Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Văn hóa australia và kinh nghiệm cho doanh nghiệp việt nam khi đầu tư vào thị tr...

Tài liệu Văn hóa australia và kinh nghiệm cho doanh nghiệp việt nam khi đầu tư vào thị trường này

.DOCX
37
22
134

Mô tả:

Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh 1. Tổng quan về nước ÚC 1.1. Lịch sử hình thành: Năm 1768, Đô đốc Hải quân của Hoàng gia Anh cử thuyền trưởng James Cook và thuỷ thủ đoàn thực hiện chuyến đi khảo sát, thám hiểm nơi gọi là Vùng đảo lớn ở phía Nam (Great South Island). Đoàn thám hiểm mang tên “The Endeavor” đã tới vùng Vịnh Botany và tuyên bố vùng đảo ở khu vực vùng vịnh này thuộc chủ quyền của Anh. Vua George III quyết định sử dụng Vịnh Botany là nơi dành cho các phạm nhân. Tháng 1/1788, hạm đội đầu tiên dưới sự chỉ huy của Thuyền trưởng Arthur Phillip đã chở các phạm nhân ra Vịnh với tổng số trên 168.000 phạm nhân. Trong những năm 1850, khu vực đảo này được phát hiện có chứa nhiều vàng nên đã thu hút thêm nhiều người đến định cư tự dư. Cho đến những năm 1890, dân số của khu vực đảo tăng lên nhanh chóng với sự sát nhập của New South Wale, Wester Australia, Van Di emen’s Land (ngày nay là Tasmania) và Port Phillip (ngày nay là Victoria). Australia trở thành một quốc gia kể từ ngày 1/1/1901. 1.2 Các thông tin tóm tắt cơ bản, tổng quát về Liên bang Australia: - Tên nước: Liên bang Australia (Commonwealth of Australia) - Ngày quốc khánh: 26/1/1788 - Thủ đô: Canberra - Vị trí địa lý: Australia nằm ở bán cầu Nam; được bao bọc Nam Thái Bình Dương ở phía Đông; Ấn Độ Dương ở phía Tây; biển Araphura ở phía Bắc và đảo Taxmania ở phía Nam. Australia không có biên giới đất liền với nước nào. - Diện tích: 7.617.930km2 - Khí hậu: Ôn hòa, lục địa, thay đổi rõ rệt theo ba vùng: Cận xích đạo ở phía Bắc, nhiệt đới ở vùng trung tâm và cận nhiệt đới ở phía Nam. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 1 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh - Dân số: 22.509.890 (con số ước lượng đến 2010) - Dân tộc: Người da trắng (94%), người châu Á (2%), người bản xứ (thổ dân) (1%), các chủng tộc khác (3%). - Cơ cấu hành chính: Australia là một đất nước rộng lớn bao gồm 6 tiểu bang và 2 vùng lãnh thổ chính. Các tiểu bang đó là: New South Wales (NSW), Queensland (QLD), Nam Australia (SA), Tasmania (TAS), Victoria (VIC) và Tây Australia (WA). Hai vùng lãnh thổ chính là Lãnh thổ phía Bắc (Northern Territory - NT) và Lãnh thổ thủ đô Australia (Australian Capital Territory - ACT). Lãnh thổ thủ đô kết hợp với một vùng lãnh thổ riêng biệt nằm trong New South Wales gọi là Lãnh địa Vịnh Jervis (Jervis Bay Territory) đóng vai trò là căn cứ hải quân và cảng biển cho thủ đô.Ngoài ra, Australia còn có một số vùng lãnh thổ bên ngoài có cư dân sinh sống (đảo Norfolk, đảo Christmas, quần đảo Cocos và Keeling) và một số đảo hầu như không có người sinh sống như quần đảo Biển san hô (Coral Sea Islands Territory), quần đảo Heard và McDonald và lãnh địa Nam cực thuộc Australia. - Cơ cấu chính quyền: Theo chế độ quân chủ lập hiến, là thành viên khối liên hiệp Anh. Hệ thống pháp luật: Dựa trên hệ thống pháp luật phổ thông của Anh, Ngành tư pháp cũng có 2 cấp liên bang và tiểu bang. - Đơn vị tiền tệ: Đồng đôla Australia (AUD) - Tôn giáo: Anh quốc giáo (26,1%); Cơ Đốc giáo (26%), các tôn giáo khác (24,3%). - Ngôn ngữ: Tiếng Anh; một số thổ ngữ khác cũng được sử dụng. 1.3. Chính trị: Thể chế chính trị: Quân chủ lập hiến. * Hiến pháp: Thông qua ngày 9/7/1990 * Cơ quan hành pháp: Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 2 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh - Đứng đầu Nhà nước là Nữ hoàng Anh, thông qua đại diện toàn quyền. Toàn quyền do Nữ hoàng chỉ định. - Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng, thông qua bầu cử, có nhiệm kỳ 3 năm. Thủ tướng chỉ định các Bộ trưởng trong Nội các. Hệ thống chính trị được xây dựng theo cơ cấu liên bang-tiểu bang. * Cơ quan lập pháp: Quốc hội liên bang gồm hai viện: - Thượng viện: 76 ghế (mỗi bang được 12 ghế và mỗi vùng được 2 ghế; một nửa số thành viên được bầu 3 năm một lần theo phổ thông đầu phiếu). - Hạ viện: 150 ghế (được bầu theo phổ thông đầu phiếu trên cơ sở đại diện tỷ lệ, nhiệm kỳ 3 năm; không bang nào có dưới 5 đại biểu). 2.KINH TẾ CHÂU AUSTRALIA 2.1 Tổng quan tình hình phát triển kinh tế Australia có một môi trường kinh tế, chính trị và xã hội ổn định nhất trong khu vực. Nền kinh tế Australia mang tính cạnh tranh cao và là nền kinh tế đứng thứ 14 toàn cầu. Với tốc độ phát triển kinh tế, lạm phát thấp, lãi suất thấp, Australia đang được coi là nên kinh tế phát triển năng động bậc nhất trong số các nước công nghiệp phát triển. Australia có một khu vực kinh tế tư nhân hoạt động hiệu quả, một thị trường lao động năng động và một khu vực thương mại rất có tính cạnh tranh. Australia là một trong những nền kinh tế mở nhất trên thế giới. Tăng trưởng kinh tế nhanh trong suốt 17 năm qua luôn đi kèm với lạm phát thấp và năng lực sản xuất cao, khiến nền kinh tế Australia vận hành vững chắc trong những năm 2000 - 2007 trái ngược lại với tình trạng suy thoái kinh tế trên toàn cầu. Tuy nhiên trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới từ cuối năm 2007 đến nay, nền kinh tế Australia cũng bị tác động với tỷ lệ lạm phát cao nhất kể từ 1991 và những lo ngại nền kinh tế phát triển quá nóng. Trong quý I/2008 GDP đã tăng 0,6% so với quý IV/2007, gấp đôi so với dự đoán. Tính đến Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 3 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh tháng 6/2008, ngân hàng trung ương nước này đã lần thứ ba tăng lãi suất, lên mức 7.25% để hãm bớt tốc độ tăng trưởng. Nhìn chung nước Úc có một nền kinh tế phát triển với thu nhập bình quân theo đầu người cao hơn Liên Hiệp Anh, Đức và Pháp một chút theo sức mua tương đương. Nước này cũng được xếp hạng ba về chỉ số phát triển con người của Liên hiệp quốc năm 2007 và hạng sáu về chỉ số chất lượng cuộc sống của tạp chí tin tức The Economist năm 2005. Nước Úc còn nắm giữ kỷ lục với 4 thành phố lớn nằm trong danh sách những thành phố dễ sống nhất thế giới là Melbourne (hạng 2), Perth (hạng 4), Adelaide (hạng 7) và Sydney (hạng 9)[41]. GDP của Úc (đỏ) và chỉ số giá tiêu dùng (xanh), 1970-2008. Nguồn từ ngân hàng chính của Úc 2.2 Nền kinh tế Australia có một số nét đặc trưng tiêu bi ểu: 2.2.1. Nền Kinh tế tự do : Từ đầu những năm 1980 trở đi, kinh tế Australia đã tiếp tục thực hiện theo nền kinh tế tự do. Trong năm 1983, dưới thời thủ tướng Bob Hawke, đồng đô la Úc được thả nổi và chính sách tài chính khôn khéo bãi bỏ sự điều tiết được đưa vào thực hiện. Đầu những năm 1990 cho thấy nền kinh tế Australia lâm vào thoái trào và nợ của chính phủ tăng lên tới $96 tỷ dưới thời thủ tướng Paul Keating. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 4 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Món nợ $96 tỷ của chính phủ đã được thanh toán đầy đủ vào giữa những năm 1996 và 2007 bởi chính phủ theo đường lối tự do của thủ tướng John Howard và giám đốc ngân hàng Peter Costello. Trong suốt thời kỳ lãnh đạo, giới thiệu thuế hàng hóa và dịch vụ (GST) tìm cách khuyến khích mức độ tiết kiệm giữa người có thu nhập thấp. 2.2.2. Nền kinh tế có sức cạnh tranh cao Australia là một trong những nền kinh tế lớn có tính mở và có sức cạnh tranh cao. Nền kinh tế phát triển mạnh bắt nguồn từ sự quản lý kinh tế hiệu quả và cải cách cơ cấu hợp lý. Khu vực kinh tế tư nhân của Australia có sức canh tranh cao, năng động và một lực lượng lao động lành nghề, linh hoạt. Từ năm 2002 đến nay, ngân sách chính phủ liên tục thặng dư nhờ doanh thu tăng trưởng mạnh. 2.2.3. Nền kinh tế tăng trưởng mạnh và lạm phát thấp Trung bình tăng trưởng GDP thực tế của Australia vào khoảng 3.4% kể từ năm 1998. Tăng trưởng kinh tế luôn đi kèm với lạm phát thấp. Nhưng từ cuối năm 2006, nền kinh tế hiện đang có những dấu hiệu tăng trưởng nóng. Tăng trưởng GDP thực tế năm 2007 là 3.9%, kèm theo lạm phát tăng do ảnh hưởng của tình hình kinh tế thế giới. Một nhân tố quan trọng đóng góp vào sự thành công của Australia trong việc duy trì lạm phát thấp với mức tăng trưởng cao chính là sức sản xuất cao của nền kinh tế. Từ năm 1990, sức sản xuất của Australia tăng trung bình 2.3%. Đây là một trong những mức cao nhất trong các nước OECD - trên 1.8%. Khu vực kinh doanh quy mô nhỏ của Australia có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Khu vực này giải quyết việc làm cho 58% lực lượng lao động tăng thêm hàng năm và khoảng 30% sản xuất kinh tế của Australia. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 5 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh 2.2.4. Một cơ cấu kinh tế mạnh Australia hiện có một khung chính sách kinh tế khá toàn diện. Nền kinh tế có sức cạnh tranh mang tính toàn cầu và là một địa chỉ đầu tư hấp dẫn. Australia có một cơ cấu kinh tế hợp lý, ổn định và hiện đại tạo sự an toàn cho hoạt động kinh doanh. Australia là một nền kinh tế mở với hệ thống thuế dành ưu đãi khá nhiều cho giới kinh doanh, ít rào cản thương mại và đầu tư. Thị trường lao động linh hoạt và độ lành nghề cao, với tăng trưởng kinh tế mạnh, mức lương và giá cả vừa phải, tạo sức đẩy liên tục trong giải quyết việc làm. 2.2.5. Nền công nghiệp tri thức Australia là một trong những nền kinh tế hiện đại chủ yếu dựa trên kinh tế tri thức - tức là nền kinh tế được điều khiển bởi các hoạt động sản xuất, phân phối sử dụng tri thức và công nghệ thông tin. Các ngành công nghiệp dựa trên tri thức (knowledge-based industries) hiện đóng góp gần một nửa GDP của Australia. Vai trò của kỹ năng, tri thức, đổi mới các doanh nghiệp cũng như mạng thông tin trong nước và quốc tế đối với sức cạnh tranh trong thương mại quốc tế của Australia ngày càng trở nên quan trọng. Thông tin và công nghệ thông tin là một trong những ngành công nghiệp chủ chốt đem lại sự tăng trưởng kinh tế cho Australia. Người dân Australia có một phần không nhỏ là dân di cư đến từ khoảng 200 nước trên thế giới, nhờ đó lực lượng lao động Australia được đánh giá là biết nhiều thứ tiếng nhất trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương. Hơn 4.1 triệu người Australia có thể nói được ngôn ngữ thứ hai trong đó có 3 triệu người nói ngôn ngữ không phải là tiếng Anh bản địa. 2.2.5. Sự điều chỉnh kinh tế trong nước Cải cách cơ cấu là nhân tố đầy sức mạnh đưa nền kinh tế Australia hoạt động hiệu quả hơn, có sức sản xuất lớn hơn. Tương ứng với những cải cách này, rất nhiều công ty của Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 6 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Australia lĩnh hội rằng hướng vào nhu cầu của thị trường thế giới và những cơ hội hiện có sẽ có thể mang lại lợi nhuận cao cho họ. Các doanh nghiệp của Australia hiện được coi là những nhà sản xuất hàng hoá và dịch vụ chất lượng cao trên thị trường thế giới. Đây là một thuận lợi về uy tín, hỗ trợ cho sức cạnh tranh của hàng hoá và dịch vụ của Australia trên thị trường thế giới. Những cải cách trong thời gian gần đây của Australia tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau: + Giảm thuế quan nhập khẩu, mở cửa thị trường: Australia đã thừa nhận lợi ích của việc mở cửa thị trường thông qua việc giảm hơn một nửa thuế đánh trên hàng nhập khẩu. + Cải tiến chính sách cạnh tranh: Nhận ra rằng sự tiếp cận thị trường của hàng hoá nhập khẩu có thể gặp khó khăn nếu chính sách cạnh tranh không phát huy hiệu + Thay đổi hệ thống thuế: Những thay đổi trong hệ thống thuế đã làm giảm đáng kể chi phí kinh doanh, đặc biệt là đối với những người xuất khẩu + Cải cách về quan hệ lao động: Những cải cách về quan hệ lao động làm cho thị trường lao động linh hoạt và có khả năng thích nghi cao hơn, củng cố niềm tin vào chất lượng và trách nhiệm cuả hoạt động cung cấp sản phẩm xuất khẩu của Australia. + Bãi bỏ một số quy định trong một số ngành của nền kinh tế - như tài chính, vận tải hàng không, điện và các ngành viễn thông-điều này đã làm tăng sức cạnh tranh cho nền kinh tế Australia. + Các chương trình mục tiêu của Chính phủ đang đẩy mạnh khả năng đổi mới của Australia 2.2.7. Một số đặc điểm khác: + Với nguồn tài nguyên tự nhiên dồi dào, ngay từ thế kỷ 19, Australia đã có mức sống cao. Quốc gia này đã đầu tư tương đối lớn vào cơ sở hạ tầng xã hội, bao gồm giáo dục, đào tạo, y tế và vận tải. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 7 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh + Lực lượng lao động Australia được xem là có nhiều tiến bộ trong những năm vừa qua, những tiến bộ đó đã nâng cao năng lực sản xuất trong những năm 1990. Australia có khoảng 10 triệu lao động. Người lao động Australia được đào tạo tốt và có trình độ cao. + Trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, kỹ năng ngôn ngữ là lợi thế chủ yếu của lực lượng lao động. Mặc dù Australia là một nước nói tiếng Anh, nhưng hơn 4.1 triệu người Australia biết ngôn ngữ thứ hai + Australia là một nước có một nền kinh tế tư bản phương tây phát triển, với khu vực dịch vụ chiếm ưu thế, đóng góp 68% GDP. Khu vực nông nghiệp và khai khoáng chỉ chiếm 4.7% nhưng lại chiếm tới 65% giá trị xuất khẩu. Australia có chỉ số GDP/ đầu người tương đương với bốn nền kinh tế lớn của Tây âu. Năm 2007, GDP đạt 908.8 tỷ USD, đứng thứ 14 thế giới. + Sự gia tăng sản lượng trong nền kinh tế nội địa, sự kinh doanh sôi động, cùng với sự gia tăng xuất khẩu của những nguyên liệu thô và những sản phẩm nông nghiệp đã tiếp lửa cho nền kinh tế đất nước. 2.3 Các ngành kinh tế trọng điểm 2.3.1. Nông nghiệp và thủy sản Nông nghiệp ở Australia phát triển theo hướng hiện đại và thậm chí được xem như một ngành công nghiệp. Nó thu hút 420000 lao động và đóng góp 3% vào GDP. Tuy phần đóng góp rất nhỏ bé so với khu vực dịch vụ, nhưng đây lại là mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Úc. Vào thập niên năm mươi của thế kỷ XX, nông nghiệp đóng góp tới 80% giá trị xuất khẩu, nhưng đến nay con số đang giảm dần. Nền nông nghiệp Australia phải đối mặt với một số thách thức như: vấn đề bảo vệ nguồn nước để chống hạn hán, chống nhiễm mặn đất và cuộc tranh cãi xung quanh việc phát triển thực phẩm biến đổi gen. Ở thị trường trong nước, các doanh nghiệp kinh doanh nông phẩm phải cạnh tranh gay gắt để giành cơ hội xuất khẩu. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 8 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Ngành thuỷ sản cũng phát triển mạnh mẽ. Mặt hàng tôm sú, tôm hùm, bào ngư,… của Australia được xuất khẩu ra thị trường thế giới với kim ngạch đạt1,6 tỷ A$ (tính theo giá FOB)trong năm2003-2004. 2.3.2 Dịch vụ Lĩnh vực dịch vụ của Australia đã tăng trưởng đáng kể trong những thập kỷ gần đây. Lĩnh vực này bao gồm phần lớn các hoạt động kinh tế đa dạng. Dịch vụ chiếm khoảng 47% GDP trong năm 2003-2004 và có kim ngạch xuất khẩu ngày càng tăng, ở mức trung bình 10,3%/năm trong vòng 20 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu đạt mức kỷ lục là 33,9 tỷ A$ trong năm 2003-2004, tăng khoảng 4,7% so với năm 2002-2003 và 0,8% so với năm 2000-2001, năm diễn ra Thế vận hội Olympic. Trong năm 2003-2004, kim ngạch xuất khẩu dịch vụ chiếm khoảng 24% tổng kim ngạch xuất khẩu của Australia Sự phát triển trong lĩnh vực dịch vụ của Australia phần lớn là do sự tămg trưởng nhu cầu đối với các dịch vụ mới và phức tạp như việc ứng dụng công nghệ mới để đáp ứng nhu cầu này, đặc biệt trong lĩnh vực dịch vụ tài chính, kinh doanh, vận tải, viễn thông và giải trí. Du lịch là ngành dịch vụ mũi nhọn của Australia, góp phần đáng kể trong việc tạo việc làm, thúc đẩy xuất khẩu và kinh tế khu vực. Việc tận dụng những tiềm năng du lịch của Australia là một yếu tố quan trọng để thúc đẩy tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ, tạo công ăn việc làm và phát triển xuất khẩu. Du lịch từ nước ngoài dự kiến sẽ đóng góp 30 tỷA$ vào tổng kim ngạch xuất khẩu của nền kinh tế Austalia vào năm 2009-2010, thu hút 9 triệu du khách nước ngoài. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 9 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Xuất khẩu dịch vụ giáo dục cũng đóng góp một phần quan trọng trong tăng trưởng chung của xuất khẩu dịch vụ. Đây là lĩnh vực đứng thứ 3 trong xuất khẩu dịch vụ của Australia sau du lịch và vận tải. Dịch vụ kinh doanh và dạy nghề là một trong những ngành công nghiệp tri thức có tốc độ phát triển nhanh nhất của Australia. Lĩnh vực này bao gồm các lọai hình dịch vụ đa dạng, từ các ngành truyền thông như kế toán, luật, kiến trúc và cơ khí máy móc cho tới dịch vụ nghiên cứu thị trường, quản lý kinh doanh và công nghệ thông tin. Tăng trưởng dịch vụ tài chính trên toàn cầu thông qua các thị trường tài chính mở và ít ràng buộc bởi các luật lệ đã tạo ra thị trường toàn cầu cho các quỹ đầu tư. 2.3.3 Sản xuất chế tạo Hầu hết các ngành sản xuất chế tạo của Australia được hỗ trỡ bởi các mức thuế suất bảo hộ trong nửa đầu thế kỷ và trong những năm đầu của thời kỳ sau chiến tranh. Tuy nhiên, rất nhiều ngành do được hình thành nhờ các rào cản thuế quan bảo hộ nên có rất ít động lực để nâng cao hiệu quả hoặc vươn ra ngoài thị trương nội địa. Trong thập kỷ qua, sức cạnh tranh của rất nhiều ngành sản xuất chế tạo đã được nâng cao thông qua chương trình cải cách kinh tếvi mô của Chính Phủ bao gồm các biện pháp như hạ giá đồng tiền, kiềm chế tiền lương và điều tiết lợi nhuận. Sự hỗ trợ kịp thời của Chính Phủ đã tạo nên cú hích cho rất nhiều ngành tìm cách nâng cao khả năng cạnh tranh, đặc biệt là sản xuất hướng vào xuất khẩu. Ngành sản xuất chế tạo của Australia đã đạt được những thành quả quan trọng trong những năm gần đây nhờ những cải cách mạnh mẽ như giảm thuế suất và ứng dụng công nghệ tiến bộ. Với khả năng cạnh tranh toàn cầu và hướng vào xuất khẩu, ngành này đang trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu trong đó trọng tâm là những hàng hoá có mức độ tinh xảo cao. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 10 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Trong năm 2003-2004, kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng sản xuất chế tạo của Australia chiếm 16% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ, giảm 5,5% so với cùng kỳ năm trước, thấp hơn rất nhiều so với mức tăng trưởng bình quân hàng năm trong vòng 5 năm qua. 2.3.4.Năng lượng và khai mỏ Rất nhiều tài nguyên khoáng sản được tìm thấy ở Australia và hầu hết được xuất khẩu. Trên thực tê, Australia là một trong số ít các nền kinh tế phát triển dòng năng lượng với kim ngạch xuất khẩu khoáng sản chiểm 35% tổng kim ngạch xuất khẩu (bao gồm cả dịch vụ) và 64% kim ngạch xuất khẩu hàng hoá trong năm 2003-2004. Xuất khẩu năng lượng của Australia ước đạt 20,7 tỷ A$ trong năm 2003-2004, trong đó khoáng sản chiếm 32,3 tỷ A$ (tính theo giá FOB). Các mặt hàng khoáng sản xuất khẩu chính bao gồm than đá, dầu mỏ, vàng, quặng sắt, ôxit nhôm, nhôm, khí đốt tự nhiên và đồng Ngành công nghiệp khai mỏ của Australia phát triển mạnh mẽ và Australia được đánh giá là một trong những nước có tiềm năng nhất trên thế giới trong ngành này. 2.3.5.Chế biến thực phẩm Ngành chế biến thực phẩm của Australia rất đa dạng về chủng loại sản phẩm và là một thành phần thiết yếu của nền kinh tế quốc gia này. Đây là ngành công nghiệp lớn nhất cả nước với doanh thu hơn 71.4 tỷ USD trong năm 2005-06. Mặt hàng này tăng trưởng về giá trị trung bình 2% mỗi năm trong suốt mười năm qua. 50 công ty chế biến thực phẩm và đồ uống lớn nhất nước Úc chiếm tới ¾ thị trường nội địa. Siêu thị và các đại lý chiếm phần lớn doanh số tiêu thụ thực phẩm, khoảng 60% tổng giá trị bán lẻ mặt hàng này trong năm 2006-2007 2.3.6 Khai khoáng Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 11 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Khai khoáng là một trong những ngành công nghiệp xuất hiện sớm nhất ở Úc. Quan trọng nhất phải kể tới ngành khai thác than đá. Than được khai thác ở tất cả các bang của Úc. Nó được dùng để sản xuất nhiệt điện và xuất khẩu. 75% sản lượng than được xuất khẩu, chủ yếu là tới thị trường Đông Á. Than cung cấp 85% sản lượng điện tiêu thụ cho quốc gia này. Khai khoáng đóng góp 5.6% vào GDP, nhưng lại chiếm tới 35% kim ngạch xuất khẩu của Úc. Đây là nhà xuất khẩu lớn nhất thế giới về than đá, quặng sắt, chì, kim cương, titan, thiếc và riniconi; đứng thứ hai về vàng và uranium; đứng thứ ba thế giới về xuất khẩu nhôm. 2.3.7. Thương mại Bên cạnh việc duy trì tốc độ phát triển thương mại hàng hoá mạnh mẽ, thị trường xuất khẩu các dịch vụ mới và các sản phẩm sản xuất chế tạo tinh vi cũng đã phát triển. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ năm 2007 của Australia lên đến 454.3 tỷ A$, chiếm khoảng 1% thương mại toàn cầu. Những đối tác thương mại lớn nhất của Úc là Trung Quốc, Nhật Bản, Hoa Kỳ và Hàn Quốc. Nghiên cứu gần đây của OECD cho thấy sức mạnh của Australia không những thể hiện ở những ngành truyền thống, mà còn đứng trong hàng ngũ sáu nền kinh tế mới tăng trưởng nhanh và thành công nhất. Australia là một nước có hạ tầng công nghệ thông tin liên lạc, môi trường kinh doanh và đào tạo nguồn nhân lực rất phát triển. Hơn nữa, Nhờ sự đa dạng hoá cơ sở xuất khẩu (export base), Australia hiện không chỉ là nước xuất khẩu hàng hoá mà còn là nước có nền công nghiệp sản xuất chế tạo và công nghiệp dịch vụ tinh vi. Thương mại hàng hoá của Australia phát triển mạnh, thị trường xuất khẩu các dịch vụ mới và các sản phẩm sản xuất chế tạo tinh vi cũng đã nổi lên. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều Việt Nam – Australia vẫn tiếp tục tăng trưởng đều và khá cao trong những năm qua với tốc độ tăng trưởng bình quân trên 12%/năm. Năm 2004 đã có sự chuyển biến rất lớn trong quan hệ thương mại hành hoá giữa hai nước; kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Australia tăng trưởng mạnh so với năm 2003 Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 12 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh (tăng 27%, đạt 1,82 tỷ US$) trong khi kim ngạch nhập khẩu từ Australia tăng 72% (đạt 456 triệu US$) Hiện Australia là đối tác thương mại thứ 7 của Việt nam, về xuất khẩu là thị trường xuất khẩu lớn thứ tư sau Mỹ, Nhật Bản, Trung Quốc. Tuy nhiên, trong quan hệ thương mại Việ Nam – Australia, thặng dư thương mại khá lớn, đạt 1,4 tỷ US$, (chủ yếu do Việt Nam xuất khẩu dầu thô sang Australia). Các mặt hàng xuất khẩu (ngoài dầu thô) gồm thuỷ hải sản, hật điều, đồ gỗ, thủ công mỹ nghệ đều có tốc độ tăng trưởng rất mạnh. Điều này cho thấy tiềm năng xuất khẩu sang thị trường này rất lớn mà ta chưa khai thác hết. Điểm mạnh nhất của hoạt động xuất khẩu Australia được thể hiện trong hoạt động xuất khẩu các sản phẩm sơ cấp (primary products). Sản phẩm sơ cấp xuất khẩu của Australia bao gồm nông sản, khoáng sản và sản phẩm năng lượng. Những sản phẩm này có đóng góp rất to lớn đối với sự phát triển quốc gia. Australia là nước dẫn đầu thế giới về hàng nông sản và thực phẩm chất lượng cao. Australia cũng xuất khẩu những sản phẩm sơ cấp của mình dưới hình thức gia công xuất khẩu, thể hiện sự nhanh nhạy trong xuất khẩu tổng hợp. Những nhân tố thúc đẩy sự tăng trưởng và thay đổi to lớn trong xuất khẩu của Australia bao gồm: sự đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá thị trường mục tiêu và đổi mới, tạo giá trị gia tăng ngay từ sản phẩm gốc, tăng nhu cầu của thế giới đối với đồ uống và thực phẩm gia công. 2.4 . Đầu tư Úc là một địa chỉ đầu tư có sức cạnh tranh cao ở châu Á Thái Bình Dương với khá nhiều lợi thế thu hút đầu tư như: - Một nền kinh tế mở, phát triển mạnh và dự báo sẽ tiếp tục tăng trưởng cao trong những năm tới. - Lạm phát và lãi suất thấp. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 13 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh - Chính sách tài chính và tiền tệ được quản lý và thực hiện tốt. - Lực lượng lao động tận tuỵ và đáng tin cậy và tỷ lệ tranh chấp công nghiệp thấp. - Lực lượng lao động biết sử dụng nhiều thứ tiếng, được đào tạo ở trình độ cao, lành nghề, biết sử dụng máy vi tính. - Các chi phí về tiền lương, chi phí bất động sản và xây dựng thấp so với các nước phát triển khác, năng suất lao động cao. - Môi trường pháp lý có tính mở và hiệu quả. - Thị trường nội địa có quy mô tương đối lớn và liên kết chặt chẽ với khu vực châu Á Thái Bình Dương. - Chi phí nghiên cứu và phát triển và chi phí cơ sở hạ tầng kinh doanh thấp. - Hạ tầng viễn thông và kỹ thuật thông tin ngang tầm với các nước phát triển khác trên thế giới. - Môi trường chính trị ổn định, đầu tư trực tiếp nước ngoài được khuyến khích và ưu đãi trong đó Chính phủ Úc cam kết cung cấp các dịch vụ đầu tư chất lượng cao. Trong suốt 18 năm qua, Úc đã thực hiện thành công cuộc cách mạng kinh tế và hiện nay quốc gia này đã trở thành một trong những nước có nền kinh tế mở nhất, ổn định nhất và đáng tin tưởng nhất trên thế giới với mức tăng trưởng kinh tế cao và lạm phát thấp. Úc mời gọi đầu tư nước ngoài và liên kết tốt với nền kinh tế toàn cầu. Những cải cách gần đây trong hệ thống thuế của Úc dự báo sẽ có nhưng ảnh hưởng sâu sắc tích cực hơn nữa tới môi trường đầu tư vµ kinh doanh. Sự phát triển công nghệ và đổi mới ngày càng trở nên quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế Úc. Trong suốt thập kỷ qua, Úc đã nhanh chóng thực hiện phát triển công nghệ thông tin để tăng giá trị gia tăng cho các hoạt động kinh doanh trong tất cả các lĩnh vực công nghiệp và dịch vụ. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 14 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Tính đến 31/12/2004, Australia có 133 dự án được cấp giấy phép với 1,042 tỷ US$ vốn đầu tư vào Việt Nam. Tổng mức vốn thực hiện đạt 312 triệu US$, doanh thu đạt 1,115 tỷ US$ trong năm 2003 và sử dụng 5.958 lao động. Các dự án của Australia đã có mặt tại 21 tỉnh, thành phố của Việt Nam, chủ yếu tập trung vào 4 lĩnh vực là bưu chính- viễn thông, công nghiêp nặng, công nghiệp thực phẩm, các dịch vụ giáo dục, tài chính, y tế, bảo hiểm … và đã mang lại hiệu quả tôt, góp phần tích cực vào sự phát triển của Việt Nam. Đến nay, có hơn 120 công ty của Australia đã và đang hoạt động tại Việt Nam trong nhiều lĩnh vực như khai khoáng, dầu khí, chế biến thực phẩm, dịch vụ, sản xuất vật liệu xây dựng, khách sạn, bưu chính viễn thông, y tế … Australia có thế mạnh đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp và chế biến thực phẩm. Trong những năm gần đây, các công ty Australia đầu tư vào lĩnh vực thực phẩm và nước giải khát ở Việt Nam đã tăng đáng kể, nhất là trong sản xuất bia, chế biến thực phẩm từ bơ sữa, đóng gói đồ uống v.v… Năm 1996, Australia đã xuất khẩu thực phẩm và nước giải khát sang Việt Nam đạt giá trị 37,8 triệu A$ 2.5. Cở sở hạ tầng kinh tế 2.5.1.Truyền thông - thông tin Úc có hệ thống hạ tầng công nghệ thông tin, bưu chính viễn thông và thông tin liên lạc hiện đại trên thế giới. Lĩnh vực công nghệ thông tin và truyền thông (ITC) của Úc cung cấp những dịch vụ rất đáng tin cậy và có giá cả rất cạnh tranh. Trong lĩnh vực thương mại, tháng 6/2002 có 84% doanh nghiệp sử dụng máy tính và trên 80% doanh nghiệp lớn và 55% doanh nghiệp vừa đã thiết lập được trang web cho riêng mình. Úc đã có mạng thông tin kết nối rộng khắp tới các địa phương trong cả nước và tới Bắc Mỹ và Châu Âu bằng các đường cáp và vệ tinh. Sydney được coi là một trung tâm viễn thông và là điểm giao dịch Internet chính của Úc. Thành phố được kết nối thông qua đường dây cáp chạy dưới đáy biển nối liền những đường cáp ngầm với mạng lưới đường dây cáp trong thành phố. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 15 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Số thuê bao điện thoại: thuê bao cố định 9,94 triệu (2006), thuê bao di động 19,76 triệu (2006) Thuê bao Internet: 9,458 triệu (2007) Số người sử dụng Intenet: 15,3 triệu (2006). Mã Internet quốc gia: .au Số đài phát thanh, truyền hình :104 (1997). Tần số radio: AM 262, FM 345, sóng ngắn 1 (1998). 2.5.2 Giao thông Mạng lưới đường giao thông nội địa (bao gồm đường ô tô và đường xe lửa) đóng vai trò quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia Úc. Việc vận chuyển bằng ô tô chiếm tới gần 80% tổng lượng vận chuyển có quãng đường nhỏ hơn 100 km và là phương thức vận chuyển thích hợp với những hàng hoá dễ hỏng. Vận chuyển bằng đường ô tô cũng được sử dụng để phân phối những hàng hoá có quãng đường vận chuyển từ trung bình đến dài. Đường xe lửa phù hợp với việc vận chuyển container, sắt thep và các loại hàng hoá siêu trường siêu trọng, với quãng đường vận chuyển dài. + Đường sắt: 38.550 km. Trong đó 3.727 km có độ rộng 1,6m; 20.519 km có độ rộng 1,435m (trong đó 1.877 km là đường tàu điện); 14.074 km có độ rộng 1,067 m (trong đó 2.45km đường tàu điện); 230 km có độ rộng nhỏ hơn 1,067m (2006). + Đường thuỷ: 2,000 km (chủ yếu sử dụng cho các hoạt động trên sông Murray và hệt thống sông Murray - Darling) (2006). + Đường bộ: 812,972 km. Trong đó đã lát: 341.448 km; chưa lát: 471.524km (2004). + Đường ống: gas/khí đặc 469 km; gas 26.719 km; xăng dầu 240 km; dầu 3.720 km; dầu/gas/nước 110 km (2007.) Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 16 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh +Hải cảng và kho bãi: Brisbane, Dampier, Fremantle, Gladstone, Hay Point, Melbourne, Newcastle, Port Hedland, Port Kembla, Port Walcott, Sydney. +Hàng hải: có 52 tàu trọng tải từ 1000 GRT trở lên Trong đó: tàu chuyên chở cỡ lớn: 16; tàu hàng: 5; tàu chở hóa chất: 1; tàu container: 1; tàu chở khí hóa lỏng: 4; tàu chở khách: 7; tàu chở khách/hang: 6; tàu chở dầu: 7; roll on/roll off: 5. 2.6. Các chỉ số kinh tế, thương mại cơ bản (2007) - GDP (ngang giá sức mua): $760,8 tỷ (ước năm 2007) - GDP (tỷ giá chính thức): 908,8 tỷ (ước năm 2007). - Tỷ lệ tăng GDP thực tế: 3,9% (ước 2007). - GDP đầu người (ngang giá sức mua): 36 300$ (ước năm 2007). - Tỷ lệ đóng góp GDP: Nông nghiệp: 3% Công nghiệp: 26,4%. Dịch vụ: 70,6%. (ước năm 2007) - Tỷ lệ lạm phát: 2.3% (2007). - Lực lượng lao động: 10,95 triệu (ước 2007). - Tỷ lệ lực lượng lao động theo ngành: Nông nghiệp: 3,6%. Công nghiệp: 21,2%. Dịch vụ: 75,2% (ước 2004). - Tỷ lệ thất nghiệp: 4,4% (ước 2007). - Hệ số Gini: 30,5 (2006). - Đầu tư: 27,3% GDP (ước 2007). Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 17 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh - Thu chi ngân sách: + Thu ngân sách : $321,3 tỷ (ước 2007) + Chi ngân sách: $309,1 tỷ (ước 2007) - Nợ quốc gia: 15,4% GDP (Chính phủ đã trả hết nợ ròng vào năm 2006 nhưng tiếp tục vay nợ để hỗ trợ thị trường trước những rủi ro chứng khoán) (ước 2007). - Sản phẩm nông nghiệp: lúa mì, lúa mạch, mía, gia súc, cừu, gia cầm. - Các ngành công nghiệp: khai khoáng, thiết bị công nghiệp và giao thông, chế biến thực phẩm, hóa chất, thép. - Mức tăng trưởng sản xuất công nghiệp: 13,8% (2007) - Cán cân vãng lai: $-56,2 tỷ (ước 2007). - Xuất khẩu: $141,7 tỷ (ước 2007). - Nhập khẩu: $159,4 tỷ (ước 2007). (Nguồn: CIA Factbook) 2.7. Quan hệ quốc tế Những thập niên gần đây, quan hệ đối ngoại của Australia chịu ảnh hưởng của liên minh quân sự với Hoa Kỳ thông qua Hiệp ước ANZUS, đồng thời thể hiện mong muốn thắt chặt quan hệ với các nước Châu Á - Thái Bình Dương, đặc biệt là với khối ASEAN và Diễn đàn các đảo Thái Bình Dương PIF. Australia là thành viên của khối Thịnh vượng chung (Gồm Vương quốc Anh và một số quốc gia độc lập và phụ thuộc), nơi mà sự gặp gỡ của các nguyên thủ trong khối là một diễn đàn chính thúc đẩy hợp tác. Australia ủng hộ mạnh mẽ tự do hoá thương mại quốc tế. Quốc gia này khới xướng thành lập khối Cairns (nhóm 19 nước xuất khẩu nông sản lớn) và Diễn đàn Hợp tác Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương. Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 18 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh Là một trong số những nước sáng lập Liên Hợp Quốc, Australia duy trì một chương trình viện trợ quốc tế cho 60 quốc gia kém phát triển. 2005-2006, ngân sách cho khoản viện trợ này ước tính 2.5 tỷ A$, chiếm 1%GDP. Việt Nam và Australia đã ký nhiều Hiệp định quan trọng như sau:  Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (6/90)  Hiệp định khuyến khích và đảm bảo đầu tư(3/91),  Hiệp định tránh đánh thuế hai lần(4/92),  Hiệp định hàng không (7/95),  Thoả thuận hợp tác phát triển (5/93) và trên cơ sở thoả thuận này, hai bên đã ký tiếp Thoả thuận bổ sung về dự án trợ giúp lĩnh vực pháp luật (2/97),  Thoả thuận chung về hợp tác khoa học và công nghệ (5/93)  Bản ghi nhớ về hợp tác giữa hai nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ (8/95),  Cam kết hợp tác xây dựng Cầu Mỹ Thuận (7/95),  Hiệp định lãnh sự (7/2003) và hai bên đang xem xét ký tiếp các hợp đồng về du lịch và vận tải biển. Australia tham gia các tổ chức quốc tế sau: ADB, ANZUS, APEC, ARF, ASEAN (nước đối thoại), Australia Group, BIS, C, CP, EAS, EBRD, FAO, IAEA, IBRD, ICAO, ICC, ICCt, ICRM, IEA, IFC, IFRCS, IHO, ILO, IMF, IMO, IMSO, … 3. VĂN HÓA ÚC 3.1 Ngôn ngữ: Trải qua 4 giai đoạn: Giai đoạn 1: Chấp nhận và tuỳ nghi. Trong giai đoạn này, ở một số vùng như Victoria và South Australia, cư dân nói nhiều thứ tiếng khác nhau; ở một số vùng khác như New South Wales và Tasmania thì lại có thể xem như vùng đơn ngữ. Chính phủ không khuyến khích hay ngăn cản việc sử dụng Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 19 Môn học: Quản trị Kinh doanh Quốc tế GV: Cô Đinh Thị Thu Oanh những thứ tiếng khác tiếng Anh, ngoại trừ vẫn còn duy trì sự coi thường đối với các ngôn ngữ thổ dân. Giai đoạn 2: Khoan dung và hạn chế (từ những năm 1870 đến đầu những năm 1900). Từ những năm 1870, các trường Anh ngữ được thành lập và được xem là các trường chuẩn mực. Điều này làm nảy sinh xu hướng thuần nhất. Trong những năm đầu thế kỷ 20, các ngôn ngữ không phải tiếng Anh bị giới hạn số giờ dạy ở một số trường tư thục của một số bang. Trong quá trình hội nhập thế giới có nhiều biến động, căng thẳng, nước Australia xuất hiện đã thể hiện mạnh mẽ xu hướng là một nước nói tiếng Anh. Giai đoạn 3: Loại bỏ và đồng hoá (từ 1914 đến 1970). Thế chiến thứ I và những năm sau đó chứng kiến một xu hướng bài ngoại ở Australia cũng như những cố gắng nhằm khẳng định vị thế của nó vừa với tư cách là một dân tộc độc lập vừa với tư cách là một bộ phận của Đế chế British. Đi kèm với quá trình này là một thứ chủ nghĩa đơn ngữ quá khích: nước Australia và người Australia cần phải quên đi di sản đa ngữ của mình. Thái độ này được tiếp tục trong giai đoạn sau Chiến tranh thế giới lần thứ hai, khi một dạng người nhập cư đông đảo đến định cư ở Australia. Những nhu cầu về ngôn ngữ của những người nhập cư rất ít được quan tâm. Đã có những quy định nhằm ngăn cản các đài phát thanh chuyển phát "tiếng nước ngoài" vượt qua mức 2,5% thời lượng phát sóng và yêu cầu tất cả các thông điệp không phải tiếng Anh phải được chuyển dịch sang tiếng Anh. Các ngôn ngữ thổ dân chịu một số phận tồi tệ hơn. Trong giai đoạn này, sự kỳ thị, sự đồng hoá mang tính cưỡng bức, chẳng hạn, tách trẻ em khỏi bố mẹ dưới những hình thức nào đó khiến cho 100 trong tổng số 250 ngôn ngữ thổ dân được bị tiêu diệt. Số còn lại thì được miêu tả là đang trong t.nh trạng "ngoắc ngoải". Giai đoạn 4: Chấp nhận, thậm chí là khuyến khích (từ đầu những năm 1970). Giai đoạn này thể hiện sự thay đổi trong chính sách ngôn ngữ, chuyển từ đồng hoá sang chấp nhận thực tế đa văn hoá. Tất cả các ngôn ngữ được sử dụng trong các cộng đồng cư Nhóm 9 Lớp NT 3 Trang 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan