TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
VĂN HÓA KINH DOANH TRÊN THẾ GIỚI VÀ VẤN ĐỀ
XÂY DỰNG VĂN HÓA KINH DOANH Ở VIỆT NAM
Sinh viên thực hiện: Kiều Thị Bích Hương
Lớp: A2- CN9
0
Hà Nội- 2003
1
LỜI CẢM ƠN
Quả là không thể nói hết được về Văn hóa kinh doanh- một
phạm trù quá rộng lớn và tinh tế. Nghiên cứu chuyên sâu, tỉ
mỉ về Văn hóa kinh doanh đã khó, với một sinh viên còn chưa
có nhiều kinh nghiệm thực tế trong môi trường kinh doanh lại
càng khó hơn. Để đi trọn vấn đề (trong khả năng có thể), hoàn
thành cuốn khóa luận hôm nay, em phải nhờ vào sự giúp đỡ
của nhiều người. Trước hết, em xin chân thành cảm ơn thày
Phạm Duy Liên- Phó Chủ nhiệm khoa Kinh tế Ngoại thươngngười đã hướng dẫn và chỉ bảo em cặn kẽ trong suốt quá trình
làm khóa luận. Sự đào tạo, dạy dỗ của thày cô giáo trong
khoa Kinh tế ngoại thương- trường ĐH Ngoại thương hơn 3
năm qua đã cung cấp nhiều kiến thức bổ ích cho em khi
nghiên cứu và trình bày nội dung khóa luận tốt nghiệp. Đồng
thời em xin được cảm ơn nhà văn Lê Lựu đã cung cấp nhiều
thông tin quý báu để em áp dụng vào bản khóa luận này.
Mặc dù khóa luận đã hoàn thành nhưng cũng không tránh
khỏi những thiếu xót, hạn chế trong nội dung và cách trình
bày. Rất mong nhận được sự nhận xét, góp ý của thày cô để
em có thêm những kinh nghiệm cho công tác.
Một lần nữa em xin trân trọng cảm ơn!
2
Sinh viên Kiều Thị Bích Hương
3
LỜI NÓI ĐẦU
Ngày 11/9/2002, Trung tâm văn hóa doanh nhân được thành
lập và là đơn vị trực thuộc Phòng Thương mại và công nghiệp
Việt Nam, Trung tâm không những có nhiệm vụ tập hợp, xây
dựng đội ngũ văn nghệ sỹ sáng tác và phục vụ doanh nhân mà
còn là nơi để doanh nhân tụ lại sinh hoạt, giao lưu và bồi
dưỡng văn hóa kinh doanh. Vì sao văn hóa kinh doanh lại quan
trọng đến vậy? Nhà văn Lê Lựu đảm nhiệm cương vị Tổng
giám đốc Trung tâm văn hóa doanh nhân đồng thời cũng là
người đưa ra sáng kiến thành lập Trung tâm tâm đắc: “Chiến
tranh đã qua đi hơn 30 năm, trong thời kỳ xây dựng đất nước,
ai là lực lượng chính? Đó là các doanh nhân, hiện nay chúng ta
đã có khoảng 10 vạn doanh nghiệp- họ đụng chạm đến quyền
lợi thiết thực của hơn 80 triệu dân và họ xứng đáng được tôn
vinh, khẳng định. Một xã hội có văn minh hay không cũng một
phần quan trọng quyết định ở yếu tố văn hóa doanh nhân.
Bước vào hội nhập, phải xây dựng nền tảng văn hóa cơ sở cho
từng ngành, từng người mới mong giữ gìn được bản sắc riêng
của mình. Có ý kiến cho rằng nên thành lập Viện nghiên cứu
văn hóa cho doanh nhân. Làm sao để doanh nhân cũng như
người dân nói chung nhận thức được làm giàu không chỉ bằng
tiền mà còn bằng trí tuệ, tình cảm văn hóa. Mối quan hệ của
nhân loại chính là tình cảm, tất nhiên trong kinh doanh phải có
cạnh tranh nhưng phải giáo dục văn hóa kinh doanh làm sao để
cuộc cạnh tranh ấy có văn hóa hơn thì sẽ đỡ độc ác, tàn bạo,
4
bẩn thỉu và khinh miệt con người hơn. Nếu đã xác định doanh
nhân là dũng sỹ trong xây dựng đất nước hôm nay mà xã hội
cứ nhìn người ta như là con buôn, đám chụp giật, cơ hội, lừa
đảo... thì làm sao họ trở thành nhân vật tiêu biểu mới cho dân
chúng theo được. Bởi vậy, thay đổi quan niệm này, tuy không
dễ, cũng là nhiệm vụ của Trung tâm văn hóa doanh nhân”.
Văn hóa kinh doanh luôn hiện hữu trong mỗi con người, mỗi
tập thể, mỗi môi trường sản xuất... Đời sống, nhận thức và xã
hội ngày càng phát triển, yếu tố văn hóa càng được đề cao. Là
một đề tài rộng với những khái niệm đang dạng (đôi khi khó
nắm bắt) nhưng càng đi sâu vào tìm hiểu văn hóa kinh doanh,
chúng ta càng rút ra được nhiều giá trị của cuộc sống từ những
điều tưởng như đơn giản nhất.
Xuất phát từ tầm quan trọng của Văn hoá kinh doanh như trên
em đã lựa chọn đề tài Văn hoá kinh doanh trên thế giới và
vấn đề xây dựng văn hoá kinh doanh ở Việt Nam làm khoá
luận tốt nghiệp. Ngoài phần mở đầu và kết luận khoá luận,
khoá luận tốt nghiệp được chia thành các chương:
Chương I: Lý luận về văn hoá kinh doanh
Chương II: Thực trạng xây dựng và phát triển văn hoá kinh
doanh ở Việt Nam trong những năm qua.
Chương III: Các giải pháp nhằm xây dựng và phát triển nền
văn hoá kinh doanh mang bản sắc dân tộc Việt Nam trong
thời gian tới.
5
Để hoàn thành đề tài này em đã sử dụng các phương pháp diễn
dịch, quy nạp; xuất phát từ những hiện tượng, sự kiện cụ thể để
tổng quát tình hình và đi đến kết luận chung, rút ra các bài học
cũng như đề xuất biện pháp giải quyết.
6
CHƯƠNG I
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN HÓA KINH DOANH
1. Khái niệm và đặc điểm của văn hóa kinh doanh
a. Thế nào là văn hóa?
Cho đến hôm nay, những định nghĩ về văn hóa có giá trị nhất
vẫn chưa làm thỏa mãn giới nghiên cứu. Vô vàn những định
nghĩa khác nhau về văn hóa, thậm chí ngay trong một định
nghĩa về văn hóa cũng phụ thuộc vào văn hóa. Tuy nhiên khái
niệm văn hóa dù được tiếp cận từ góc độ nào cũng đều làm lộ
ra một cách trực tiếp hoặc gián tiếp những đặc trưng về con
người và về đời sống của con người. Từ góc tiếp cận này, ta có
thể hiểu văn hóa là một khía cạnh của quan hệ giữa con người
với thế giới bên trong và bên ngoài của nó- một “lát cắt” đi qua
toàn bộ mối quan hệ phong phú và phức tạp của con người với
thế giới hiện thực [1. Hồ Sĩ Quý, Vai trò của nhân tố văn hóa
trong nền văn minh, Tạp chí Triết học số 4/93].
Theo một bản phúc trình năm 1995 của Ủy ban thế giới về
văn hóa và phát triển của Liên hợp quốc, “văn hóa” có thể
được hiểu theo hai nghĩa. Thứ nhất, văn hóa của một nước là
những sinh hoạt trong “lĩnh vực văn hóa”, hay là “khu vực
công nghiệp văn hóa” của nước ấy. Đó là viết văn, làm thơ,
soạn nhạc, tạc tượng, vẽ tranh... nói chung là những hoạt
động có tính văn chương nghệ thuật. Thứ hai, nhìn theo
7
quan điểm nhân chủng và xã hội học, văn hóa là tập hợp
những phong thái, tập quán và tín ngưỡng, là nền tảng, là
chất keo không thể thiếu cho sự vận hành nhuần nhuyễn xã
hội. Nó là hiện thân những giá trị được cộng đồng chấp
nhận, dù có thể biến đổi từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Như vậy văn hóa là biểu hiện của cách thức con người tồn
tại, là tổng thể những giá trị mà con người đã, đang và sẽ
tạo ra. Văn hóa là thứ đặc trưng nhất của dân tộc, để phân
biệt dân tộc này với dân tộc khác.
b. Văn hóa kinh doanh và đặc điểm:
Văn hóa là sản phẩm của một quá trình được tích lũy qua nhiều
thế hệ. Các nền kinh tế đâu đâu cũng chiều theo những nét đặc
thù của lịch sử, cấu trúc xã hội, tâm lý học, tôn giáo và chính
trị địa phương. Các lực lượng này tác động đến sở thích làm
việc, tiêu thụ, đầu tư, tiết kiệm và đối mặt với rủi ro. Bản chất
con người có thể không đổi, nhưng nó được khắc họa bởi văn
hóa. Khái niệm cho rằng thành tích kinh tế không thể tách khỏi
những đặc thù quốc gia là hiển nhiên, đó cũng chính là yếu tố
hình thành nên văn hóa kinh doanh. Tóm lại văn hóa kinh
doanh chính là cách thức hình thành và xây dựng một môi
trường (bao gồm tập tục, quy định, thông lệ, thói quen, tư
duy...) sản xuất, buôn bán trao đổi sản phẩm hoặc dịch vụ
giữa cá nhân với cá nhân, tập thể với cá nhân và tập thể với
8
tập thể mà trong đó yếu tố địa lý, thiên nhiên, gia đình, quốc
gia, dân tộc đóng vai trò quyết định.
Gần đây, nhiều học giả kinh tế và xã hội, tiên khởi là nhà xã
hội học người Pháp Pierre Bourdieu cho rằng, muốn hiểu văn
hóa như một nhân tố trong đời sống kinh tế, và nhất là
muốn đánh giá vai trò của nó trong tiến trình phát triển, thì
nên nhìn nó như một loại vốn- tương tự như ba loại vốn
thường biết khác (vốn vật thể, như máy móc, thiết bị; vốn
con người, như kỹ năng, kiến thức; vốn thiên nhiên, gồm
những tài nguyên do thiên nhiên cống hiến và môi trường
sinh thái).
Thêm một bước, có thể phân biệt 2 dạng vốn văn hóa: vật thể
và phi vật thể. Vốn văn hóa vật thể gồm những công trình
kiến trúc, đền đài cung miếu, di tích lịch sử, những địa điểm
có ý nghĩa văn hóa. Loại vốn này cung cấp một luồng dịch
vụ có thể hưởng thụ ngay, hoặc đi vào sản xuất những sản
phẩm và dịch vụ trong tương lai, văn hóa cũng như ngoại văn
hóa. Dạng kia, vốn văn hóa phi vật thể, là những tập quán,
phong tục, tín ngưỡng và các giá trị khác của xã hội. Loại
vốn văn hóa này- cùng những nghệ phẩm công cộng như văn
chương và âm nhạc- là một loại dây, một thứ keo gắn kết
cộng đồng. Nó cũng cung cấp một luồng dịch vụ có thể
hưởng thụ ngay, hoặc dùng trong sản xuất những sản phẩm
văn hóa trong tương lai. Từ những nhận xét trên, vài nét
9
chính về liên hệ giữa văn hóa, kinh tế và phát triển dần
hiện rõ.
Một là, muốn hội nhập vốn xã hội vào phân tích kinh tế ta
phải xác định liên hệ giữa giá trị văn hóa và giá trị kinh tế.
Lấy ví dụ vốn văn hóa vật thể, chẳng hạn như một ngôi nhà
có tính di tích lịch sử. Ngôi nhà ấy có giá trị kinh tế như
một kiến trúc (ngụ cư hoặc thương mại), biệt lập với giá
trị văn hóa. Song giá trị kinh tế ấy có thể tăng lên, có thể là
rất nhiều, nhờ giá trị văn hóa của nó. Do đó, lấy ví dụ,
nhiều người sẽ sẵn sàng mua ngôi nhà đó một giá cao hơn
giá trị vật thể thuần túy của nó. Giống như tranh của Van
Gogh, Picaso... Hầu như mọi loại vốn văn hóa vật thể đều có
thể được nghĩ đến như ngôi nhà lịch sử trong ví dụ, tức là
chúng hòa quyện giá trị văn hóa vào giá trị kinh tế của vật
thể, làm tăng thêm giá trị của vật thể ấy.
Trong trường hợp vốn văn hóa phi vật thể thì liên hệ giữa giá
trị văn hóa và giá trị kinh tế phức tạp hơn, không phải cái
này gây cái kia. Hiển nhiên, ngôn ngữ, âm nhạc và văn
chương, tập quán và tín ngưỡng... là những tài sản chung, có
giá trị văn hóa vô cùng lớn, song chúng không có giá trị
kinh tế theo nghĩa thông thường vì lẽ không thể được mua
bán đổi chác trên thị trường như các hàng hóa hoặc dịch
vụ khác. Nói cách khác, những dịch vụ xuất phát từ vốn văn
hóa phi vật thể là có giá trị văn hóa và kinh tế, nhưng ở đây
10
hai loại giá trị ấy hòa quyện lẫn nhau, không thể tách rời
nhau.
Hai là, vốn văn hóa đóng góp được gì vào tổng thu nhập và
tốc độ phát triển của một nước. Trong các mô hình phân tích
tăng trưởng kinh tế, có hai yếu tố luôn được coi là cốt lõi
cho phát triển: lao động và vốn vật thể.
Ba là vốn văn hóa giúp ta hiểu sâu hơn về ý niệm tính bền
vững của phát triển. Đóng góp của nó vào khả năng phát
triển dài hạn không khác gì đóng góp của vốn thiên nhiên. Vì
môi trường sinh thái là thiết yếu cho hoạt động kinh tế, bỏ bê
môi trường
qua sự khai thác quá đáng tài nguyên sẽ làm
giảm sút sản năng và phúc lợi kinh tế. Không bảo dưỡng
vốn văn hóa (để di sản đồi trụy, làm mất bẳn sắc văn hóa
dân tộc) cũng phải gánh lấy những hậu quả tai hại như vậy.
2. Vai trò của văn hóa kinh doanh trong đời sống xã hội
Làm thế nào để tiếp cận được khách hàng? Đó là câu hỏi của
tất cả doanh nhân. Đồng cảm chính là hai từ mà người kinh
doanh mong muốn nhất để có được cảm tình của khách hàng.
Và để có được sự đồng cảm, trước hết phải hiểu được tâm sinh
lý, văn hóa của đối phương. Theo quan điểm của các nhà tâm
lý học thì những người có thái độ và quan niệm về giá trị càng
giống nhau thì sức hút giữa hai người càng lớn. Trong hoạt
động kinh doanh, đó là yếu tố rất cần thiết để chinh phục
11
khách hàng. Việc đưa hệ thống quản lý chất lượng ISO vào các
doanh nghiệp VN là rất sáng tạo, vì bản chất của ISO cũng là
quá trình tái tạo. Có những doanh nghiệp thành công, có doanh
nghiệp không thành công. Hiện nay nhiều doanh nghiệp chạy
theo ISO không vì thực chất mà là muốn có cái danh để bán
hàng. Thực tế ISO thì có danh nhưng không thể không thực
chất. Các doanh nghiệp có thể tham khảo ISO để tái tạo, nhưng
ISO là một quá trình chung, và mỗi công ty thì phải có một quá
trình riêng để áp dụng tùy đặc điểm văn hóa kinh doanh của
mỗi công ty. Vậy văn hóa kinh doanh là yếu tố vô cùng quan
trọng.
Thử nhìn lại cuộc khủng hoảng kinh tế ở một số nước châu á
và Mỹ Latinh gần đây. Yuthavong- Chủ tịch Viện hàn lâm
khoa học công nghệ Thái Lan, phát biểu: “Có hai nguyên nhân
dẫn đến cuộc khủng hoảng kinh tế bắt đầu từ Thái Lan năm
1997 sau đó lan sang các nước Đông Nam Á và rộng hơn.
Nguyên nhân trực tiếp là nợ nước ngoài quá nhiều, đầu tư
không cân đối vào các ngành phi sản xuất, đặt tỷ giá đồng baht
quá cao, thiếu rành mạch trong hệ thống ngân hàng và kinh
doanh... làm cho các nhà đầu tư mất lòng tin. Cho dù trầm
trọng đến mức nào, các nguyên nhân này cũng chỉ mới châm
ngòi. Nguyên nhân cốt lõi dẫn đến cuộc sụp đổ là thiếu tri thức
và trình độ lành nghề để có thể cạnh tranh và bảo đảm phát
triển bền vững. Cái lợi thế truyền thống của Thái Lan về giá trị
nhân công và nguyên liệu đã hoàn toàn mất hiệu lực và tan
12
biến ngay trong cơn sốc kinh tế đó”. Thái Lan được liệt vào
danh sách 49 nền kinh tế có năng lực cạnh tranh cao nhất thế
giới bên cạnh các cây đại thụ ở châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật và
các nền kinh tế mới trỗi dậy như Hàn Quốc, Trung Quốc, Đài
Loan v.v... [theo World Competitiveness Yearbooks]. Nhiều
quy trình công nghệ hiện đại đã có mặt trên đất Thái Lan, song
các tri thức và bí quyết công nghệ lại không nằm trong đầu
người Thái. Thành ra văn hóa, giáo dục và khoa học công
nghệ mới chính là những yếu tố quyết định quá trình phát triển
bền vững.
Yếu tố nào đã làm cho Sony, Toyota, Honda... chiếm lĩnh thị
trường thế giới, làm thay đổi hẳn hình ảnh nước Nhật trên vũ
đài kinh tế thế giới và đem lại vinh dự cho người Nhật vào thời
kỳ 1960- 1980? Câu trả lời chỉ có thể là: sức sáng tạo và tinh
thần doanh nghiệp. ở đây tinh thần doanh nghiệp cũng chính
được khởi nguồn từ văn hóa kinh doanh. Người Nhật vốn nổi
tiếng về chí lớn, tinh thần tự lập và tinh thần mạo hiểm, các
yếu tố thuộc về tính cách đã hỗ trợ cho sức sáng tạo, làm sáng
tạo thăng hoa cùng sự nhạy bén về tâm lý người tiêu dùng. Ví
dụ chỉ cần bằng một ngữ cảm phong phú, Morita đã ghép 2 từ
sound (âm thanh) và sonny (cậu bé) thành Sony- tên gọi vừa dễ
nhớ, vừa có nhiều ý nghĩa đối với những sản phẩm phát ra âm
thanh để đặt tên cho nhãn hiệu của sản phẩm và sau đó là tên
công ty. Đánh trúng tâm lý người tiêu dùng, Morita đã làm cho
tên Sony thẩm thấu nhanh chóng trên thị trường thế giới.
13
Văn hóa kinh doanh không phải thứ bất biến trong mỗi người,
mỗi phương châm của công ty, mỗi vùng, mỗi dân tộc mà nó
phải luôn được cập nhập thông tin để biến đổi phù hợp với sự
phát triển của cuộc sống- đó là quy luật và cũng là lý do vì sao
cần có văn hóa kinh doanh. Ví dụ đâu là bí quyết thành công
của Công ty kinh doanh địa ốc Solo ở Bắc Kinh (Trung
Quốc) hiện được đánh giá là một doanh nghiệp làm ăn phát
đạt, có sản phẩm bán chạy nhất khu vực? Bí quyết thành công
của Solo là đánh trúng thị hiếu của khách hàng trẻ tuổi, có học
và bắt đầu có tiền. Trong cuộc sống hôm nay, người Trung
Quốc không thể khư khư giữ lấy nếp cũ là hướng về một đại
gia đình, nơi nhiều thế hệ sống với nhau, nơi bữa cơm phải lúc
nào cũng đủ đầy các thành viên, người phụ nữ phải có trách
nhiệm lo toan tất cả công việc gia đình... Solo đã xây dựng
những căn hộ nhỏ, thiết kế đẹp, trang nhã, tiện nghi, hợp với
túi tiền và nhu cầu của giới trẻ độc thân, những gia đình trẻ
ít người. Cụ thể người ta cho xây những căn hộ vừa và nhỏ từ
18m2 đến 80m2 để thu hút khách hàng trẻ tuổi. Những căn hộ
này đáp ứng các tiêu chí: nhỏ nhưng đẹp, tiện nghi, có nhiều
phòng, đủ ánh sáng và giá cả phải chăng phù hợp với các hộ
độc thân và những gia đình gồm 3 thành viên.
Vì sao Singapore- một đất nước vô cùng nhỏ bé- lại có sự phát
triển đáng kinh ngạc như vậy? Hãy nhìn lại chính sách của ông
Lý Quang Diệu, nhân vật của thế kỷ 20. Mặc dù về mặt cá
nhân, ông Lý Quang Diệu có vẻ không cảm tình lắm với Mỹ
14
nhưng ông ưu tiên cho đầu tư của Mỹ vì thường đi kèm công
nghệ cao, so với đầu tư vào châu Á, thường mang kỹ nghệ
thấp. Nếu ví nước Mỹ phát triển nhờ biết bước lên vai khổng lồ
nhân loại thì cũng có thể ví Singapore phát triển nhờ biết bám
thắt lưng Mỹ- một đất nước nhỏ hẹp, dân số ít như Singapore,
bắt buộc con người phải có cách thức suy nghĩ, hành động
khôn ngoan “núp bóng lớn mà tiến”, tính cách ấy cũng chính là
một thứ văn hóa kinh doanh áp dụng trên thương trường.
Những gì thực sự thuộc về truyền thống thì chẳng thể nào biến
mất, vì nó lắng đọng, bám chặt ở tầng sâu nhất trong tâm
khảm, trong cách tư duy của mỗi người. Dân tộc Nhật có nền
văn hóa lâu đời nên họ không sợ đánh mất truyền thống khi
bắt chước phương Tây một cách toàn diện, kể cả các chi tiết
nhỏ nhặt. Chiến lược bắt chước để tự vệ giúp họ làm nên nhiều
chuyện thần kỳ. Người Nhật tự hào không một chút mặc cảm
về tiến trình Âu Mỹ hóa nhanh kỳ diệu của mình, họ rất muốn
biết người khác thấy họ bắt chước nước ngoài đã giống chưa.
Điều đáng nói là đằng sau sự bắt chước có vẻ mù quáng ấy là
cả một quyết sách khôn ngoan: bắt chước để cho mình tồn tại
và giàu mạnh lên bằng và hơn kẻ mình bắt chước. Chiến lược
này đã trở thành truyền thống dân tộc và là một trong các bí
quyết khiến Nhật trở thành một quốc gia châu á thịnh vượng
nhất. Do đâu họ có tính hiếu kỳ và hay bắt chước như vậy? Có
thể giải thích về đặc điểm địa lý và tính cách thế này: Nhật
luôn ở ngoài rìa những nền văn minh lớn, bởi vậy họ luôn có
15
mặc cảm của một anh nhà quê, khao khát muốn học hỏi, bắt
chước người thành thị. Trước thế kỷ 19, họ hướng về Trung
Quốc. Trong khi giai cấp thống trị Trung Quốc tự mãn luôn
nghĩ nước mình là trung ương chi quốc, trung tâm tinh hoa, thì
tầng lớp quan lại Nhật chưa bao giờ cho rằng nước mình là
trung tâm của thế giới. Họ hăng hái tiếp thu văn hóa Trung
Quốc: mượn chữ Hán để làm chữ viết, tổ chức triều chính
phỏng theo triều đình Trung Quốc, tiếp nhận Khổng giáo, Phật
giáo, tuy từ xưa họ đã có Thần đạo (Shinto)... Khi thấy trung
tâm văn minh đã chuyển sang phương Tây, họ lập tức đổi
hướng, vua Minh Trị tổ chức lại toàn bộ bộ máy nhà nước: xây
dựng hệ thống chính trị theo kiểu Đức, hạm đội kiểu Anh, nền
hành chính kiểu Pháp, công nghiệp hóa kiểu Mỹ, bỏ chế độ
phong kiến... Nhờ chiến lược “bất đề kháng” và bắt chước
phương tây, Nhật thoát khỏi bị ngoại bang chiếm đóng và
nhanh chóng thực hiện tham vọng trở thành cường quốc số một
châu Á... Bắt chước thành công như vậy là do người Nhật có
hai ưu thế. Thứ nhất, họ thực sự khiêm tốn, vì bắt chước là tự
thừa nhận người khác giỏi hơn mình. Hình như họ không bao
giờ tự mãn và không có bệnh sĩ diện rởm. Thứ hai, họ tin chắc
nền văn hóa Nhật thực sự xán lạn, bền vững, không việc gì
phải sợ vì bắt chước mà bị xói mòn, ngược lại càng tỏa sáng
hơn, tận sâu thẳm tâm hồn người Nhật không hề bị hoen ố bởi
bất cứ cái gì xa lạ, họ gọi đó là “tinh thần Nhật, kiến thức
phương Tây”. Sau mấy nghìn năm du nhập văn hóa Trung
Quốc, nhưng văn minh Nhật vẫn được coi là một trong 8 nền
16
văn minh lớn của thế giới. Ngày nay, văn hóa Nhật đang tác
động mạnh mẽ tới cả thế giới qua các sáng tạo như karaoke,
truyện tranh Doremon, trò chơi điện tử, máy nghe băng
Walkman, đồng hồ Quartz, máy ảnh kỹ thuật số...
3.Sự khác biệt về văn hóa kinh doanh của các châu lục
a.Nhân tố văn hóa trong kinh doanh ở phương Đông:
Khác với phương Tây, văn hóa phương Đông có nguồn gốc
nông nghiệp, đặc trưng là: trong ứng xử với môi trường tự
nhiên thì nghề trồng trọt buộc người dân phải định cư chờ cây
cối lớn lên, ra hoa, kết quả và thu hoạch. Do sống phụ thuộc
nhiều vào thiên nhiên nên cư dân có ý thức tôn trọng thiên
nhiên và có ước vọng sống hòa hợp với thiên nhiên. Do vậy các
thành tựu về chinh phục thiên nhiên của người phương Đông
kém hơn phương Tây. Trong tổ chức cộng đồng, người phương
Đông ưa sống theo nguyên tắc trọng tình nghĩa. Lối sống trọng
tình cảm đó dần dẫn đến thái độ trọng đức, trọng văn, tâm lý
coi trọng tập thể (đối lập với phương Tây)- mang đậm tính
nhân văn. ở phương Đông, Nhật Bản là nước đi tiên phong
trong việc phát huy nhân tố văn hóa để phát triển kinh tế: “Sự
thần kỳ kinh tế sau thế chiến thứ II chính là đỉnh cao vinh
quang trong sự nghiệp phát triển kinh tế của Nhật”. Đây là ví
dụ điển hình cho sự thành công kỳ diệu trong lĩnh vực kinh
doanh kết hợp với những nhân tố văn hóa dân tộc, cũng như
với tư cách là một xã hội phát triển.
Văn hóa Nhật có 4 đặc trưng:
17
- Người Nhật có phương pháp suy nghĩ thiên về tư tưởng thực
tế và kinh nghiệm chủ nghĩa. Nét tiêu biểu cho tư tưởng Nhật
là tư tưởng chính trị và lý luận có tính chất thực tiễn.
- Về mặt kết cấu tinh thần, tâm linh người Nhật dựa trên cơ sở
một tôn giáo khởi nguyên có tính chất “bài siêu việt”, đó là một
tôn giáo không có thần thánh cao siêu, độc nhất như đức Phật
trong Phật giáo hay trong Thiên chúa giáo. Trong quá trình
phát triển người Nhật đã tiếp nhận các tôn giáo khác nhưng chỉ
có Nho giáo là đã góp phần củng cố ý thức người Nhật. Cái mà
Nho giáo đem lại cho người Nhật là lý luận cụ thể để thực
hành.
- Khả năng cảm thụ thế giới tự nhiên xung quanh một cách tinh
tế và giàu hình tượng. Một đặc trưng khác xuất hiện từ thời cận
đại- đó là đặc trưng của “sức mạnh tạo nên một quốc gia có tốc
độ phát triển đáng kinh ngạc”.
Những đặc trưng kể trên đã tạo cho người Nhật những đặc
điểm có tính bền vững: yêu lao động, cần mẫn, hiếu học, yêu
thiên nhiên, có lòng tự trọng dân tộc và nhạy cảm trước những
thay đổi của cuộc sống. Trung thành với đất nước, tôn kính tổ
tiên, tôn kính Hoàng đế, tôn kính người trên. Biết giữ thanh
danh, trung thực, thích sống thực tế hơn là theo đuổi các tư
tưởng, tín điều cao siêu, và “tôn giáo” thịnh hành nhất ở Nhật
cũng là tiêu chuẩn đạo đức hàng đầu của người Nhật hiện này
là: Lao động. Từ mối quan hệ giữa văn hóa và kinh tế trên
hình thành một khái niệm “kinh doanh kiểu Nhật”, nó đã tạo
18
cho các xí nghiệp những động lực mạnh mẽ trong việc du
nhập, áp dụng tiến bộ khoa học- kỹ thuật vào sản xuất kinh
doanh. Nó khắc phục sự đối lập trong mối quan hệ giữa người
công nhân và người quản lý bởi người công nhân không sợ bị
sa thải. Các mối quan hệ trong xí nnghiệp được biểu hiện như
là mối quan hệ trong “gia đình”, trong “nhà” và được hình
thành từ những biến thể của các giá trị văn hóa gia đình. Mọi
người sống và làm việc trong “nhà” đều có chung một nhận
thức rằng họ phải làm có trách nhiệm, quan tâm tới công việc
và mọi mặt đời sống, tình cảm của nhau. Mặt khác, ở đây ta
cũng thấy có ảnh hưởng của tư tưởng “danh, phận” của Khổng
giáo, thể hiện ở lòng tự hào của mọi người khi được là thành
viên của một công ty, một xí nghiệp có tiếng tăm, kinh
doanh thành công trên thương trường. Bởi vậy người công
nhân có thái độ tích cực, chủ động hợp tác, tìm tòi phát huy
sáng kiến cải tiến kỹ thuật...
Tuy nhiên, nước Nhật đã và đang bước qua những năm cuối
thế kỷ 20 và đầu thế kỷ 21 trong thời kỳ suy thoái. Nhận xét
riêng về tinh thần của lớp trẻ, ông Masahiko Ishizuka- Tổng
GĐ Trung tâm Báo chí quốc tế Nhật Bản cho rằng họ đang có
phần bi quan về tương lai của đất nước, tỷ lệ thất nghiệp cao
nhưng thanh niên lại thiếu kiên nhẫn với những công việc đơn
điệu và không có cơ hội thăng tiến. Một cơ cấu kinh tế đang áp
dụng đã có vẻ lỗi thời, phù hợp cho những trung niên- cần việc
làm ổn định để nghĩ đến khoản tiền về hưu hơn là sự tích cực
19
- Xem thêm -