nhân nghĩa” về việc cúng âm hồn. Khi tiếp cận từ quan niệm Phật giáo thì: “Chết đi là sự luân chuyển theo nghiệp của mình đã tạo trong đời trước… hay là sự biến chuyển từ cõi người trực vãng siêu thoát về miền Tây phương cực lạc, cõi vĩnh hằng ở Tây phương của A Di Đà” (Huỳnh Ngọc Trảng & Nguyễn Đại Phúc, 2013, tr. 14 -16). Luận văn Lễ cúng chẩn tế của Phật giáo ở Nam bộ dưới góc nhìn văn hóa (2010) của Phan Đình Đức đã nêu những giá trị mang tính nhân văn, tính dân tộc, tính địa phương của cộng đồng người Việt qua nghi thức cúng chẩn tế để cứu các vong linh. Vì vậy, để so sánh tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn tại Lý Sơn với đất liền hay vùng ven biển của Quảng Ngãi, người nghiên cứu cũng đã tham khảo luận văn về Tập tục thờ cúng Âm hồn của người Việt ở Tây Nam Bộ của Vũ Minh Tuấn (2012). Những tư liệu đó đã giúp người nghiên cứu hiểu rõ hơn về loại hình tín ngưỡng Âm hồn của cư dân huyện đảo Lý Sơn trong quá trình hình thành và phát triển với một môi trường sinh thái là nơi biển cả đã gắn liền với đời sống của cư dân. Luận văn Tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn của cư dân ven biển Quảng Ngãi dưới góc nhìn văn hóa (2013) của Phạm Tấn Thiên thể hiện nghi thức tế lễ Âm hồn của cư dân ven biển ở Quảng Ngãi như một tín ngưỡng có sự dung hợp 6 giữa Nho – Phật – Đạo. Trong cuốn Một góc nhìn về văn hóa biển (2014) của Nguyễn Thanh Lợi với 19 bài nghiên cứu được trình bày trên nhiều lĩnh vực từ địa danh học, đến hành trình về biển, rồi đời sống kinh tế và văn hóa tín ngưỡng của cư dân vùng biển. Những bài viết của tác giả đi vào từng loại hình tín ngưỡng trong văn hóa biển ở Nam Trung Bộ. Đặc biệt, bài Tục thờ cô hồn biển ở Nam Trung Bộ đã cho thấy cái nhìn tổng thể về tục thờ cô hồn từ Hà Tĩnh trở vào qua sự thích ứng của mỗi khu vực văn hóa – lịch sử trong quá trình hình thành nên loại hình tín ngưỡng này. Người nghiên cứu cũng đã công bố bài viết về Nghi thức tế lễ Âm hồn ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi nhằm cung cấp thêm những quan niệm về tín ngưỡng có liên quan đến Âm hồn, cũng như so sánh những tương đồng và khác biệt với tục cúng Âm hồn ở Nam bộ mà trước đó chúng tôi chưa tìm hiểu sâu, cũng như bổ sung thêm tư liệu điền dã trong những năm gần đây (Tác giả luận án, 2015, tr. 43). Như vậy, tín ngưỡng thờ cúng Âm hồn là một tín ngưỡng phổ biến ở miền Trung, có thể nhiều nhất ở những vùng ven biển, hải đảo bởi những nơi đó đầy trắc trở, hiểm nguy. Về sắc thái biểu hiện của mỗi vùng thì khác nhau do điều kiện môi sinh của cộng đồng gắn liền với điều kiện lịch sử của từng cộng đồng. Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng cá Ông Vào thế kỉ XIX, có hai công trình Đại Nam nhất thống chí của Quốc sử quán Triều Nguyễn và Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức cũng đã nhắc nhiều đến tục thờ cá Ông của cư dân miền biển nước ta. Sách Tục thờ cúng của ngư phủ Khánh Hòa (1970) của Lê Quang Nghiêm đã giới thiệu về tục thờ cá Ông của ngư dân địa phương. Đây là một hình thức tín ngưỡng chứa nhiều nét văn hóa đặc sắc của ngư dân vạn chài gắn với nhiều huyền thoại, cũng như thể hiện sự dung hợp của tín ngưỡng này với Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo. Sách Về tín ngưỡng và lễ hội cổ truyền (2007) của Ngô Đức Thịnh đã phân tích khá rõ về tục thờ cá Ông ở vùng ven biển miền Trung nước ta trở vào ở phương diện nguồn gốc lẫn hình thức biểu hiện. Liên quan đến tín ngưỡng thờ cúng cá Ông của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn, người nghiên cứu có bài viết Tín ngưỡng thờ cúng cá Ông ở Lăng Đông Hải – xã An Hải huyện đảo Lý Sơn in trong Kỷ yếu Hội thảo liên khoa Việt Nam học. Đó là bước đầu nghiên cứu của chúng tôi về loại hình tín ngưỡng này mà các học giả trước chưa đề cập đến như danh xưng về cá Ông hay việc ứng hay cầu ứng mỗi khi ông lụy vào như năm 2014 tại lăng Chánh – An Hải có danh xưng “Đại Tướng Huỳnh Long Hải Tôn Thần” [PL. Hình 107]. Sách Tín ngưỡng dân gian những góc nhìn (2014) của Nguyễn Thanh Lợi cũng có bài viết về tục thờ cá Ông. Tác giả đã phân tích từ đặc điểm sinh học cho đến nguồn gốc thờ cúng của loài cá này, cũng như hình thức thờ cúng và về kiến trúc lăng Ông cùng các hình thức diễn xướng dân gian. Sách Thần, người và đất Việt (2014) của Tạ Chí Đại Trường đã nói đến tục thờ cá Ông, được triều đình sắc phong là “trung đẳng thần”. Tác giả còn lưu ý trong 7 các dinh vạn ở miền Trung, ngoài tục thờ cá Ông thì các vị thần biển khác được phối tự, cũng như mối quan hệ giữa hai hình thức diễn xướng dân gian gắn với tục thờ cá Ông là hát bả trạo và hát bội. Về danh xưng và giống loài cá Ông ở Lý Sơn được người nghiên cứu lập bảng trong chương 2. Ngoài ra, tín ngưỡng cá Ông cũng được nhà thờ họ Đặng thờ cúng như vị phúc thần “Ngài Thủ tướng Đức Ngư”. Nhóm công trình đề cập đến tín ngưỡng thờ Mẫu Về nguồn gốc của tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam, bài viết Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam (1992) của Đinh Gia Khánh đã phân tích nguyên nhân hình thành nên tục thờ Mẫu này, có nguồn gốc từ truyền thống nông nghiệp lúa nước, có chức năng che chở, bảo trợ và sinh sôi giúp họ đảm bảo nhu cầu căn bản và những khát vọng của cuộc sống. Ngoài ra, có nhiều công trình như: Tín ngưỡng thờ Mẫu ở miền Trung Việt Nam (2001) của Nguyễn Hữu Thông, Đạo mẫu và các hình thức Shaman trong các tộc người ở Việt Nam và Châu Á (2004) của Ngô Đức Thịnh (chủ biên), Lên đồng hành trình của thần linh và thân phận (2007) của Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu Việt Nam (2009)(2 tập) - Ngô Đức Thịnh , Tháp Bà Thiên Y A Na hành trình của một nữ thần (2009) của Ngô Văn Doanh, Văn hóa tín ngưỡng thờ Mẫu ở Khánh Hòa (2010) của Nguyễn Văn Bốn, Tín ngưỡng thờ nữ thần của người Việt ở xứ Quảng (2011) của Nguyễn Xuân Hương, Văn hóa thờ nữ thần - mẫu ở Việt Nam và Châu Á bản sắc và giá trị (2013) của Ngô Đức Thịnh., Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Nam bộ bản sắc và giá trị (2014) của nhóm chủ biên Võ Văn Sen – Ngô Đức Thịnh – Nguyễn Văn Lên. Vì vậy, khi nghiên cứu về tín ngưỡng thờ Mẫu ở huyện đảo Lý Sơn nên chúng tôi cần tìm hiểu loại hình tín ngưỡng này để hiểu rõ hơn một số đặc trưng thông qua tư liệu điền dã cũng như những bài nghiên cứu của các học giả để tìm ra đặc điểm tín ngưỡng thờ Mẫu ở Lý Sơn. Việc nghiên cứu tín ngưỡng thờ Mẫu, đặc biệt là tục thờ cúng Thiên Y A Na tại huyện đảo Lý Sơn qua những huyền thoại, nghi thức thờ cúng và lễ hội mới hiểu được ra giá trị của nghi thức tế lễ này. Cho nên chúng tôi có bài viết Tục thờ cúng Thiên Y A NA của người Việt ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi in trong Tạp chí Phát triển Kinh tế - Xã hội Đà Nẵng, số 82/2016. Sự thể hiện sắc phong của Bà được cư dân thần thánh hóa trong các bài văn tế là “... thượng thượng thượng đẳng thần” chứ không như sắc phong của triều đình nhà Nguyễn là “trung đẳng thần hay thượng đẳng thần”. Từ những nguồn tư liệu về tín ngưỡng thờ Mẫu của nhà nghiên cứu đi trước được chúng tôi kế thừa, tham khảo trong luận án này để thấy được những điểm tương đồng và khác biệt so với vùng khác,cũng như đặc trưng riêng của tín ngưỡng thờ Mẫu nơi đây. Nhóm công trình liên quan đến cộng đồng và cộng đồng cư dân Sách Phát triển cộng đồng lý thuyết và vận dụng (2000) của Tô Duy Hợp, Lương Hồng Quang đề cập đến cộng đồng và phát triển cộng đồng bởi việc tạo 8 nên một cộng đồng chính là nhân tố đoàn kết xã hội, tương quan và cơ cấu xã hội. Hơn nữa, nhóm tác giả còn phân tích các thành phần tạo lập nên một cộng đồng. Để nghiên cứu vai trò của tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn thì chúng tôi sẽ xem xét theo từng khu vực cư trú, khu vực kinh tế nông, ngư đã ảnh hưởng và hình thành nên những yếu tố tín ngưỡng quan trọng trong gia đình - dòng họ nói riêng và cộng đồng cư dân nói chung. Cuốn Văn hoá dân gian làng ven biển (2000)của Ngô Đức Thịnh (chủ biên), là một công trình rất có ý nghĩa trong việc nhận diện sự tương đồng và khác biệt của ngư dân ven biển từ Bắc bộ đến Thừa Thiên Huế. Vì vậy, khái niệm làng cũng chính là không gian văn hóa, là nơi mà con người biết cách sinh tồn, phát triển trong điều kiện môi trường phù hợp. Điều đó đã giúp người nghiên cứu nhận diện không gian văn hóa của cộng đồng cư dân Lý Sơn rõ hơn, từ đó việc hình thành nên nét văn hóa riêng biệt, độc đáo qua văn hóa tín ngưỡng. Sách Cộng đồng ngư dân Việt ở Nam Bộ (2004) của Trần Hồng Liên (chủ biên) đã so sánh đối chiếu ngư dân Việt giữa hai làng biển ở Đông Nam Bộ và Tây Nam Bộ. Tác giả đã nghiên cứu cộng đồng ngư dân theo phương pháp nghiên cứu trường hợp ở hai cộng đồng ngư dân Phước Tỉnh (Bà Rịa-Vũng Tàu) và Vàm Láng (Tiền Giang), nhằm phân tích khá rõ quá trình hình thành và phát triển, đời sống kinh tế và xã hội, sinh hoạt văn hóa của ngư dân bản địa, đã thể hiện mối quan hệ giữa môi trường tự nhiên với nhiều lĩnh vực trong đời sống xã hội, văn hóa của ngư dân. Ngoài ra bài viết:Người Việt (Kinh) vùng ven biển miền Trung hội nhập cùng biển cả: Trường hợp nghiên cứu ở Ninh Thuận, Bình Thuận” của Nguyễn Duy Thiệu; Thích ứng với biển của người Việt - nhìn từ khía cạnh sinh kế và tín ngưỡng thờ thần biển của cư dân ven biển (khảo sát từ một số cộng đồng ngư dân ven biển Trung Bộ, Việt Nam của Trần Thị An (2015), Tính cộng đồng trong hoạt động đánh bắt xa bờ của ngư dân ven biển miền Trung cả Bùi Xuân Đính (2016)... đã có những góc nhìn và tư liệu quý về ngư dân Việt vùng Nam Trung Bộ để người nghiên cứu tham khảo cho luận án. Khi nói đến mối quan hệ giữa cộng đồng và cá nhân thì sự thể hiện biểu tượng trong tín ngưỡng sẽ được hiển bày trong tín ngưỡng như một “ký hiệu văn hóa” qua phẩm vật cúng. Sách Lễ hội cổ truyền của người Việt, cấu trúc và thành tố (2013) của Nguyễn Chí Bền là một công trình dày công khảo cứu, sưu tầm, nghiên cứu lễ hội cổ truyền Việt Nam. Từ công trình này, có thể nhận diện chủ thể và khách thể khá đa dạng trong lễ hội, những nhân vật được thờ phụng trong lễ hội, cùng với những thành tố tạo nên tính thiêng của lễ hội. Vì vậy, phần Cấu trúc lễ hội cổ truyền của người Việt thì Ông đã sử dụng lý thuyết cấu trúc luận và chức năng luận để làm sáng tỏ cấu trúc và thành tố của lễ hội thông qua diễn trình thời gian và lát cắt không gian. Điều này rất có ý nghĩa cho việc nghiên cứu, nhận diện các thành tố, giá trị của lễ hội của cư dân huyện đảo Lý Sơn thông qua cách tiếp cận này. Sách Lễ hội truyền thống của người Việt ở Đồng Bằng Sông Cửu Long vấn đề bảo tồn và 9 phát triển (2014) của Nguyễn Xuân Hồng đã nói lên quá trình cộng cư đan xen, sinh sống của cư dân nên có những dấu ấn văn hóa trong quá trình giao lưu, tiếp biến văn hóa tộc người. Bởi môi trường sinh thái tự nhiên – xã hội nơi đây đã hình thành nên đặc trưng của lễ hội truyền thống phù hợp với môi trường đó. Để tiếp cận lễ hội thì cần phải xem xét vấn đề phân loại lễ hội, cấu trúc lễ hội, hình thái học lễ hội, cấu trúc xã hội tham gia lễ hội và sự biến đổi lễ hội theo tiến trình thời gian. Chúng tôi tham khảo một số công trình, bài viết liên quan đến lễ hội như Đình miếu và lễ hội dân gian miền Nam (1990)của Sơn Nam, Lễ hội dân gian của người Việt ở Nam bộ (2003) của Huỳnh Quốc Thắng, Lễ hội dân gian của ngư dân Bà Rịa-Vũng Tàu (2004) của Đinh Văn Hạnh - Phan An cũng đã phân tích về lễ hội giữ một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của ngư dân, giúp họ ổn định phát triển và thay đổi để phù hợp nhu cầu cuộc sống. Ngoài ra, còn có những công trình, tài liệu liên quan đến sự biến đổi và giá trị cũng như vấn đề bảo tồn và phát huy tín ngưỡng với tư cách là di sản văn hóa phi vật thể. Đây là phần tổng kết để rút ra những đặc điểm, những giá trị của tín ngưỡng trong gia đình – dòng họ, tín ngưỡng cộng đồng cư dân huyện đảo Lý Sơn. Bởi văn hóa tín ngưỡng luôn biến đổi để đáp ứng nhu cầu tinh thần của con người, thì người nghiên cứu tham khảo cuốn Sự biến đổi của tôn giáo tín ngưỡng ở Việt Nam hiện nay (2008) của nhiều tác giả đã cho thấy sự thay đổi vấn đề tôn giáo tín ngưỡng từ nhiều góc độ khác nhau, các tác giả đã vận dụng phương pháp điền dã dân tộc học, như quan sát và tham dự để có nguồn tư liệu chính xác. Trong sách này cũng có bài viết về sự biến đổi tôn giáo tín ngưỡng nước ta hiện nay gắn liền với bối cảnh phát triển của đời sống xã hội, nhu cầu kinh tế, địa vị cá nhân, sự thay đổi môi trường sống,… đã giúp chúng tôi nhận diện những nguyên nhân, nội dung biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng hiện nay của cư dân. Vì vậy, tư liệu này đã giúp chúng tôi thực hiện phương pháp nghiên cứu, kĩ năng phân tích những vấn đề biến đổi trong sinh hoạt tín ngưỡng ở huyện đảo Lý Sơn. Sách Bảo tồn, làm giàu và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam trong đổi mới và hội nhập (2010) của Ngô Đức Thịnh (chủ biên) đã đưa ra một số giá trị văn hóa cơ bản của tôn giáo, tín ngưỡng, lễ hội cổ truyền. Đồng thời, nêu những giải pháp nhằm bảo tồn, làm giàu, phát huy các giá trị văn hóa truyền thống Việt Nam. Tóm lại, những nguồn tư liệu trên nhằm tham khảo để thực hiện luận án này. Bởi nguồn tài liệu khá đa dạng ở nhiều khía cạnh khác nhau từ lý thuyết, quan điểm tiếp cận cho đến tư liệu dân tộc học. Những tài liệu của các chuyên gia nghiên cứu thuộc nhiều lĩnh vực và cách tiếp cận liên ngành và có tính khoa học cao. Người nghiên cứu sẽ quan tâm ở góc độ ngành văn hóa học. Một số tài liệu như sách vở, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ, bài viết ở các hội thảo, tạp chí mang tính cập nhật và góp cho người viết luận án có nhiều tư liệu cũng như góc 10 nhìn mới hơn, có tính khoa học hơn cũng như sự ảnh hưởng đến chất lượng của luận án. 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU - Tiếp cận liên ngành (Interdisciplinary approach) để tìm hiểu về văn hóa tín ngưỡng, như ngành Địa lý học, ngành Sử học, ngành Tôn giáo học, ngành Nhân học, ngành Tâm lý … Ở mỗi ngành gần đó, chúng tôi sẽ tiếp cận vấn đề với việc vận dụng các khái niệm, các lý thuyết, các phương pháp nghiên cứu riêng phù hợp với từng ngành, nhưng trong quá trình thực hiện luận án này thì người nghiên cứu theo hướng chuyên ngành Văn hóa học. - Nghiên cứu định tính (Qualitative research) với các phương pháp và kỹ thuật thu thập thông tin qua nghiên cứu lời kể (narrative research), quan sát - tham dự (participant and observation), phỏng vấn sâu (in – depth interviewing) hơn 50 cuộc với những cư dân sinh sống tại Lý Sơn, phỏng vấn lịch sử hồi cố (oral history) để nghe những thông tin về cuộc sống cũng như văn hóa tín ngưỡng của gia đình – dòng họ và cộng đồng, qua hồi ức của người sống lâu năm tại Lý Sơn, ghi chép ở thực địa (fieldnotes), ghi âm, chụp hình ảnh... để có bức tranh văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện Lý Sơn. Người nghiên cứu đã qua các đợt khảo sát thực địa, tham dự trực tiếp trong những năm 2012, 2013, 2015, 2016 và năm 2017 để có cứ liệu thực tiễn nhằm miêu tả, phân tích – tổng hợp lượng thông tin thu thập được, đã có cuộc khảo sát bằng cách phát 100 phiếu để làm cứ liệu. Ngoài ra, chúng tôi còn dựa vào tài liệu văn bản của các nhà nghiên cứu đi trước kết hợp thông tin chuyển tải trên mạng Internet. - Phương pháp so sánh đối chiếu (Comparative method) nhằm vận dụng lý thuyết văn hóa vùng để nhận diện, phân chia và tìm hiểu các hiện tượng tương đồng và khác biệt thông qua so sánh lịch đại, đồng đại trong các hiện tượng văn hóa tín ngưỡng. Bởi yếu tố vùng miền và điều kiện tự nhiên, môi trường xã hội đã có những tương đồng và dị biệt trong văn hóa. Từ đó, rút ra những đặc điểm, vai trò của văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn. - Một số giả thuyết khoa học liên quan đến luận án với một số câu hỏi nhằm để giải quyết mục tiêu của luận án như sau: - Các dạng thức tín ngưỡng có mối quan hệ với môi trường sinh thái – văn hóa của cộng đồng cư dân huyện đảo Lý Sơn? - Những yếu tố văn hóa truyền thống nông nghiệp và ngư nghiệp kết hợp với những điều kiện tự nhiên và điều kiện kinh tế xã hội của vùng đất này có tạo nên diện mạo đặc trưng cho hệ thống tín ngưỡng cư dân nơi đây? - Có thể nhận diện và lý giải một số hiện tượng của tín ngưỡng thông qua nghi thức tế lễ, phẩm vật cúng hay thành phần tham dự không? - Các tín ngưỡng Lý Sơn đã biến đổi như thế nào trong suốt hàng trăm năm tồn tại, phát triển của cư dân? 11 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN - Ý nghĩa khoa học của đề tài. Văn hóa của một tộc người không chỉ là sự kế thừa theo thời gian mà là sự chọn lựa trong quá trình giao lưu, tiếp xúc giữa các tộc người trong suốt chiều dài lịch sử, cũng như chịu sự chi phối bởi môi trường tự nhiên và môi trường xã hội nơi tộc người sinh sống. Mặt khác, cùng một tộc người nhưng hoạt động kinh tế cũng có những khác biệt trong văn hóa. Vì vậy, cư dân Lý Sơn đã trải qua hàng thế kỷ với vùng đất này để thích ứng với môi trường sinh thái mới, sáng tạo cho mình một phức hợp văn hóa nhằm góp phần tạo nên những gía trị văn hóa của cư dân Lý Sơn. Nghiên cứu tín ngưỡng không chỉ hiểu biết về văn hóa của cư dân trong suốt chiều dài lịch sử mà còn phát huy những khía cạnh phù hợp trong bối cảnh hiện nay. - Ý nghĩa thực tiễn của đề tài Văn hóa Việt Nam là một nền văn hóa được tích hợp bởi 3 yếu tố: núi, đồng bằng và biển. Vốn là một quốc gia có truyền thống làm nông nghiệp, hoạt động sản xuất nông nghiệp phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do đó, khi khoa học kỹ thuật còn chưa phát triển thì các sự vật hiện tượng tự nhiên đã được cư dân nông nghiệp thần thánh hóa để trở thành các đối tượng được tôn kính và thờ cúng. Đến vùng đất Trung Bộ, do yếu tố địa hình qui định nên bên cạnh các tín ngưỡng liên quan đến nông nghiệp như thờ thần đất, thần sông, thần núi, … thì bắt đầu xuất hiện các tín ngưỡng cư dân đi biển đan xen như tín ngưỡng thờ thần biển, thờ cá Ông… Đặc biệt, ở huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi có vị trí địa lý, yếu tố sinh thái văn hóa đã hình thành nên một hệ thống tín ngưỡng đa dạng trong đời sống văn hóa tinh thần của cư dân. Những đóng góp mới từ kết quả nghiên cứu của luận án, nghiên cứu về văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn được một số tác giả đề cập trong một số công trình nghiên cứu nhưng chủ yếu theo hướng tiếp cận từ góc độ nhân học/ dân tộc học… Vì vậy, việc tiếp cận của đề tài tiếp cận từ góc độ văn hóa học là hướng nghiên cứu mới nhằm góp phần trong việc quản lý, bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn – Quảng Ngãi. Luận án sử dụng các lý thuyết như vùng văn hóa, sinh thái học văn hóa, giao lưu tiếp biến văn hóa, chức năng luận để phân tích đối tượng nghiên cứu cụ thể và sâu sắc hơn. Việc vận dụng các phương pháp tiếp cận liên ngành, phương pháp nghiên cứu định tính, phương pháp so sánh đối chiếu… trong luận án nhằm lý giải, phân tích và giải quyết vấn đề. Nguồn tư liệu được thu thập, khảo sát, phỏng vấn trong những năm qua cũng có ý nghĩa thực tiễn, nhằm nêu lên những nội dung với các dạng thức tín ngưỡng trên địa bàn huyện đảo Lý Sơn. Đây là tài liệu có giá trị về đời sống văn hóa tín ngưỡng của cư dân Lý Sơn cho HVCH, NCS, SV các ngành Dân tộc học, Nhân học, Văn hóa học, Việt Nam học. Kết quả luận án có một số phát hiện khá thú vị, việc thờ cá Ông tại nhà thờ họ Đặng như một vị phúc thần. Điều này các nhà nghiên cứu về tín 12 ngưỡng ở khu vực Đông Nam Bộ và Nam bộ chưa phát hiện, hay sự chuyển đổi hay kết hợp giữa tín ngưỡng gia đình – dòng họ và tín ngưỡng cộng đồng. Ngoài ta, tầm quan trọng của Shaman giáo đã ảnh hưởng đến các loại hình tín ngưỡng gia đình – dòng họ và cộng đồng ở địa bàn nghiên cứu. 6. KẾT CẤU VÀ QUY CÁCH TRÌNH BÀY LUẬN ÁN Phần chính văn: ngoài phần Dẫn nhập và Kết luận, luận án có kết cấu 3 chương. Chương 1. Cơ sở lý luận và tổng quan về huyện đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi, gồm các khái niệm liên quan đến tín ngưỡng, văn hóa tín ngưỡng, thờ cúng và các lý thuyết nghiên cứu liên quan. Ngoài ra, từ thực tiễn về điều kiện tự nhiên, lịch sử hành chính, đặc điểm cư dân và tôn giáo tín ngưỡng của vùng đất, con người Lý Sơn này đã ảnh hưởng trực tiếp đến văn hóa tín ngưỡng của cư dân. Chương 2. Các dạng thức tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn. Người nghiên cứu trình bày về tín ngưỡng trong gia đình – dòng họ và cộng đồng của cư dân, như thờ cúng việc lề (tổ tiên), tế lễ âm hồn, thờ cúng cá Ông, tục thờ cúng Thiên Y A Na. Từ đó, có những cứ liệu để so sánh những tương đồng và dị biệt các dạng thức tín ngưỡng đó so với những vùng khác. Chương 3. Đặc điểm và vai trò của tín ngưỡng trong đời sống văn hóa của cư dân huyện đảo Lý Sơn. Người nghiên cứu nêu một số đặc điểm trong văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn. Bởi qua các dạng thức tín ngưỡng thể hiện sự tích hợp về tư tưởng và ý nghĩa của Phật - Đạo - Nho thể hiện qua nghi lễ trong tín ngưỡng. Bên cạnh đó tính dung hợp thể hiện rõ qua tín ngưỡng cúng Việc lề, tế lễ âm hồn, tín ngưỡng cá Ông và tục thờ cúng Thiên Y A Na. Tính thực dụng được thể hiện trong việc thờ cúng Việc lề đến lễ khao lề thế lính Hoàng Sa cũng như ý thức về việc bảo vệ chủ quyền biển đảo Việt Nam. Tính linh hoạt thể hiện từ sự chuyển đổi và kết hợp trong tín ngưỡng giữa nông nghiệp và ngư nghiệp cũng như từ tín ngưỡng gia đình – dòng họ đến cộng đồng. Điều đó cho thấy vai trò của văn hóa tín ngưỡng là đáp ứng nhu cầu tâm linh, cố kết cộng đồng cũng như bảo tồn và trao truyền những giá trị văn hóa truyền thống cho các thế hệ hiện nay. Phần tài liệu tham khảo gồm 20 trang có 266 tài liệu. Phần Phụ lục gồm những tư liệu thu thập từ điền dã thực tế chia làm 3 phụ lục gồm phỏng vấn sâu (125 trang), hoành phi câu đối (13 trang) và hình ảnh (28 trang). Về cách thức ghi dẫn nguồn, người nghiên cứu đặt ngay sau ý hoặc đoạn trích dẫn theo hướng dẫn trong quy chế với phương thức sau: (tên tác giả, năm xuất bản, trang..), chẳng hạn ( Ngô Văn Lệ, 2017, tr...). Ngoài ra, chúng tôi có dẫn nguồn tư liệu trong phần Phụ lục bao gồm Biên bản phỏng vấn, Tư liệu điền dã và Phiếu điều tra, cụ thể: (PL-BBPV số....) có nghĩa là Phụ lục - Biên bản 13 phỏng vấn số....; (PL-TLĐD số....) có nghĩa là Phụ lục-Tư liệu điền dã số....; (PL - PĐT số...) có nghĩa là Phụ lục - Phiếu điều tra số... CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ TỔNG QUAN VỀ HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN, TỈNH QUẢNG NGÃI 1.1. Các khái niệm - Tín ngưỡng Tín ngưỡng (belief) là một yếu tố quan trọng trong đời sống tinh thần của con người, như một hiện tượng văn hóa nhằm phản ánh niềm tin, ước vọng của con người. Thế nhưng, do cách tiếp cận của mỗi ngành nên khái niệm tín ngưỡng chưa được thống nhất. Nhưng tín ngưỡng là bộ phận quan trọng của tôn giáo, nằm trong khái niệm tôn giáo, là cơ sở hình thành tôn giáo với hình thức tôn giáo sơ khai như: tô tem giáo, bùa và lễ ám hại, chữa bệnh bằng phù phép, thờ cúng tổ tiên, Shaman giáo, hay thờ thần thủ lĩnh và thờ thần nông. Theo luật tín ngưỡng, tôn giáo (2017) đã viết: “Tín ngưỡng là niềm tin của con người được thể hiện thông qua những lễ nghi gắn liền với phong tục, tập quán truyền thống để mang lại sự bình an về tinh thần cho cá nhân và cộng đồng, và hoạt động tín ngưỡng là hoạt động thờ cúng tổ tiên, các biểu tượng linh thiêng, tưởng niệm và tôn vinh người có công với đất nước, với cộng đồng, các lễ nghi dân gian tiêu biểu cho những giá trị lịch sử, văn hóa, đạo đức xã hội”. (Quốc Hội Nước CHXHCNVN, 2017, tr. 8). Vì vậy, chúng tôi cho rằng tín ngưỡng là niềm tin, sự ngưỡng vọng của con người vào những cái siêu nhiên hay cái thiêng trong đời sống tâm linh của con người, khi tín ngưỡng chưa có hệ thống giáo lý mà chỉ có các huyền thoại, thần tích, truyền thuyết. Tín ngưỡng mang tính chất dân gian, gắn với sinh hoạt văn hóa dân gian nhằm thể hiện thông qua văn hóa giao tiếp giữa thế giới thần linh và con người, nơi thờ cúng và nghi lễ nhưng chưa chặt chẽ. Con người hướng đến thần linh, đấng thiêng nhằm thể hiện niềm tin của mình để mong cầu sự bình an. -Văn hóa tín ngưỡng Dưới góc nhìn văn hóa, văn hóa tín ngưỡng đã thể hiện sự gắn bó và tác động qua lại giữa văn hóa và tín ngưỡng như thể hiện trong văn hóa giao tiếp và văn hóa tâm linh. Bởi những đối tượng sùng bái, thờ phụng được thể hiện niềm tôn kính từ niềm tin, ước nguyện của cư dân qua việc sắp xếp lễ vật, nghi thức khấn vái, thành phần tham dự. Đây là sự thể hiện văn hóa, còn tín ngưỡng nhằm mang lại tính thiêng. Những hoạt động tín ngưỡng nhằm xóa đi sự ngăn cách giữa con người để khơi dậy tinh thần tự nguyện. Trong cuốn Tín ngưỡng và văn hóa tín ngưỡng ở Việt Nam đã viết: “Tương ứng với các cộng đồng tôn giáo tín ngưỡng… đều có các dạng thức văn hóa tương ứng. Bản thân các tôn giáo tín ngưỡng đã là một hình thức văn 14 hóa đặc thù. Đấy là chưa kể, trong quá trình hình thành và phát triển, mỗi tôn giáo tín ngưỡng bao giờ cũng sản sinh, tích hợp trong nó những hiện tượng, những sinh hoạt văn hóa nghệ thuật”. (Ngô Đức Thịnh (chủ biên), 2006, tr. 28). Như vậy, văn hoá tín ngưỡng là sự gắn kết từ một hình thức tín ngưỡng nào đó qua sự tích hợp tổng hòa các giá trị văn hoá vật chất và văn hóa tinh thần cùng tồn tại như một tổng thể văn hoá. Vì vậy, chúng tôi hiểu văn hóa tín ngưỡng là hệ thống giá trị qua những phương cách ứng xử của con người với thế giới siêu nhiên hay xã hội có liên quan đến môi trường tự nhiên và xã hội của một cộng đồng cư dân. Bên cạnh đó, Thờ cúng cũng là hành vi thể hiện lòng thành kính của con người trong tín ngưỡng và tôn giáo, như Hoàng Phê đã viết: “Thờ cúng là tỏ lòng thành tôn kính thần thánh, vật thiêng hoặc linh hồn người chết bằng hình thức lễ nghi, cúng bái theo phong tục hoặc tín ngưỡng như thờ tổ tiên, thờ Phật, thờ Thần trên bàn thờ hay đền thờ hay thờ cúng là thể hiện sự tôn kính và coi là thiêng liêng như việc thờ cha kính mẹ”. (Hoàng Phê, 1992, tr. 318). Theo chúng tôi, thờ cúng cũng có những dạng tín ngưỡng “vừa thờ vừa cúng” nhằm thể hiện lòng thành kính với tổ tiên, thần linh, nhưng cũng có dạng tín ngưỡng như âm hồn chỉ “cúng tế” chứ không “thờ phụng”. Vì vậy, việc thờ cúng là hành vi thể hiện lòng tôn kính với đấng thiêng, những vong linh, đồng thời để thể hiện nguyện vọng chính đáng của cư dân Lý Sơn trước cuộc sống đầy rẫy những khó khăn, bất trắc. 1.2. Lý thuyết nghiên cứu Trong nghiên cứu luận án, chúng tôi tiếp cận theo hướng sinh thái học văn hóa (Cultural ecology), lý thuyết vùng văn hóa (Cultural Area), giao lưu và tiếp biến văn hóa (Cultural Exchanges and Acculturation), Chức năng luận (Functionalism) để tìm hiểu văn hóa tín ngưỡng. 1.3. Lý Sơn - vùng đất và con người Về điều kiện địa lý, đặc điểm kinh tế - xã hội văn hóa đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống cộng đồng Lý Sơn, bới nó gắn liền với môi trường sinh thái, địa văn hóa nên cư dân đã hình thành các dạng thức tín ngưỡng phong phú về nhân thần, thiên thần, nhiên thần… Theo tài liệu cổ thì lịch sử hành chính đảo Lý Sơn có tên gọi là Du Trường Sơn. Thời các chúa Nguyễn thì đảo Lý Sơn gọi là Cù lao Ré, rồi tổng Lý Sơn thuộc phủ Bình Sơn. Từ sau ngày thống nhất đất nước năm 1975 đến nay đã nhiều lần thay đổi tên xã nhưng đến năm 2003 thì huyện đảo Lý Sơn có ba xã gồm An Hải, An Vĩnh và An Bình. Về cư dân Lý Sơn, theo cuốn Địa chí Quảng Ngãi đã viết:“Cách nay 2500 năm – 3000 năm ở đảo Lý Sơn đã có cư dân, có lẽ đó là chủ nhân của văn hóa Sa Huỳnh. Cư dân sống dọc các suối cổ, bắt ốc bắt cá, có thể có cả canh tác 15 nông nghiệp để sinh sống. Kế tiếp đó là lớp cư dân Chămpa cũng sống bằng nghề khai thác hải sản và trồng rau củ, hoa màu”. (UBND tỉnh Quảng Ngãi, 2008, tr. 105). Trong cuốn Quảng Ngãi, đất nước con người và văn hóa cho biết thêm về người Việt từ miền Bắc di cư vào Quảng Ngãi theo 3 đợt: “từ thời nhà Hồ đến vua Lê Thánh Tông rồi đợt Nguyễn Hoàng vào Nam mở mang vùng đất phương Nam. Ngoài ra, còn có những cuộc di dân tự do của nông dân miền Bắc”. (Sở Văn hóa thông tin Quảng Ngãi, 2002, tr. 46-58). Sau đó, những cư dân Việt đến đảo Lý Sơn vào khoảng cuối thế kỷ XVI đầu thế kỷ XVII để khai hoang lập ấp và thiết lập bộ máy chính quyền để quản lý. Đến năm 1975 thì cơ cấu tổ chức của làng đã thay đổi. Về tôn giáo, tín ngưỡng hiện có 9 cơ sở thờ tự tôn giáo và 43 cơ sở thờ tự tín ngưỡng cổ truyền. Tiểu kết chương 1 Từ những cơ sở lý thuyết và thực tiễn về vùng đất biển đảo Lý Sơn, cho chúng ta hiểu về văn hóa, lịch sử của cộng đồng cư dân. Những tác động từ môi trường sinh thái, địa văn hóa, sử văn hóa, đặc điểm tộc người, nơi cư trú, phương thức sản xuất gắn với ngành nghề đã hình thành nên tín ngưỡng. Trong quá trình giao lưu tiếp biến văn hóa cộng đồng cư dân Lý Sơn đã tích lũy và sáng tạo để tạo nên những đặc trưng riêng trong đời sống văn hóa của mình.Hơn thế, sự dung hợp và tích hợp giữa cộng đồng cư dân nông nghiệp và ngư nghiệp đã làm nên những đặc trưng bản sắc riêng của vùng văn hóa cư dân trên đảo Lý Sơn, đặc biệt là văn hóa tín ngưỡng. Vì vậy, từ cơ sở thực tiễn mà người nghiên cứu đã vận dụng những lý thuyết để nghiên cứu các dạng thức tín ngưỡng của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn, từ tín ngưỡng của gia đình - dòng họ cho đến tín ngưỡng của cộng đồng. CHƯƠNG 2. CÁC DẠNG THỨC TÍN NGƯỠNG CỦA CƯ DÂN Ở HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN 2.1. Vài nét về tín ngưỡng trong gia đình–dòng họ và cộng đồng của cư dân - Tín ngưỡng trong gia đình – dòng họ của cư dân Lý Sơn thể hiện qua thờ cúng việc lề (tổ tiên), thờ cúng gia thần hay nghi thức tế lễ âm hồn. Hơn nữa, một số dòng họ có những vị nhân thần thường gọi là “Quan”. Ngoài ra, những gia đình, tộc họ có thờ thổ thần nên trong ba ngày đầu năm những gì liên quan đến đồng áng, chôn người mất hay ngư dân đi biển cũng phải chờ làng, xóm, thôn động thổ xong mới tiến hành thực hiện. Tín ngưỡng này đã thể hiện niềm tin, sự thích nghi với điều kiện sống của cư dân so với nơi khác nên có những giá trị đặc trưng trong văn hóa tín ngưỡng ở Lý Sơn, như một hệ thống mở từ tín ngưỡng của gia đình - dòng họ đã trở thành tín ngưỡng của cộng đồng. - Tín ngưỡng trong cộng đồng. Theo chúng tôi biết, hiện nay ở Lý Sơn có 43 cơ sở thờ tự tín ngưỡng. Điều này cũng đã nói lên được tâm thức của cư dân nơi 16 đây về tín ngưỡng. Họ luôn có niềm tin vào thần thánh, như cuốn Lễ hội và nhân sinh của Đặng Văn Lung đã viết: “Gửi lòng mình vào vật cúng, vật dâng, lời khẩn nguyện kèm theo thái độ thành kính. Đó là cách giao tiếp đặc biệt của một linh hồn nhỏ đối với một linh hồn lớn”. (Đặng Văn Lung, 2005, tr. 937). Ngoài ra, Léopold Cadière cũng đã viết: “Thờ cúng ông bà tổ tiên chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể thần thánh mênh mông, và việc thờ ông bà chỉ là một trong những khía cạnh đa dạng của tôn giáo người Việt”. (Léopold Cadière, 2015, tr. 36). Bởi các dạng thức tín ngưỡng là sản phẩm tinh thần, nhằm đáp ứng nhu cầu sinh sống của cư dân trước những khó khăn nên cần đến một niềm tin về tâm linh. Như chú Võ Văn Hoàng - An Hải đã nói: “Ui, Thần thánh dữ lắm, người ta đam mê nhiễm luôn, nói chung con người ở Lý Sơn nhiễm luôn”. (PL-BBPV số 23). 2.2. Thờ cúng việc lề (tổ tiên) Cúng việc lề là nghi thức cúng tổ tiên đã thành lệ của cư dân Lý Sơn. Tùy vào từng tộc họ nên cúng việc lề có những quy ước về ngày cúng cũng khác nhau. Họ thường tổ chức vào tháng 2 hay tháng 3 âm lịch hằng năm. Theo truyền thống, các tộc họ ở Lý Sơn thường tổ chức nghi lễ này vào rạng sáng, nhưng hiện nay thời gian tổ chức lễ chính tế thường vào rạng sáng hoặc lúc 10 giờ khuya hay vào lúc trưa tùy từng tộc họ. Về cách bài trí và nghi lễ thờ cúng việc lề tùy vào từng tộc họ, nhưng những tộc họ tiền hiền thường bài trí và thực hành nghi lễ giống nhau, còn phẩm vật cúng thì Phan Đình Độ đã viết rằng: “Ngày xưa, lễ vật cúng Việc lề của các dòng họ thường có một thức cúng riêng, như họ Phạm thì có đãi gỏi cá nhám, họ Dương thì có ba con gà luộc, họ Phan thì có cá nướng nguyên con, họ Võ thì cúng tam sanh như cá nướng, cua luộc, gà…đây là những thức cúng bắt buộc phải có trong lễ cúng Việc lề”. (Phan Đình Độ, 2008, tr. 246). Bởi vật phẩm cúng mang một quy ước, một sản phẩm biểu tượng của văn hóa chứa đựng một thông điệp trong nghi lễ phù hợp với từng tộc họ. Ngoài ra, tại chánh điện của nhà thờ tộc họ thường có liễn đối, hoành phi như có chức năng nhắc nhở con cháu về công đức của tổ tiên, cũng như lời khuyên bảo cho con cháu. Về thành phần tham dự gồm các chi phái trong dòng họ để thực hiện nghi thức cúng này. Ngoài ra, để tìm hiểu những tương đồng và dị biệt tín ngưỡng thờ cúng việc lề của cư dân Lý Sơn thì chúng tôi so sánh với một số địa phương khác như ở Nam bộ. Bởi những vị tiền hiền có công khai hoang lập ấp được cộng đồng cư dân Lý Sơn thờ tự và tế lễ như vị thần hoàng vậy. Như vậy, tín ngưỡng cúng việc lề của cư dân Lý Sơn thể hiện niềm tin nhằm mong cầu sự độ trì gia hộ của tổ tiên, thần linh cho các thành viên trong gia tộc, dòng họ được phước huệ an khang, vụ mùa được bội thu. 2.3. Tế lễ âm hồn trong gia đình - dòng họ của cư dân Lý Sơn 17 Tế lễ âm hồn vốn là một tín ngưỡng dân gian, được sự bảo trợ và chế định hóa của nhà nước phong kiến mà ngày nay tế lễ này vẫn càng duy trì, bảo tồn và củng cố hơn. Nghi thức tế lễ âm hồn diễn ra vào dịp cúng việc lề hay tết, giỗ chạp để tỏ lòng tri ân những vị Tiền Chủ, sự thương xót những người khuất mặt trên con đường sinh kế, lập nghiệp. Về cách bài trí tế lễ âm hồn cũng tùy vào nguyên nhân chết nên có những cách thức bài trí phối thờ trong từng nghi thức tế âm hồn, cúng chiêu hồn hay tế cúng bạt thục mà thiết lập trai đàn khác nhau. Về phẩm vật cúng âm hồn trong tộc họ giống như cúng việc lề vậy, nhưng khi cúng bạt thục lại thực hiện theo sự mách bảo của vị “Quan” trong gia đình hay vị thần thánh nào cho là hiển linh. Những phẩm vật cúng tế, đó là: “vái cúng một hồng kê (1 con gà) nhất đầu, rồi một trư (một con heo), nhất khẩu”. [PL-BBPV số 30], nhằm để mua chuộc lại vong hồn người mất chưa siêu thoát, hay vong hồn đó đang bị ai bắt giữ. Còn khi cúng tế chiêu hồn cho người mất ở biển hay những nguyên nhân khác phải thực hiện làm hình mộ chiêu hồn. Thầy Pháp phải thực hiện theo tuần tự để nặn cái hình nhân, để rồi truy tróc các hồn thất phách phục vị vong rồi mới đưa vào hòm để chôn, còn nghi thức cúng bạt thục thực hiện mang tính chất "ma thuật" hay “Shaman giáo”. Về thời gian tổ chức cúng bạt thục diễn ra lúc 1 hay 2 giờ sáng, chứ không như những nghi thức khác có thể diễn ra vào lúc sáng hay trưa. Khi thực hiện cúng tế chiêu hồn hay bạt thục thì các chi phái trong tộc họ đều tham dự và có Pháp sư tham dự nữa. 2.4. Tế lễ âm hồn của cộng đồng thường tổ chức trong tiết Thanh minh nhằm thể hiện lòng tri ân, sự thương xót đến những anh linh, cô hồn, âm hồn trong quá trình khẩn hoang lập ấp hay đi làm nghĩa vụ cho dân tộc phải bỏ mạng ngoài biển hay tử nạn đi biển rồi trôi dạt vào bờ, đó là chùa Âm hồn - An Vĩnh mà người dân Lý Sơn nào cũng biết. Về không gian cúng tế âm hồn thường diễn ra ở nghĩa tự hay miếu, chùa âm hồn, âm linh tự. Về kiến trúc cũng như cách bài trí phối thờ cúng âm hồn cũng khác nhau, nhưng nghi thức tế lễ âm hồn đều thực hiện theo các bước sơ hiến, á hiến và chung hiến với thành phần tham gia tế lễ gồm ông cả làng, ông chủ xóm và cư dân... Đối với lễ vật cúng âm hồn thường làm lễ kỉnh sinh với phẩm vật cúng là một con heo, kinh phí do cư dân đóng góp, nhưng ở nghĩa tự - An Hải thì phẩm cúng do mỗi gia đình mang đến phụng cúng, có thể là khoai, sắn, bắp, gạo, cháo trắng, mía, hay hải sản. Mỗi gia đình mang mâm cỗ đến nghĩa tự của xóm, của làng để cúng. Ngoài ra, chúng tôi còn so sánh giữa tế lễ âm hồn ở huyện đảo Lý Sơn với vùng khác để thấy được những tương đồng va dị biệt. 2.5. Thờ cúng cá Ông của cư dân ở huyện đảo Lý Sơn Trong dân gian, cá Voi có tên khác nhau như: ông Nam Hải, ông Chuông, ông Khơi, ông Lớn, ông Cậu...,nhưng ở Lý Sơn gọi cá Ông là “Đức Ông”,“Đức Ngư”,“Lệnh Ông”,“Ông Đại Tướng”...Ngoài ra, cá Ông, cá Bà 18 còn có danh xưng, mỹ hiệu do thần thánh hóa được thể hiện trong bài văn tế cúng cá Ông ở các lăng lân. Vì tín ngưỡng này đã ảnh hưởng trong tâm thức của cư dân từ buổi đầu khai khẩn vùng đảo Lý Sơn nên được thờ tự nhiều nơi. Về cảnh quan thì rộng rãi, có nhiều cây cổ thụ. Các lăng lân cá Ông được xây dựng gần cửa biển để rước Ông khi bị lụy vào tu, hay làm lễ tống ôn, các lễ hội trong năm như đua thuyền tứ linh, lễ ra mắt đầu năm. Về cách bài trí phối thờ cá Ông được thờ chính tự như lăng Ông Đại Tướng, Lân Đông Hải và phối tự với tiền nhân như tại nhà thờ họ Đặng. Nơi chánh điện có nhiều hoành phi, câu đối với nội dung ca ngợi sự hiển linh và công đức của vị thần Nam Hải mà cư dân mang đến phụng cúng như thể hiện lòng biết ơn, sự tri ân. Về nghi thức cũng thực hiện theo ba bước từ sơ hiến lễ, á hiến lễ đến chung hiến lễ với thành phần tham dự có ông chủ lân, trùm vạn, thủ tự, chấp sự, xướng lễ… Hơn nữa, chúng tôi còn so sánh những điểm tương đồng và dị biệt với vùng khác để thấy được những đặc trưng trong tín ngưỡng như danh xưng cá Ông. 2.6. Tục thờ cúng Thiên Y A Na của cư dân Trong tâm thức dân gian, Thiên Y A Na là dạng tín ngưỡng thờ Mẫu ở Việt Nam được cộng đồng cư dân thờ tự khá phổ biến với mong muốn sự che chở, bảo hộ cho cuộc sống an lành. Về lược sử Thiên Y A Na, trong cuốn Nhận thức về Miền Trung Việt Nam hành trình 10 năm tiếp cận đã viết: “Nữ thần Bhavagati, một hoá thân nữ tính của thần Civa đã được bản địa hoá thành Thiên Y A Na, bà được tôn thờ là thần mẹ đã tạo dựng vương quốc ChămPa” (Viện văn hoá nghệ thuật Việt Nam, 2009, tr.102). Về nguồn gốc và thần tích về Bà có nhiều điển tích nên được ngưỡng vọng tôn thờ từ tầng lớp vua quan cho đến thứ dân nên nhà Nguyễn đã ban sắc phong cho Bà là “Thượng đẳng thần”. Theo ông Dương Quỳnh (90 tuổi) ở Thôn Đông - An Hải cho biết về nguồn gốc Lân Đông Thạnh - An Hải, nơi thờ Bà Thiên Y A Na như sau: “Nghe nói Ông bà tui về dưới này rồi mới bắt đầu lập cái Lân này để quy danh lập ấp, từ đó thành mãi đến bấy giờ. Lân Đông Thạnh này cũng đã trải qua nhiều lần bị đốt cháy, rồi người dân lập trở lại nên bây giờ nó mới có quy mô như thế này để thờ Bà Thiên Y A Na… Ở đây người dân thờ Bà Thiên Y rất nhiều vì dọc theo miền biển….”. (PL-BBPV số 72). Vì vậy, tục thờ cúng Thiên Y A Na của cư dân Lý Sơn đóng vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh, như Ông Võ Hòe đã nói: “Hễ khi cầu dưới Dinh bà Trời mà hạ lệnh là phiên này con không được đi thì không đi, điều này không phải một người mà bao gồm tất cả các ngư dân đó. Vì không nghe là ra gặp nạn thôi. Hễ ngang thì ráng chịu thôi. Hễ ngang là tàn thôi. Sở Bà ở dưới An Hải thì một năm là nói chuyện với con dân biết bao nhiêu lần, hễ biển dã có gì thì nhờ bà chỉ dẫn cho đó”. (PL-BBPV số 37). 19 Về cảnh quan, nơi thờ Bà đều có cảnh quan thoáng mát rộng rãi, được xây dựng trên vùng đất cao hay lưng đồi núi. Về cách bài trí thờ cúng Bà thường thờ chính tự hay phối thờ. Nơi tiền đường có nhiều hoành phi, liễn đối với nội dung ca ngợi sự linh hiển của Bà, mong Bà phù hộ cho cư dân có cuộc sống được thái bình, thịnh vượng. Vì vậy, cư dân mang câu đối để phụng cúng nhằm thể hiện tấm lòng thành kính với Bà. Về nghi lễ, theo lệ vào ngày 25/2 âm lịch là ngày tế lễ Bà Thiên Y A Na, nhưng trước đó 3 ngày thì các dinh, lân thờ Bà đã tổ chức để nhập yết để cầu an cho thôn xóm, đến tối 24 rạng sáng 25 diễn ra lễ chính. Về thành phần tham dự tế lễ có ban khánh tế, chủ cựu, ông cả làng, các chủ lân và đại diện các họ tộc tiền hiền. Ngoài ra, ngày 26/12 âm lịch các dinh thờ Bà tổ chức lễ mộc dục cho Bà. Nghi lễ này, chủ lân thường mời những cựu lân hay người đại diện họ tộc đã có công phụng sự đến tham dự, hay tộc họ có công dựng xây dinh thờ để bày tỏ lòng biết ơn đến. Hơn nữa, chúng tôi còn so sánh tục thờ cúng Thiên Y A Na ở một số vùng khác để thấy những điểm tương đồng và dị biệt trong tín ngưỡng này. Tiểu kết chương 2 Các dạng thức tín ngưỡng của cư dân Lý Sơn nhằm thể hiện niềm tin trong văn hóa tâm linh, thông qua việc “tri ân và báo ân” như một truyền thống tốt đẹp bao đời nay. Hơn thế, tín ngưỡng đó không chỉ thể hiện lòng tri ân với ông bà tổ tiên quá vãng mà còn tưởng nhớ đến những binh phu Hoàng Sa đã hy sinh, những chiến sĩ trận vong vì chủ quyền của Tổ quốc qua nghi thức tế lễ, thành phần tham dự…để mong sự phù hộ độ trì từ những đấng thiêng hay phúc thần. Các dạng thức tín ngưỡng đó được kiến lập mang nét văn hóa tín ngưỡng đặc thù gắn với môi trường sinh thái văn hóa nơi biển đảo Lý Sơn. Hơn thế, văn hóa tín ngưỡng đã và đang ảnh hưởng trong đời sống kinh tế xã hội của cư dân Lý Sơn. Bởi nó là chỗ dựa tinh thần, là niềm tin tâm linh của cư dân Lý Sơn nhằm mong cầu thần linh, gia thần phù hộ, độ trì cho cộng đồng cư dân. CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ TÍN NGƯỠNG TRONG ĐỜI SỐNG VĂN HÓA CỦA CƯ DÂN HUYỆN ĐẢO LÝ SƠN 3.1. Một số đặc điểm văn hóa tín ngưỡng của cư dân huyện đảo Lý Sơn. Văn hóa tín ngưỡng từ gia đình - dòng họ cho đến cộng đồng đã thể hiện qua một số đặc điểm và vai trò trong đời sống của cư dân Lý Sơn. Chính những đặc thù riêng do bối cảnh địa lý, không gian sống, lịch sử văn hóa của vùng đất này trong dòng chảy văn hóa đã để lại những dấu ấn đặc trưng. Bởi các loại hình tín ngưỡng đó được tích hợp qua tư tưởng và ý nghĩa trong Phật – Đạo – Nho qua các hình thức tín ngưỡng, cũng như thể hiện mối liên hệ từ tín ngưỡng cúng việc lề đến lễ khao lề thế lính Hoàng Sa. Bên cạnh đó, tính dung hợp, tính lịch sử cũng thể hiện qua các loại hình tín ngưỡng mang giá trị đặc trưng văn hóa cư dân Lý Sơn. Tính linh hoạt thể hiện trong sự kết hợp và chuyển đổi từ tín 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan