Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng...

Tài liệu Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

.PDF
129
1024
112

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ---------------------- NGUYỄN THỊ THU THỦY VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT TRONG VIỆC XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM. Chuyên ngành Mã số : Triết học : 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. ĐINH CẢNH NHẠC HÀ NỘI - 2008 LỜI CẢM ƠN Hoàn thành Luận văn tốt nghiệp này, trước hết em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong Khoa Triết học – Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn cũng như toàn thể các thầy cô giáo khác ngoài khoa đã dạy dỗ và dìu dắt nhiệt tình trong suốt thời gian em học tập, nghiên cứu tại Khoa, tại Trường. Em xin chân thành cảm ơn thầy TS. Đinh Cảnh Nhạc đã trực tiếp hướng dẫn tận tình, chu đáo trong quá trình em thực hiện và hoàn thành bản Luận văn tốt nghiệp này. Mặc dù đã hết sức cố gắng, nhưng chắc chắn rằng, những hạn chế và thiếu sót trong Luận văn là điều không tránh khỏi. Vì vậy, em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô cùng toàn thể các bạn để bản Luận văn này của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. Hà Nội, ngày 25 tháng 11 năm 2008 Học viên Nguyễn Thị Thu Thủy 1 NHỮNG CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN VĂN CNXH : Chủ nghĩa xã hội CNCS : Chủ nghĩa cộng sản XHCN : Xã hội chủ nghĩa CNTB : Chủ nghĩa tư bản TBCN : Tư bản chủ nghĩa LLSX : Lực lượng sản xuất QHSX : Quan hệ sản xuất CNH : Công nghiệp hóa HĐH : Hiện đại hóa BCH : Ban chấp hành TW : Trung ương 2 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Nghị quyết Đại hội VI của Đảng ghi: “Trong nhận thức cũng như trong hoạt động thực tiễn chúng ta chưa thực sự nắm vững và vận dụng đúng quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất và lực lượng sản xuất” [24, tr 23]. Một trong những bài học lớn cũng đã được Đại hội rút ra là: “Đảng phải luôn luôn xuất phát từ thực tế, tôn trọng và hành động theo quy luật khách quan” [24, tr 30]. Kết luận này được rút ra từ kết quả tổng kết thực tiễn lãnh đạo xây dựng CNXH thời kỳ trước đổi mới của Đảng ta. Sự nghiệp đổi mới của chúng ta đang diễn ra trong những điều kiện mới chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Chúng ta đang thực sự phải nhận thức và giải quyết nhiều vấn đề phức tạp nhất trong lịch sử không chỉ ở nước ta, mà mang tính quốc tế của quá trình xây dựng CNXH. Thật vậy, đường lối phát triển kinh tế ở nước ta trước hết phải xuất phát từ hiện thực đất nước, thời đại và nguyện vọng thiết tha của đông đảo nhân dân, đồng thời phải dựa trên những quy luật khách quan của sự phát triển lịch sử, trong đó quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX làm nền tảng, từ những kinh nghiệm thành công, chưa thành công của chúng ta và thế giới. Xét từ phương diện thứ nhất, hiện thực khách quan mà chúng ta lấy đó làm điểm xuất phát để đề ra đường lối đổi mới kinh tế tự nó đã hết sức biện chứng, đầy mâu thuẫn. Kinh tế thị trường bản thân nó bên cạnh mặt tích cực lại đã bao hàm nhiều hạn chế với tính chất tiêu cực do quan hệ kinh tế tạo ra. Chúng ta chủ trương kiến tạo nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN là cả một vấn đề mới mẻ và chưa từng có tiền lệ. Phải làm thế nào để phát triển nền kinh tế thị trường một cách nhanh nhất nhưng lại không để yếu tố thị trường làm chệch định hướng CNXH? Ngược lại, phải hoạch định đường lối như thế nào để không lặp lại những sai lầm cũ về cơ chế tập trung, quan liêu và bao cấp cản trở phát triển của nền kinh tế thị trường? 3 Hơn 20 năm đổi mới cũng đồng nghĩa với việc từng bước xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, chúng ta đã có nhiều thành tựu đáng kể: kinh tế có bước tăng trưởng khá, yếu tố thị trường của nền kinh tế ngày càng rõ hơn; vấn đề sở hữu ngày càng đi vào chiều sâu; năng lực quản lý nền kinh tế tỏ ra năng động và hiệu quả hơn; phân phối sản phẩm cũng như nhiều quan hệ xã hội khác hợp lý hơn; năng lực của các thành phần kinh tế đang phát huy hiệu quả; nội lực nền kinh tế và kinh tế đối ngoại diễn ra rất năng động; nhiều nước trên thế giới đã và sẽ công nhận Việt Nam có nền kinh tế thị trường… Nhưng mặt khác, như Đại hội IX và Đại hội X của Đảng đã nhận định nguy cơ chệch hướng XHCN vẫn tiềm ẩn và diễn biến phức tạp. Nền kinh tế thị trường mà chúng ta xây dựng lại đang rơi vào giai đoạn khó khăn của sự suy thoái kinh tế toàn cầu; hàng ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ và ngay cả một số tập đoàn kinh tế có nguy cơ phá sản trong tương lai gần; tình trạng gia tăng thất nghiệp, bỏ việc của hàng loạt công chức và lao động là hiện tượng chưa từng có kể từ ngày đổi mới cho đến nay; đời sống của nhân dân đang nghèo đi trông thấy và có nhiều diễn biến phức tạp với tâm tư lo lắng và niềm tin suy giảm. Sự nghiệp phát triển kinh tế càng triển khai bao nhiêu, chúng ta càng phải giải quyết nhiều vấn đề mới và phức tạp bấy nhiêu. Phát triển nền kinh tế thị trường nhưng phải định hướng XHCN, trong đó không chỉ là sự khác nhau, ngược lại không loại trừ mâu thuẫn, đối lập. Mục tiêu của cuộc cách mạng trong lĩnh vực kinh tế mà chúng ta đang tiến hành là cơ sở bảo đảm thực hiện trong thực tế lý tưởng: “Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” nhưng trên thực tế, nước ta vẫn thuộc nhóm quốc gia nghèo nhất thế giới; các yếu tố của LLSX, đặc biệt là người lao động phát triển chậm; sự nghiệp CNH nhằm phát triển LLSX đang gặp nhiều vấn đề, mục tiêu hoàn thành CNH, HĐH vào năm 2020 đang có nguy cơ khó hoàn thành. Trong khi xem nội lực là chính thì chất lượng đào tạo con người đang xuống cấp hết sức báo động, các mặt của QHSX đều đang tỏ ra nhiều bất cập làm cho không chỉ không thúc đẩy nền kinh tế phát triển mà còn góp phần tạo ra sự bất bình đẳng trong kinh tế 4 đồng thời tạo ra khe hở để quốc nạn “tham nhũng ngày càng nghiêm trọng gây bất bình trong xã hội” [28, tr 17]. Xét từ phương diện thứ hai, mặc dù nhận thức của chúng ta về vai trò của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ngày càng đúng đắn hơn, nhưng không chỉ khuynh hướng coi thường giá trị của di sản kinh điển đó, mà cả sự giáo điều hóa và bệnh kinh nghiệm cũng chưa bị đẩy lùi; năng lực nhận thức và vận dụng sáng tạo quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX còn xa so với nhu cầu của thực tiễn kiến tạo nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Hơn nữa, ngày nay chúng ta đang phải giải quyết nhiều vấn đề mà đương thời các nhà kinh điển mácxít chưa gặp phải. Thực tiễn của những yếu kém của nền kinh tế thị trường, đặc biệt là tình trạng suy thoái kinh tế hiện nay không thể chỉ đổ lỗi cho sự khủng hoảng của tài chính thế giới mà phải nhận thấy rằng, đó là hậu quả của bệnh chủ quan, duy ý chí và bệnh nóng vội khi đề ra những quyết sách, trong đó chủ yếu là “sự yếu kém về lý luận của Đảng” [28, tr 18]. Như vậy, có thể nói, những vấn đề phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN không thể giải quyết chỉ bằng triết học, cũng như không thể giải quyết thành công nếu thiếu sự vận dụng linh hoạt quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX. Vì vậy, quán triệt quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX là một trong những điều kiện quan trọng góp phần vào sự phát triển kinh tế. Từ trình bày trên cho thấy, việc vận dụng có hiệu quả quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vào trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế của nước ta trở thành vấn đề rất bức thiết. Việc nhận thức và phát triển sáng tạo di sản kinh điển đó của chủ nghĩa Mác – Lênin, làm giàu thêm tiềm năng của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX - quy luật cốt lõi của hệ thống các quy luật của chủ nghĩa duy vật lịch sử và vận dụng sáng tạo quy luật đó nhằm đưa nền kinh tế nước ta tiếp tục phát triển trở thành một vấn đề bức xúc hơn bao giờ hết. 5 Thực tiễn đã xác nhận, khi nào Đảng ta tôn trọng và nâng cao hiệu quả vận dụng các quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin nói chung, quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX nói riêng thì khi đó kinh tế xã hội giành được thành tựu to lớn. Ngược lại, khi nào các nguyên lý, các quy luật của chủ nghĩa Mác – Lênin không được vận dụng triệt để, sáng tạo trong việc đề ra các quyết định về kinh tế xã hội thì thành quả của cách mạng bị hạn chế. Xuất phát từ ý nghĩa và tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, chúng tôi chọn vấn đề: “Vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” làm đề tài luận văn của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN là một vấn đề mới cả về lý luận và thực tiễn. Đây là một đề tài quan trọng, hấp dẫn nhưng cũng rất khó. Vì thế, từ trước đến nay đó có nhiều tác giả quan tâm nghiên cứu. Một số cuốn sách gần đây được xuất bản đề cập đến vấn đề này nhưng lại viết ở tầm vĩ mô hoặc đi sâu vào phân tích việc phát triển các thành phần kinh tế riêng biệt, phát triển kinh tế gắn liền với đảm bảo công bằng xã hội như: “Xây dựng quan hệ sản xuất định hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện tiến bộ công bằng xã hội ở Việt Nam” của GS. TSKH. Lương Xuân Qùy (chủ biên) (2002), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội . Cuốn sách đưa ra những yêu cầu và hướng xây dựng QHSX mới theo định hướng XHCN và QHSX mới xây dựng đó phải đảm bảo để phát triển kinh tế gắn liền với thực hiện công bằng tiến bộ xã hội ở Việt Nam. “Về tiến bộ xã hội trong nền kinh tế thị trường” của TS. Nguyễn Hữu Vượng (2004), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, đề cập đến vấn đề phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam phải gắn liền với việc tiến bộ xã hội, tạo ra công bằng và dân chủ. 6 “Phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của GS. TS. Nguyễn Công Nghiệp (chủ biên) (2006), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách phân tích thực trạng phân phối trong thời kỳ đổi mới ở nước ta, đưa ra quan điểm, giải pháp nhằm hoàn thiện cơ chế phân phối, đảm bảo phát triển kinh tế và thực hiện công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. “Đổi mới ở Việt Nam thực tiễn và nhận thức lý luận” của PGS. TS. Nguyễn Trọng Phúc (2007), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách đã phân tích thời kỳ đổi mới ở Việt Nam toàn diện trên tất cả các lĩnh vực về thực tiễn và lý luận nhưng trên cơ sở tổng quát và ở tầm vĩ mô. Cuốn sách cũng đã phân tích đến quá trình đổi mới nền kinh tế nhưng lại trên khía cạnh tư duy kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế. “Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam” do GS. TS. Vũ Đình Bách (chủ biên) (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách giới thiệu những vấn đề như: nhận thức về nền kinh tế, thể chế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN; giải quyết các vấn đề về kinh tế và động lực phát triển trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ đó, phân tích, đưa ra các điều kiện để đảm bảo cho sự vận hành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. “ Quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng từ năm 1986 đến nay” của các tác giả: GS. TS. Tô Huy Rứa, GS. TS. Hoàng Chí Bảo, PGS. TS. Trần Khắc Viện, PGS. TS. Lê Ngọc Tùng (đồng chủ biên) (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cuốn sách phân tích quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về mô hình kinh tế ở nước ta và quá trình đổi mới tư duy lý luận của Đảng về cơ cấu kinh tế và cơ chế quản lý kinh tế. “Quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa” của GS. Lê Xuân Tùng (2008), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội. GS Lê Xuân Tùng đã phân tích một số vấn đề về QHSX trong thời kỳ đổi mới và phân tích về kinh tế thị trường – sự thực hiện về kinh tế quyền sở hữu... 7 Ngoài ra còn có một số bài báo viết về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam; xây dựng QHSX mới và cơ chế quản lý mới trong điều kiện kinh tế thị trường ở nước ta; Phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ở Việt Nam thực trạng và giải pháp; giữ vững định hướng XHCN trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay... trên các báo tạp chí Triết học, tạp chí Cộng sản, tạp chí Kinh tế... Luận án tiến sĩ triết học liên quan đến vấn đề này có: “Tính biện chứng của chính sách kinh tế mới của V. I. Lênin và ý nghĩa của nó đối với công cuộc đổi mới hiện nay ở Việt Nam” của tác giả Nguyễn Ngọc Thành đề cập đến việc phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam thông qua việc phân tích chính sách kinh tế mới của V.I. Lênin. “Sự vận dụng phép biện chứng duy vật của Đảng ta trong giai đoạn đổi mới hiện nay” (2003) của tác giả Đinh Cảnh Nhạc. Luận án phân tích: phép biện chứng, ý nghĩa của phép biện chứng và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn đổi mới hiện nay trong đó có cả đổi mới nền kinh tế.... Nhìn chung, ở những công trình nghiên cứu nêu trên, các tác giả có đề cập đến sự phù hợp biện chứng giữa QHSX và LLSX trong việc đề ra đường lối đổi mới kinh tế và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN nhưng theo những mức độ khác nhau, tuỳ vào mục đích và phạm vi nghiên cứu. Tuy nhiên, theo tôi nhận thấy thì các tác giả trên thường đi trực tiếp vào vấn đề nghiên cứu mà bỏ qua phân tích kỹ phần lý luận, nhất là phân tích về quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX và chỉ ra vị trí, vai trò của nó trong lý luận cũng như trong thực tiễn. Chính vì vậy, mà tôi kế thừa, tiếp thu về cơ bản những quan điểm của các nhà nghiên cứu trước đó và tổng hợp, bổ sung, phát triển hơn nữa, trình bày một cách có hệ thống theo sự nghiên cứu và hiểu biết của mình, nhằm giải quyết vấn đề đã nêu ra trong luận văn. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích: 8 Trên cơ sở làm rõ vai trò của quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc xây dựng và triển khai đường lối xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, những ưu điểm, khuyết điểm khi vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX ở nước ta trong những năm đổi mới vừa qua, luận văn trình bầy một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật này trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ: Để thực hiện được mục đích trên, luận văn giải quyết những nhiệm vụ sau: - Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX vào việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. - Trình bày sự vận dụng quy luật này, chỉ ra những cái được và chưa được trong quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường theo định hướng XHCN hơn 20 năm đổi mới vừa qua. - Trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực vận dụng quy luật này trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong quá trình chuyển nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong việc đề ra và tiến hành đường lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 9 Cơ sở lý luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam thể hiện qua các văn kiện Đại hội Đảng. Phương pháp nghiên cứu sử dụng trong luận văn là phương pháp lôgíc và lịch sử, phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích, tổng hợp, so sánh. 6. Đóng góp của luận văn Luận văn góp phần làm rõ hơn cơ sở lý luận và thực tiễn của sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam, chỉ ra những cái được và chưa được mà Đảng đã vận dụng trong đổi mới kinh tế. Từ đó đưa ra một số giải pháp góp phần nâng cao năng lực vận dụng quy luật này trong giai đoạn đổi mới kinh tế hiện nay. 7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận, luận văn góp phần làm rõ sự vận dụng quy luật QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX của Đảng ta trong việc đề ra và thực hiện đường lối đổi mới kinh tế - xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đưa ra một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao năng lực vận dụng QHSX phù hợp với trình độ phát triển của LLSX trong việc xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong những năm tiếp theo. Về mặt thực tiễn, luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy, nghiên cứu chuyên đề về đường lối đổi mới kinh tế và xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam. 8. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 7 tiết. 10 Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA SỰ VẬN DỤNG QUY LUẬT QUAN HỆ SẢN XUẤT PHÙ HỢP VỚI TRÌNH ĐỘ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƯỢNG SẢN XUẤT VÀO XÂY DỰNG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1.1. Nội dung và vị trí của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất 1.1.1. Nội dung của quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất * Lực lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất Thuật ngữ “Lực lượng sản xuất” lần đầu tiên được C. Mác nêu trong tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” (1846). Nội dung của khái niệm được ông phát biểu sâu sắc thêm trong các tác phẩm: “Sự khốn cùng của triết học” (1847), “Lao động làm thuê và tư bản” (1849) và đặc biệt là trong bộ “Tư bản”. Mác nêu rõ nội hàm của khái niệm LLSX qua những yếu tố cấu thành, đó là người lao động và tư liệu sản xuất. Các yếu tố này tác động với nhau thúc đẩy sự phát triển sản xuất, làm cho LLSX luôn thay đổi. Từ đó, LLSX được hiểu là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. Hiện nay, có rất nhiều quan niệm khác nhau về khái niệm LLSX, nhưng đều thống nhất ở việc nêu lên nội dung cơ bản của khái niệm gồm những yếu tố sau: LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, là kết quả năng lực thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên. LLSX là một thể thống nhất hữu cơ gồm yếu tố con người và tư liệu sản xuất. Trong đó, con người là chủ thể tích cực, sáng tạo và sử dụng các phương tiện, công cụ để tác động vào tự nhiên tạo ra những vật phẩm cần thiết cho xã hội. Đây chính là nội dung cơ bản nhất của khái niệm LLSX. 11 LLSX được phát triển không ngừng trong quá trình sản xuất xã hội. Từ đó có thể chỉ ra nội dung có tính chất tổng hợp của khái niệm LLSX như sau: LLSX là biểu hiện trình độ chinh phục tự nhiên của con người, là kết quả năng lực thực tiễn của con người trong từng giai đoạn lịch sử nhất định, là một thể thống nhất hữu cơ giữa yếu tố con người và tư liệu sản xuất, trong đó con người là chủ thể tích cực và sáng tạo với trí tuệ là chủ đạo, có tri thức khoa học và kỹ thuật, trình độ chuyên môn, kỹ năng và những kinh nghiệm, thói quen, biết chế tạo và sử dụng các phương tiện lao động tác động vào các đối tượng của tự nhiên, cải tạo chúng, biến chúng thành của cải vật chất phục vụ cho nhu cầu xã hội, LLSX phát triển không ngừng trong quá trình sản xuất xã hội. LLSX biểu hiện mối quan hệ giữa con người với tự nhiên. Nghĩa là, trong quá trình sản xuất xã hội, con người chinh phục tự nhiên bằng cách tổng hợp các sức mạnh hiện thực của mình. LLSX nói lên năng lực thực tiễn của con người trong quá trình sản xuất tạo ra của cải xã hội. LLSX là biểu hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên. Nhưng không phải mọi mối quan hệ giữa con người với tự nhiên đều là LLSX. Vì con người còn có nhiều mối quan hệ khác với tự nhiên như quan hệ thẩm mỹ, quan hệ tình cảm, quan hệ nhận thức, quan hệ thích nghi và cải tạo. Chỉ có mối quan hệ nào mà trong đó con người cải tạo những vật phẩm của tự nhiên thành những sản phẩm vật chất cho xã hội mới là biểu hiện của LLSX. LLSX bao gồm toàn bộ tư liệu sản xuất và người lao động sử dụng tư liệu sản xuất đó với kinh nghiệm sản xuất, kỹ năng, kỹ xảo và thói quen lao động của họ. Thứ nhất, về tư liệu sản xuất: Trong quá trình sản xuất, để cải biến đối tượng lao động thành sản phẩm thoả mãn nhu cầu của mình, con người phải sử dụng tư liệu sản xuất. Tư liệu sản xuất là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sản xuất, thiếu nó thì con người không thể tiến hành sản xuất được. Tư liệu sản xuất được cấu thành từ hai bộ phận căn bản là tư liệu lao động và đối tượng lao động, Mác nói: “Cả tư liệu lao động và đối tượng lao động đều biểu hiện ra là tư liệu sản xuất” [65, tr 17]. 12 Đối tượng lao động là vật thể tự nhiên mà con người tác động vào và cải tạo chúng thành những của cải vật chất khác nhau. Vật thể đó có thể nằm sẵn trong giới tự nhiên bao quanh con người. Trong trường hợp này, nó còn được tách ra khỏi giới tự nhiên và là đối tượng lao động của ngành công nghiệp khai thác. Trong nhiều ngành sản xuất, đối tượng lao động là những vật liệu chịu sự tác động của lao động con người một hoặc vài lần. Đối tượng lao động là nguyên liệu. Nguyên liệu này có thể là cơ sở tự nhiên chủ yếu của sản phẩm đã được sản xuất ra. Mác phân biệt hai loại đối tượng này như sau: “Mọi nguyên liệu đều là đối tượng. Nhưng không phải mọi đối tượng đều là nguyên liệu, đối tượng lao động chỉ trở thành nguyên liệu sau khi đã trải qua một sự biến đổi nào đó do lao động gây ra”[65, tr 232]. Như vậy, chúng ta có thể hiểu đối tượng lao động chính là những thứ mà con người sử dụng công cụ lao động tác động vào nó, biến nó thành những sản phẩm hữu ích. Nó có thể có sẵn trong tự nhiên như đất, nước, cây rừng…Song phần lớn do con người tạo ra dưới dạng nguyên vật liệu - sản phẩm của quá trình chế biến như sắt, thép, các loại nhựa hoá học… Tư liệu lao động chính là khâu trung gian của người lao động và đối tượng lao động. Mác định nghĩa tư liệu lao động như sau: “Tư liệu lao động là một vật, hay là toàn bộ những vật mà đặt ở giữa họ và đối tượng lao động và được họ lấy làm vật truyền dẫn hoạt động của họ vào đối tượng ấy” [65, tr 232]. Theo nghĩa đó, tư liệu lao động gồm: công cụ sản xuất, ví dụ như: máy móc, dụng cụ thủ công…chúng cấu thành hệ xương và hệ cơ của nền sản xuất; các yếu tố phục vụ trực tiếp sản xuất hoặc gián tiếp quá trình sản xuất ví dụ như: đất đai trong công nghiệp, nhà cửa dùng cho sản xuất, các công trình xây dựng, các sông đào, đường xá, bến bãi…(còn gọi là cơ sở hạ tầng của sản xuất); các đồ dùng để chứa đựng, bảo quản nguyên vật liệu và sản phẩm làm ra như: kho, bể chứa, thùng, chậu… Những thứ này đã cấu thành hệ huyết quản của nền sản xuất. 13 Thứ hai là người lao động: Người lao động chính là nguồn cung cấp sức lao động (tổng hợp thể lực và trí lực) là chủ thể của lao động sản xuất. Quá trình lao động chính là quá trình con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào đối tượng lao động một cách có mục đích và kết quả. Trong các yếu tố hợp thành LLSX, người lao động là yếu tố giữ vai trò quan trọng nhất. Vì nếu không có con người thì ngay cả một kỹ thuật hoàn thiện nhất cũng trở thành một kỹ thuật chết. Dù cho trình độ cơ khí hoá và tự động hoá của sản xuất như thế nào, sản xuất bao giờ cũng do con người tiến hành. Dựa vào trình độ đã đạt được của sản xuất, vào kinh nghiệm sản xuất, vào thói quen lao động của mình, vào nhận thức về tự nhiên, tất cả những nhân tố này cùng phát triển với sự phát triển của sản xuất, con người sáng chế, sử dụng và cải tiến công cụ sản xuất. Vì lẽ đó V.I. Lênin đã nhấn mạnh rằng, LLSX thứ nhất của loài người là người công nhân, người lao động. Công cụ lao động chỉ có thể tác động được vào đối tượng lao động khi nó kết hợp với sức lao động của con người, nếu tách khỏi con người thì bản thân công cụ sản xuất không thể trở thành LLSX của xã hội được. Công cụ sản xuất và tất cả các tư liệu lao động đều là sự nghiệp của bàn tay con người, là sự vật chất hoá kinh nghiệm và kiến thức đã tích lũy được, là chỉ số nói lên những thành công của họ trong việc chinh phục giới tự nhiên. Vì thế, con người là LLSX chủ yếu. Con người bằng sức lực và trí tuệ của mình chế tạo ra công cụ lao động và dùng công cụ đó tác động vào tự nhiên để tạo ra những sản phẩm vật chất nhằm thoả mãn nhu cầu của bản thân và xã hội. Trong quá trình sản xuất, bản thân con người đối diện với thực tế của tự nhiên với tư cách là một lực lượng của tự nhiên. Để chiếm hữu được thực thể tự nhiên, cải tạo tự nhiên bắt chúng phục vụ những mục đích, nhu cầu của mình, con người đã vận dụng đến sức mạnh tự nhiên của bản thân họ như tay, chân, đầu và hai bàn tay. Chính vì thế, trong khi tác động vào tự nhiên, con người cũng làm thay đổi chính bản thân mình. Con người khi tham gia vào quá trình sản xuất với tư cách là một yếu tố của LLSX sẽ làm cho con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn cả về thể xác lẫn trí tuệ, tâm hồn. Chính quá trình con người tham gia lao động và thông qua lao động thực tiễn, con người đã dùng trí tuệ để: nhận thức bản chất, quy luật 14 của các sinh vật, hiện tượng của thế giới khách quan, sử dụng chúng làm phương tiện sản xuất, không ngừng sáng tạo ra cho mình những LLSX ngày càng lớn mạnh, tinh vi, con người đã biến những phần vật chất do tự nhiên cung cấp thành “khí quan nhân tạo” của mình để nhận thức sâu hơn, xa hơn, bản chất hơn cả lĩnh vực vi mô cũng như vĩ mô của tự nhiên. Đây cũng chính là đặc trưng lao động sáng tạo của con người mà thế giới động vật không thể nào có được. Con người chính là động vật biết chế tạo công cụ lao động. Con người không chỉ quyết định sự ra đời của công cụ lao động mà còn quyết định cả quá trình vận hành chúng. Máy móc, công cụ dù có hiện đại, tinh vi đến đâu đi chăng nữa, nhưng nếu không có con người sử dụng, vận hành thì cũng trở thành vô ích, sẽ giống như trạng thái “nguyên thuỷ” của chúng mà thôi. Công cụ lao động được coi là yếu tố động của LLSX. Nó luôn luôn được cải tiến cho phù hợp với điều kiện mới, không ngừng được sáng tạo ra và chính sự phát triển của công cụ lao động đã tạo nên nhiều biến chuyển kỳ diệu trong nền sản xuất xã hội. Công cụ lao động càng tình vi, điều đó chứng tỏ con người càng hiện đại càng tách xa thế giới tự nhiên. Công cụ lao động là yếu tố quan trọng không thể thiếu được trong quá trình sản xuất, là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người, dấu ấn của nó đã để lại trên tất cả mọi chặng đường lịch sử - xã hội. Như vậy, các yếu tố hợp thành LLSX có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình sản xuất, trong đó người lao động là yếu tố giữ vai trò quyết định còn tư liệu sản xuất giữ vai trò quan trọng. Ngoài những khái niệm đã nêu trên, khi nói về LLSX chúng ta không thể không nói đến khái niệm về trình độ phát triển và tính chất của LLSX. Trình độ phát triển của LLSX là tổng hợp trình độ phát triển của các yếu tố hợp thành LLSX trong đó trình độ của công cụ lao động và trình độ kiến thức (văn hoá, khoa học - kỹ thuật, chuyên môn, nghiệp vụ…), kỹ năng của người lao động có ý nghĩa quyết định nhất. Trình độ công cụ lao động, trình độ hiểu biết và kỹ 15 năng lao động của con người cũng như các yếu tố cấu thành khác càng cao, thì năng suất lao động càng cao. Chính vì vậy, năng suất lao động biểu hiện rõ nhất trình độ phát triển của LLSX, là yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Tính chất của LLSX thể hiện ở tính cá thể, phân tán, sản xuất nhỏ hay tính cộng đồng, tập trung (tính xã hội), sản xuất lớn. Nó thường tương ứng với trình độ của LLSX mà chủ yếu là trình độ của công cụ lao động. Nếu công cụ lao động thô sơ, thì LLSX mang tính chất cá thể, sản xuất nhỏ. Còn nếu công cụ lao động là máy móc, thiết bị hiện đại thì LLSX mang tính xã hội cao, tính sản xuất lớn. Mỗi sản phẩm làm ra là công sức đóng góp của nhiều người ở nhiều khâu khác nhau. Công cụ lao động theo Ph. Ăngghen là “khí quan của bộ óc con người”, “là sức mạnh của tri thức đã được vật thể hoá” có tác dụng “nối dài bàn tay” và nhân lên sức mạnh trí tuệ của con người. Bởi vậy, khi công cụ lao động đạt tới trình độ được tin học hoá, được tự động hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở nên hết sức kỳ diệu. Do vậy, có thể nói, trình độ phát triển của công cụ lao động chính là thước đo trình độ chinh phục tự nhiên của con người. Khoa học ngày càng phát triển, phát triển đến mức trở thành nguyên nhân trực tiếp của những biến đổi to lớn trong sản xuất và trong đời sống. Ngày nay cách thức mà khoa học và thể hiện trong hiện thực khác nhiều so với trước kia. Mác dự kiến rằng khoa học trở thành “Lực lượng sản xuất trực tiếp”. Tư tưởng ấy của Mác có ý nghĩa định hướng tích cực đối với cả hoạt động sản xuất lẫn hoạt động khoa học. Khoa học, tri thức và công nghệ hiện đại chính là đặc điểm thời đại của sản xuất. Do vậy, nó hoàn toàn có thể được coi là cái đặc trưng, là lực lượng trực tiếp quyết định LLSX hiện nay. * Quan hệ sản xuất và các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất Khái niệm QHSX biểu hiện mặt thứ hai trong mối quan hệ “song trùng” của bản thân sự sản xuất xã hội. 16 Khái niệm QHSX là khái niệm để chỉ mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, phân phối, lưu thông (trao đổi) và tiêu dùng. Sở dĩ quá trình sản xuất có thể đưa ra một cách bình thường chính là vì trong sự sản xuất đó, mối quan hệ giữa con người với con người tồn tại thống nhất với mối quan hệ con người với tự nhiên. Trong sản xuất, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên thể hiện thành những trình độ khác nhau của LLSX. Tuy nhiên, mối quan hệ đó được xây dựng và thông qua những quan hệ khác nhau giữa người và người, tức là trong QHSX. Mác đã viết “Trong sản xuất, người ta không chỉ quan hệ với giới tự nhiên. Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau; Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất”. Như vậy, QHSX là quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất, sản xuất và tái sản xuất xã hội, được thể hiện ở ba mặt: quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất; quan hệ tổ chức và quản lý quá trình sản xuất và quan hệ phân phối kết quả sản xuất. Với tính cách là những quan hệ kinh tế khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người, QHSX là quan hệ mang tính vật chất trong đời sống xã hội, Mác trong thư gửi P. V. Annencốp, ngày 28 tháng chạp năm 1846 viết: “Xã hội - bất cứ dưới hình thức nào là gì? Nó là sản phẩm của sự tác động lẫn nhau giữa người với người. Người ta có được tự do lựa chọn hình thức này hay hình thức kia của xã hội được không? Hoàn toàn không, hãy giả dụ một trình độ phát triển nhất định của LLSX trao đổi và tiêu thụ và ông sẽ có một chế độ xã hội nhất định, một tổ chức nhất định của gia đình, của đẳng cấp hay giai cấp, nói tóm lại, là một xã hội công dân nhất định”. QHSX là hình thức xã hội của LLSX và là cơ sở sâu xa của đời sống tinh thần xã hội. Ba mặt quan hệ đó trong quá trình sản xuất xã hội luôn luôn gắn bó với nhau tạo thành một hệ thống mang tính ổn định tương đối so với sự vận động 17 không ngừng của LLSX. Mỗi mặt quan hệ của hệ thống QHSX có vai trò và ý nghĩa riêng biệt, xác định, khi nó tác động tới nền sản xuất xã hội nói riêng và tới toàn bộ tiến trình lịch sử nói chung. Ba mặt của QHSX cùng song song tồn tại. Điều này cho ta thấy tính liên tục tất yếu của mối quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất. Tính liên tục, tất yếu đó do chính yêu cầu sản xuất đặt ra. Tính chất của QHSX trước hết được quy định bởi quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất - biểu hiện thành chế độ sở hữu là đặc trưng cơ bản của phương thức sản xuất. QHSX đối với tư liệu sản xuất giữ vai trò quyết định và chi phối tới tất cả các quan hệ xã hội khác trong mỗi một nền kinh tế - xã hội xác định. Quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, cơ bản và trung tâm của các QHSX. Ai sở hữu tư liệu sản xuất thì người đó có quyền quyết định và chi phối việc tổ chức, quản lý quá trình sản xuất và phân phối sản phẩm làm ra. Trong các hình thái kinh tế - xã hội mà loài người đã từng trải qua, lịch sử đã được chứng kiến sự tồn tại của hai chế độ sở hữu sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất: Sở hữu tư nhân và sở hữu công cộng. Sở hữu tư nhân, tư hữu là tư liệu sản xuất chỉ nằm trong tay một số ít người nên của cải xã hội không thuộc về số đông mà thuộc về số ít đó, dẫn đến các quan hệ xã hội trở thành bất bình đẳng, quan hệ thống trị và bị trị. Đối kháng xã hội trong các xã hội tồn tại chế độ tư hữu tiềm tàng khả năng trở thành đối kháng gay gắt (CNTB là đỉnh cao của loại sở hữu này). Ngược lại, sở hữu công cộng là loại hình sở hữu mà tư liệu sản xuất thuộc về mọi thành viên của mỗi cộng đồng. Trên cơ sở đó về mặt nguyên tắc, các thành viên của mỗi cộng đồng bình đẳng với nhau trong tổ chức lao động và trong phân phối sản phẩm. Quan hệ tương trợ giúp đỡ lẫn nhau. C. Mác và Ph. Ăngghen đã chứng minh rằng chế độ TBCN không phải là hình thức sở hữu cuối cùng mà CNXH dựa trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, dù sớm hay muộn cũng sẽ đóng vai trò phủ định đối với chế độ tư hữu. 18 Như vậy, cho đến nay trong lịch sử phát triển xã hội loài người đã có 2 hình thức sở hữu tư liệu sản xuất là công hữu và tư hữu. Mỗi hình thức đều có vai trò lịch sử của nó, nhưng nói chung tư hữu hay công hữu đều là những hình thức của hoạt động sản xuất vật chất của con người và là những quan hệ kinh tế hiện thực giữa người với người trong xã hội. Muốn xét sự tiến bộ của mỗi hình thức sở hữu, phải xem các hình thức sở hữu đó có phù hợp với LLSX hiện có hay không, có tạo cho LLSX phát triển hay không. Chúng ta không thể nói chế độ tư hữu là không tiến bộ nếu nó tạo địa bàn cho sự phát triển của LLSX. Thực tế, lịch sử đã chỉ ra giá trị của cơ sở lý luận này, khi tính chất và trình độ của LLSX còn lạc hậu mà áp dụng ngay QHSX tiên tiến cũng sẽ không tạo điều kiện cho LLSX phát triển trái lại còn kìm hãm nó. Trình độ và tính chất của LLSX xét trên phạm vi quốc gia hay quốc tế đều không đều nhau. Giữa các ngành sản xuất khác nhau trong cùng một ngành mà ở những nơi khác nhau thì trình độ và tính chất của LLSX đạt được cũng khác nhau. Nếu áp dụng hình thức sở hữu duy nhất cho những LLSX là không hợp lý. Tuy nhiên, cũng cần phải có chế độ, chính sách rõ ràng để xác định một chủ thể sở hữu và sử dụng đối với những tư liệu sản xuất nhất định. Đây chính là cơ sở quan trọng để phát huy trình tự chủ về quản lý, tổ chức trong quá trình sản xuất. Cùng với quan hệ sở hữu thì quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất là hạt nhân của QHSX. Nó có khả năng quyết định một cách trực tiếp quy mô, tốc độ, hiệu quả và xu hướng của mỗi nền sản xuất cụ thể. Các quan hệ về mặt tổ chức và quản lý sản xuất luôn luôn có xu hướng thích ứng với kiểu quan hệ sở hữu thống trị của xã hội đó. Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất vì không có tư liệu sản xuất thì không có sản xuất, như vậy sẽ không có tổ chức và quản lý sản xuất. Tuy nhiên, quan hệ tổ chức và quản lý cũng có tính độc lập tương đối, tác động ngược trở lại quan hệ sở hữu. Mặt tổ chức quản lý sản xuất có khả năng thúc đẩy hoặc kìm hãm các quá trình và kết quả của sản xuất. Do vậy, nếu sử dụng hợp lý các quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất sẽ cho phép hệ thống QHSX có khả năng vươn tới tối ưu. Ngược lại, thì sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển kinh tế - xã hội. 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan