Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát...

Tài liệu Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay

.PDF
115
257
72

Mô tả:

MỤC LỤC Mở đầu Chương 1: 1.1. 1.2. Chương 2: 2.1. 2.2. 2.3. 2.3.1. 2.3.2. 2.3.3 Chương 3: 3.1. 3.1.1. 3.1.2. 3.1.3. 3.2. Trang 1 Nội dung và yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa 6 quan hệ sản xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản 6 xuất với trình độ của lực lượng sản xuất. Yêu cầu của quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính 31 chất và trình độ của LLSX. Vận dụng quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ 35 sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An hiện nay – thực trạng và vấn đề đặt ra. Tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ An. 35 Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa 39 LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trước thời kỳ đổi mới. Thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa 50 LLSX và QHSX vào việc phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong những năm gần đây. Thành tựu đạt được và nguyên nhân. 50 Những khuyết điểm yếu kém. 64 Vấn đề đặt ra. 68 Phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An trong thời gian tới. Mục tiêu và phương hướng tổng quát: 70 Phương hướng và quan điểm phát triển. 70 Mục tiêu tổng quát. 70 Nhiệm vụ chủ yếu: 72 Những giải pháp cơ bản 79 3.2.1. 3.2.2. 3.2.3. 3.2.4. 3.2.5. 3.2.6. Phát huy vai trò quyết định của lực lượng sản xuất đối với quan hệ sản xuất trong nền kinh tế nhiều thành phần ở Nghệ An Đẩy nhanh ứng dụng KHCN. Từng bước hoàn thiện các loại thị trường. Đào tạo, sử dụng nguồn nhân lực ở Nghệ An. Nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý kinh tế. Hoàn thiện thực hiện các hình thức phân phối. Phần Kết luận Danh mục tài liệu tham khảo 82 82 83 84 86 90 100 102 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là quy luật cơ bản của xã hội. Nhận thức và vận dụng quy luật này trong điều kiện Việt Nam, Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước và đi theo sự định hướng xã hội chủ nghĩa (nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, VII). Đó là một chủ trương đúng đắn, phù hợp với tình hình kinh tế - xã hội nước ta cũng như điều kiện quốc tế hiện nay. Trong quá trình vận hành nền kinh tế theo cơ chế mới, vấn đề chúng ta cần quan tâm là vai trò con người, sự phát triển của công cụ lao động, trình độ quản lý sản xuất, phân công lao động và trình độ áp dụng khoa học kỹ thuật của người lao động trong quá trình sản xuất... Đặc biệt, đối với Nghệ An, một tỉnh nghèo nằm ở miền Trung Việt Nam, luôn chịu sự ảnh hưởng khắc nghiệt của tự nhiên (nắng lắm mưa nhiều, bão lụt thường xuyên xẩy ra), đời sống kinh tế còn thấp kém lạc hậu, trình độ, kỹ năng của người lao động còn chậm phát triển, khả năng ứng dụng khoa học kỹ thuật còn gặp nhiều khó khăn. Do đó, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Nghệ An là một yêu cầu cấp thiết để nhanh chóng đưa tỉnh nhà tiến kịp với sự phát triển của cả nước. Qua hơn 20 năm đổi mới, cả nước nói chung, Nghệ An nói riêng đã thu được nhiều thành tựu to lớn, quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp với trình độ của lực lượng sản xuất, do đó mở ra khả năng mới, điều kiện mới cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước tiếp tục phát triển. Có được những thành tựu đó, là do Đảng bộ tỉnh đã nhận thức đúng và bước đầu biết vận dụng sát hợp hơn quy luật về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với 1 trình độ của lực lượng sản xuất vào đặc điểm kinh tế - xã hội địa phương. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, việc nhận thức và vận dụng quy luật này còn có những hạn chế nhất định: việc huy động và sử dụng các nguồn lực còn kém hiệu quả và chưa tương xứng với tiềm năng, trình độ công nghệ vẫn lạc hậu so với nhiều tỉnh xung quanh. Sức cạnh tranh của nền kinh tế, chất lượng và tính bền vững của sự phát triển còn kém. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng kịp nhu cầu phát triển. Hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế... Thực trạng trên đặt ra yêu cầu phải nhận thức sâu sắc và vận dụng quy luật sao cho đúng đắn hơn, phù hợp hơn với tình hình thực tiễn của tỉnh nhà. Vì vậy chúng tôi chọn vấn đề “Vận dụng quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An hiện nay" làm đề tài nghiên cứu cho luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2. Tình hình nghiên cứu Ở nước ta, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu quy luật về sự phù hợp giữa QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ngoài các bộ sách giáo khoa giảng dạy ở các trường Đảng, các trường Đại học và Cao đẳng còn có các sách, luận văn, luận án, các tạp chí viết về vấn đề này như: “Những bài học 10 năm đổi mới” của Nguyễn Phú Trọng, PGS. PTS khoa học lịch sử, tạp chí Cộng sản số 8 - 1996; “Triết học Mác - Lênin với việc nhận thức xã hội trong thời đại ngày nay” của tác giả Nguyễn Ngọc Long GS. PTS triết học, tạp chí Triết học, số 4 - 1993. Bên cạnh đó còn có nhiều công trình khoa học nghiên cứu biểu hiện đặc thù của quy luật này trong thời kỳ quá độ lên CNXH, như luận án phó tiến sỹ khoa học của Nguyễn Tĩnh Gia: “Biểu hiện đặc thù của QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX, trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam”. Có công trình nghiên cứu sự vận dụng quy luật này ở một số tỉnh như luận án PTS: “Quy luật về sự phù hợp của QHSX với tính chất và trình độ của LLSX trong quá trình đổi mới và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần 2 ở Lâm Đồng” của Bùi Chí Kiên. Có công trình đã đi vào tìm hiểu ý nghĩa của việc nhận thức và vận dụng quy luật này trong quá trình đổi mới, xây dựng CNXH ở Việt Nam như luận án PTS của Đoàn Quang Thọ. Có một số công trình nghiên cứu và bài viết đề cập đến khía cạnh khác nhau của lý luận hình thái kinh tế - xã hội như: “Lý luận hình thái kinh tế - xã hội và cuộc đấu tranh phát triển chủ nghĩa Mác trong thời đại ngày nay” của giáo sư Hồ Văn Thông; “Nhận thức con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” của GS. PTS Nguyễn Ngọc Long; “Biện chứng về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất trong thực tiễn cải tạo xã hội chủ nghĩa ở nước ta” của PGS. PTS Nguyễn Tĩnh Gia; “Giữ vững ổn định chính trị và đổi mới hệ thống chính trị” của GS. PTS Lê Hữu Nghĩa; “Quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất mâu thuẫn hay phù hợp” của PTS Hoàng Bính và Nguyễn Kim Lai; “Về sự phù hợp của quan hệ sản xuất với lực lượng sản xuất xét từ tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất” của Trương Hữu Toàn; “khoán sản phẩm trong nông nghiệp và vận dụng quy luật phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất, trình độ sản xuất ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Đình Hoà; "Nhận thức và vận dụng quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất trong nông nghiệp nước ta thời kỳ đổi mới” của tiến sĩ Nguyễn Trọng Tuấn. Các công trình khoa học trên thường nghiên cứu toàn diện quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất, trình độ của lực lượng sản xuất và trong phạm vi tác động của quy luật khá rộng bao gồm trên nhiều lĩnh vực, trên địa bàn nhiều tỉnh hoặc trên địa bàn cả nước. Ở Nghệ An, cũng có một số công trình, bài viết về sự vận động của quy luật này, song mới chỉ nghiên cứu một mặt hay một số mặt nào đó của 3 lực lượng sản xuất hoặc quan hệ sản xuất. Luận văn này cố gắng tiếp cận các kết quả của các công trình khoa học, các bài viết, các đề tài khoa học của địa phương để tổng kết, phân tích thực tiễn nhằm làm rõ mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất, quan hệ sản xuất với các thành phần kinh tế ở địa bàn một tỉnh, đồng thời vạch ra những giải pháp nhằm giải quyết tốt mối quan hệ này ở Nghệ An. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn * Mục đích: - Trên cơ sở phân tích quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, luận văn làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, đánh giá thực trạng vận dụng quy luật này ở Nghệ An hiện nay, từ đó đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển các thành phần kinh tế, thúc đẩy nền kinh tế Nghệ An phát triển. * Nhiệm vụ: Luận văn tập trung giải quyết một số vấn đề sau: - Làm rõ sự cần thiết của việc vận dụng quy luật về sự phù hợp giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An - Phân tích thực trạng vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất ở tỉnh Nghệ An hiện nay. - Kiến nghị một số giải pháp cơ bản nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở tỉnh Nghệ An đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn - Luận văn này tập trung làm rõ sự vận dụng mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất vào phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Từ việc phân tích những đặc điểm, tình hình kinh tế - xã hội ở Nghệ 4 An trong những năm gần đây để làm rõ tính tất yếu của việc vận dụng trên vào phát triển các thành phần kinh tế cũng như các giải pháp nhằm phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần của tỉnh trong giai đoạn hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu - Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm, đường lối của Đảng. - Luận văn được thực hiện trên cơ sở kết quả các số liệu thống kê của Cục thống kê Nghệ An; kết quả hội thảo và nghiệm thu các đề tài khoa học cấp tỉnh (có liên quan) thực hiện tại Nghệ An. - Luận văn sử dụng phương pháp nghiên cứu khoa học như: thống kê, khảo sát, phân tích, tổng hợp, so sánh đặc biệt là phương pháp lịch sử và lôgíc… 6. Đóng góp của luận văn - Thông qua việc tổng kết thực tiễn, luận văn phân tích, so sánh để thấy được vai trò của việc vận dụng quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm vận dụng một cách khoa học quy luật lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất nhằm phát triển các thành phần kinh tế ở Nghệ An. - Luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ cho việc nghiên cứu và giảng dạy triết học tại các trường đại học, cao đẳng, trường chính trị, cũng như cho những ai quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được chia thành 3 chương, 7 tiết. 5 Chương 1 NỘI DUNG VÀ YÊU CẦU CỦA QUY LUẬT VỀ SỰ PHÙ HỢP GIỮA QUAN HỆ SẢN XUẤT VỚI TRÌNH ĐỘ CỦA LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT 1.1. Nội dung của quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ của lực lƣợng sản xuất Xã hội loài người trong bất kỳ giai đoạn lịch sử nào, cũng là một hệ thống rất phức tạp bao gồm nhiều lĩnh vực, nhiều mối liên hệ. Các nhà tư tưởng trước C. Mác đã có nhiều đóng góp trong hoạt động nghiên cứu xã hội và con người với mục tiêu là tìm ra bản chất và quy luật phát triển của xã hội loài người. Nhưng do những hạn chế về mặt quan điểm, lập trường, về mặt lịch sử, về trình độ của khoa học tự nhiên và xã hội, nên họ đã không vượt khỏi chủ nghĩa duy tâm và quan điểm siêu hình trong nghiên cứu xã hội và xem xét lịch sử. Khác với các nhà triết học trước đó C. Mác không đi tìm nguyên nhân của sự phát triển lịch sử từ tư tưởng mà đi tìm nó trong điều kiện sinh hoạt vật chất của xã hội, và C. Mác là người đầu tiên phát hiện ra cơ sở tồn tại và phát triển hiện thực của xã hội, đó là sản xuất vật chất. Ông đã chỉ ra “cái sự thật giản đơn đã bị những tầng tầng, lớp lớp tư tưởng phủ kín cho đến ngày nay là: con người trước hết cần phải ăn, uống, ở và mặc đã rồi mới có thể làm chính trị, khoa học, nghệ thuật, tôn giáo và v.v… được” [33, tr.500]. Tư tưởng nói trên của C.Mác đã đặt nền tảng cho một quan niệm duy vật lịch sử: tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội. 6 Để duy trì sự tồn tại, phát triển của mình, con người không thể chỉ dựa vào những cái có sẵn trong tự nhiên mà phải tiến hành lao động sản xuất ra của cải vật chất. Như vậy, hành vi lịch sử đầu tiên của con người là việc sản xuất ra những tư liệu sinh hoạt vật chất. Hoạt động sản xuất vật chất là hoạt động đặc trưng riêng của con người và xã hội loài người. Trong quá trình sản xuất, con người biến đổi giới tự nhiên, biến đổi xã hội đồng thời biến đổi chính bản thân mình. Nhưng sản xuất không thể là hành động riêng lẻ của con người tác động vào tự nhiên mà: “Muốn sản xuất được người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau. Và chỉ có trong phạm vi, những mối liên hệ và quan hệ xã hội đó thì mới có sự tác động của họ vào giới tự nhiên, tức sự sản xuất” [30, tr.94]. Cái mối quan hệ và quan hệ nhất định với nhau đó lúc đầu C.Mác gọi là quan hệ giao tiếp, quan hệ trao đổi, sau này được C.Mác thay bằng thuật ngữ quan hệ sản xuất. Như vậy, loài người đã tồn tại và phát triển được không phải do phép màu của một lực lượng siêu nhiên huyền bí, hay ý chí của những bậc vĩ nhân mà do có sự tồn tại và phát triển của LLSX và QHSX. C.Mác đã vận dụng phép biện chứng duy vật vào việc xem xét mối quan hệ giữa LLSX và QHSX từ đó từng bước tìm ra mối quan hệ giữa sự phát triển của LLSX đến sự thay đổi của các quan hệ xã hội: “do có được những LLSX mới, loài người thay đổi tất cả những quan hệ xã hội của mình. Cái cối xay quay bằng tay đưa lại xã hội có lãnh chúa, cái cối xay chạy bằng hơi nước đưa lại xã hội có nhà tư bản công nghiệp” [31, tr.380]. Từ quá trình sản xuất vật chất của con người, C.Mác đã khám phá ra các quy luật chi phối sự vận động, biến đổi và phát triển của xã hội, trong đó có quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Con người trong quá trình tồn tại của mình càng phải được đáp ứng những nhu cầu thiết yếu của cuộc sống. Như vậy, con người 7 không thể một ngày một giờ ngừng sản xuất ra của cải vật chất. Chính sự phát triển mạnh mẽ của LLSX đã mâu thuẫn với QHSX và sự giải quyết mâu thuẫn này đã tạo nên sự biến đổi dây chuyền trong lịch sử. Trong các tác phẩm “Hệ tư tưởng Đức” và đặc biệt là trong tác phẩm “Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị”, C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội ra đời sống của mình, con người có những quan hệ nhất định, tất yếu không tuỳ thuộc vào ý muốn của họ - tức là những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển nhất định của của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản xuất ấy hợp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó xây dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó. Phương thức sản xuất đời sống vật chất quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần nói chung. Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại, tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ. Tới một giai đoạn phát triển nào đó của chúng, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất vật chất hiện có, hay đây chỉ là biểu hiện pháp lý của những quan hệ sản xuất đó mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất. Khi đó bắt đầu thời đại một cuộc cách mạng xã hội” [32, tr.14-15]. Như vậy, lần đầu tiên C.Mác đã phát hiện ra quy luật QHSX phù hợp với tính chất và trình độ của LLSX. Đó là quy luật cơ bản chi phối toàn bộ quá trình lịch sử loài người. Nó quyết định sự thay thế các phương thức sản xuất và cùng với sự thay đổi các phương thức sản xuất là sự thay đổi các hình thái kinh tế - xã hội. Tuy nhiên ở các điều kiện cụ thể khác nhau thì các hình thức biểu hiện của nó cũng khác nhau nhưng bản chất thì không thay 8 đổi. Vì vậy, C.Mác khẳng định rằng, mỗi giai đoạn lịch sử gắn với một phương thức sản xuất nhất định phù hợp với hoàn cảnh của thời kỳ đó. Phương thức sản xuất là sự thống nhất biện chứng của hai mặt đối lập lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất. LLSX chính là tất cả những lực lượng vật chất được sử dụng vào việc sản xuất ra của cải vật chất, hay nói cách khác LLSX là toàn bộ những tư liệu sản xuất do xã hội tạo ra, mà trước hết là công cụ sản xuất và những con người với trình độ kỹ năng, kinh nghiệm và thói quen lao động sử dụng những tư liệu sản xuất đó để sản xuất ra của cải vật chất. Trong LLSX thì con người là yếu tố quan trọng nhất, bởi vì: một là, dù tư liệu lao động có hiện đại đến đâu nhưng nếu không có con người có năng lực tương xứng sử dụng tư liệu lao động đó thì cũng không tạo ra năng suất lao động tương xứng được; hai là, bản thân con người chế tạo ra tư liệu lao động. Khi nói đến sản xuất là nói đến lao động của con người, thiếu lao động của con người sẽ không có bất kỳ một quá trình sản xuất nào. C.Mác viết: “lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người ta và tự nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt động của chính mình con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên” [34, tr.266], tức là con người phải dựa vào tự nhiên, liên hệ chặt chẽ với tự nhiên và trao đổi chất với nó. Lực lượng sản xuất là biểu hiện mối quan hệ của con người với tự nhiên, trong đó con người hoạt động nhằm cải tạo, biến đổi những đối tượng của tự nhiên thành những sản phẩm đáp ứng nhu cầu đa dạng của xã hội. Nhân tố đầu tiên của lực lượng sản xuất chính là bản thân người lao động. Người lao động với tất cả các khí quan và trí tuệ, toàn bộ sức mạnh thể lực và trí tuệ của họ tạo thành lực lượng sản xuất. Lực lượng sản xuất là kết quả của năng lực thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục tự nhiên, là biểu hiện quan hệ của con người với tự nhiên. 9 Nhưng không nên đồng nhất lực lượng sản xuất là quan hệ giữa con người với tự nhiên. Bởi vì không phải quan hệ nào của con người với tự nhiên cũng đều là lực lượng sản xuất. Chỉ những quan hệ nào của con người với tự nhiên mà mục đích cuối cùng là tạo ra của cải vật chất, đáp ứng được nhu cầu khách quan của đời sống mới là lực lượng sản xuất. Trong quá trình lao động, con người tiến hành sản xuất không chỉ bằng các khí quan của mình, mà còn sáng tạo ra các khí quan mới bằng các vật liệu của tự nhiên, đó là công cụ lao động, C.Mác viết: “Một vật do bản thân tự nhiên cung cấp đã trở thành khí quan mà con người đem chắp vào những khí quan của cơ thể mình và do đó mà kéo dài tầm thước tự nhiên của cơ thể đó” [34, tr.268]. Như vậy, lực lượng sản xuất là kết quả hoạt động thực tiễn của con người, là kết quả của lao động “quá khứ” và là quá trình “tích luỹ” được từ thế hệ này qua thế hệ khác, nó tồn tại một cách khách quan, không phụ thuộc vào ý thức con người. Con người khi sinh ra đã có sẵn những lực lượng sản xuất do thế hệ trước để lại và họ tìm cách thích ứng với chúng, sử dụng chúng vì mục đích của mình. Đồng thời các thế hệ mới tiếp tục sửa đổi bổ sung hoàn thiện các công cụ tư liệu sản xuất ấy để nâng cao chất lượng và hiệu quả của nó trong quá trình sản xuất. Kết quả là “mỗi một thế hệ sau đã có được những lực lượng sản xuất ấy là nguyên liệu cho thế hệ sau ấy để thực hiện một hoạt động sản xuất mới” [35, tr.657-658]. Do đó, người ta không được tự do lựa chọn những lực lượng sản xuất của mình, nghĩa là con người kế thừa được những lực lượng sản xuất do các thế hệ trước để lại và dùng chúng làm cơ sở cho việc duy trì và phát triển một cách liên tục sự sản xuất xã hội. Như vậy, con người tự bản thân mình vừa là LLSX vừa là nguồn gốc phát triển LLSX của mình. Trong LLSX có mối quan hệ hữu cơ giữa hai yếu tố cấu thành, đó là con người và tư liệu sản xuất, mà trước hết là công cụ sản xuất. LLSX được 10 phát triển không ngừng do mâu thuẫn giữa khả năng và nhu cầu của con người luôn tồn tại trong mọi lúc mọi nơi. Nhu cầu của con người bao giờ cũng cao hơn khả năng, do vậy, con người luôn tìm cách cải tiến công cụ, nâng cao năng lực sử dụng công cụ lao động, đổi mới công nghệ sản xuất, mở rộng đối tượng lao động. Tư duy con người và năng lực sử dụng công cụ lao động cũng đồng thời được phát triển song song với quá trình cải tiến, sáng tạo ra những công cụ lao động mới. Công cụ lao động ngày càng phong phú, trí tuệ con người ngày càng cao thì phạm vi đối tượng lao động càng được khai thác mở rộng, năng suất, chất lượng, hiệu quả lao động ngày càng được nâng cao tiến dần đến đáp ứng được nhu cầu của con người, khi đó lại nảy sinh nhu cầu mới cao hơn. Như vậy, các yếu tố trong LLSX có quan hệ biện chứng với nhau theo một hệ thống luôn phát triển. Trong mối quan hệ này vai trò của các yếu tố khác tham gia vào quá trình sản xuất chỉ có thể đánh giá khi xem xét nó trong mối quan hệ với nhân tố con người. Bởi vì, các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, thiết bị máy móc, công nghệ, nguyên nhiên liệu, vốn … thực chất chỉ là những nguồn lực phụ thuộc vào con người. Chúng chỉ được phát hiện cải tạo, biến đổi và phát huy tác dụng khi có sự kết hợp với nhân tố con người. Con người biết tư duy, có trí tuệ, có ý trí và biết sáng tạo ra công cụ, phương tiện lao động… để gắn kết những yếu tố vật thể đó lại với nhau tạo ra những sản phẩm theo mục đích đã định sẵn. Bởi vậy, V.I. Lênin khẳng định: “Lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại là công nhân, là người lao động” [27, tr.430]. Con người lao động với đặc trưng sinh học - xã hội riêng có của mình, trong quá trình sản xuất xã hội có sức mạnh và kỹ năng lao động thần kinh cơ bắp. Sức mạnh và kỹ năng ấy trong lao động đã được nhân lên gấp nhiều lần. Thêm nữa, ngày nay năng lực trí tuệ của con người là đối tượng khai thác chủ yếu và giá trị sản phẩm được tạo ra tuỳ thuộc vào trí tuệ năng lực của con 11 người. Trí tuệ của con người là sản phẩm của tự nhiên và lao động. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài người, trí tuệ được hình thành và phát triển cùng với lao động và làm cho lao động ngày càng có hàm lượng trí tuệ cao hơn. Điều này thể hiện ở tỉ trọng tri thức trong giá trị của sản phẩm. Nếu như trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ nhất và lần thứ hai tỷ trọng tri thức chỉ chiếm trong giá thành sản phẩm 20 - 25%, thì trong cách mạng công nghiệp lần thứ ba tỷ trọng đó đã lên tới 75 - 80% [21, tr.42]. Trí tuệ khoa học và công nghệ của con người trong lao động hiện nay đã làm cho con người trở thành nguồn lực đặc biệt và vô tận trong sản xuất và mọi hoạt động khác của xã hội. Cùng với con người - người lao động, công cụ lao động cũng là một thành tố cơ bản của lực lượng sản xuất. Theo Ph. Ăngghen công cụ lao động là “khí quan của bộ óc con người”, là sức mạnh tri thức đã được vật thể hoá có tác dụng “nối dài” bàn tay lên gấp nhiều lần. Do vậy, khi công cụ lao động đã đạt tới trình độ lao động hoá, tin học hoá… thì vai trò “khí quan vật chất” của nó trở lên diệu kỳ. Ở mọi thời đại, công cụ lao động luôn là yếu tố động nhất của lực lượng sản xuất, biểu hiện khả năng hoạt động thực tiễn của con người ngày càng tiến bộ. Sự cải tiến đổi mới và hoàn thiện không ngừng của công cụ sản xuất đã làm nên những biến đổi sâu sắc trong toàn bộ tư liệu sản xuất. Xét cho cùng chính nó là nguồn gốc sâu xa gây ra mọi cải biến xã hội. Trong lịch sử, lực lượng sản xuất phát triển không ngừng và đã trải qua các giai đoạn khác nhau: giai đoạn công cụ lao động thủ công thô sơ trong nông nghiệp cổ truyền và thủ công nghiệp kéo dài hàng ngàn năm với đặc trưng là lao động cơ bắp. Giai đoạn cơ khí hoá trong sản xuất công nghệ và các nghành sản xuất khác, giai đoạn này kéo dài hàng trăm năm. Trình độ của lực lượng sản xuất thể hiện ở sự phát triển của công cụ lao động xã hội… Trình độ thủ công gắn với giai đoạn thấp của sự phát triển, tồn tại trong các xã hội 12 cộng sản nguyên thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến. Ở đó công cụ sản xuất đều là công cụ cầm tay. Tương ứng với trình độ thủ công là tính chất cá nhân của lực lượng sản xuất. Công cụ sản xuất đều do một người sử dụng, không cần tới lao động tập thể cũng có thể sản xuất ra vật dụng. Trình độ cơ khí gắn với giai đoạn cao của sự phát triển sản xuất, xuất hiện cùng với xã hội tư bản chủ nghĩa. Ở trình độ này, con người sản xuất chủ yếu bằng máy động lực và lực lượng sản xuất mang tính chất xã hội hoá. Những tư liệu sản xuất có tính chất cá nhân chuyển thành những tư liệu sản xuất mang tính chất xã hội, chuyển từ lao động thủ công, cơ bắp sang lao động cơ khí máy móc. Trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó trình độ quyết định tính chất. Nó là biểu hiện đặc trưng của lực lượng sản xuất trong mỗi thời kỳ phát triển của lịch sử. Ngày nay lực lượng sản xuất đã đạt tới những trình độ cao hơn. Chúng ta đã chứng kiến những biến đổi sâu sắc của lực lượng sản xuất qua các cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật với quy mô toàn cầu: cuộc cách mạng lần thứ nhất diễn ra vào thế kỷ XVIII - XIX làm thay đổi cơ bản LLSX ở các nước có nền khoa học phát triển bằng việc chuyển từ lao động thủ công sang nền sản xuất đại công nghiệp, cơ khí hoá và điện khí hoá giữa các nghành, các lĩnh vực sản xuất. Sinh học và hoá học, nhất là hoá học hữu cơ cũng đạt được những thành tựu to lớn giúp cho LLSX phát triển. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật lần thứ hai diễn ra vào đầu thế kỷ XX, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ tiên tiến trong các lĩnh vực điều khiển học, điện tử, tin học, sinh học… và sự thâm nhập mạnh mẽ của khoa học và công nghệ vào tất cả các mặt của quá trình sản xuất. Ngày nay khoa học và công nghệ đang trở thành LLSX hàng đầu của nhân loại, góp phần thúc đẩy sản xuất phát triển. Nếu đầu thế kỷ XX, trong các nhân tố làm tăng trưởng kinh tế, khoa học kỹ thuật mới chiếm 5%, thì 13 đến đầu những năm 60 đã chiếm 62% ở Nhật; 60% ở Mỹ; 87% ở Pháp [45, tr.22]. Trong lực lượng sản xuất công cụ lao động được xem là yếu tố động nhất, cách mạng nhất, có ý nghĩa quyết định năng suất lao động. Bởi vì nó trực tiếp truyền sự tác động của con người tới đối tượng lao động, làm tăng hiệu lực sự tác động của con người. Trong quá trình sản xuất, con người muốn tăng năng suất lao động thì con người phải thường xuyên cải tiến, phát minh ra những công cụ mới. Khi công cụ được cải tiến, đổi mới thì năng suất lao động tăng lên, đồng thời kinh nghiệm, kỹ năng, tri thức của con người cũng được nâng cao. Trong thời đại ngày nay dự báo của C.Mác “khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp” đã trở thành sự thật. Khoa học không còn là một yếu tố bên ngoài tác động vào sản xuất nữa, nó gia nhập vào sản xuất, trở thành yếu tố không thể thiếu của quá trình sản xuất, khoa học được vật chất hoá thành những nghành sản xuất mới, thành công cụ và công nghệ sản xuất mới ngày càng tinh vi, hiện đại với hàm lượng trí tuệ cao, thành nguyên, nhiên, vật liệu mới, thành các lực lượng lao động kiểu mới với tri thức khoa học, kỹ thuật cao, thao tác công nghệ, kỹ năng, kỹ xảo thành thạo, sự khéo léo và trình độ lành nghề cao… trong đó trí tuệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong quá trình sản xuất ra của cải vật chất. Như vậy, với cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, tri thức đã trở thành yếu tố bên trong của quá trình sản xuất, lao động trí tuệ ngày càng trở thành lực lượng lao động chủ yếu. Trên cơ sở của đại công nghiệp cơ khí, những thành tựu của các khoa học hiện đại trong thời kỳ cuộc cách mạng khoa học lần thứ hai như toán học ứng dụng, điện tử học, tin học, sinh học, điều khiển học… mà kỹ thuật cơ khí đang chuyển sang kỹ thuật tự động hoá, tối ưu hoá, kế hoạch hoá các quá trình sản xuất. LLSX đang đi vào phát triển theo chiều sâu nhờ 14 những tiến bộ khoa học và công nghệ. Đến giai đoạn tin học hoá, LLSX sẽ có những biến đổi lớn về chất nhờ sự xuất hiện của những máy tính hiện đại có thể thực hiện vài chục tỷ cho đến hàng trăm tỷ phép tính trong một giây, các Rôbốt thông minh dựa trên cơ sở của trí tuệ nhân tạo, những thiết bị điều khiển tự động các quá trình sản xuất mà con người có thể tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động cao chưa từng thấy. Ngày nay nói đến chất lượng của nhân tố con người trong sản xuất là nói đến hàm lượng trí tuệ lao động, nói tới “người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp” [20, tr.9], tính vô tận của nhân tố con người đó là trí tuệ. Bàn tay và khối óc con người đã sáng chế ra kỹ thuật công nghệ hiện đại giúp nhân loại làm nên những biến đổi thần kỳ trong lịch sử phát triển của mình. Khi trí tuệ được coi trọng, tri thức khoa học, kỹ thuật phát triển thì vai trò quyết định của nhân tố con người trong lực lượng sản xuất ngày càng được tăng lên. Trong những giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội không có những LLSX nào lại không gắn bó với những QHSX nhất định. Nếu sản xuất với tư cách là mối liên hệ kỹ thuật giữa con người với tự nhiên, thì mối liên hệ ấy chỉ có thể thực hiện được thông qua các quan hệ kinh tế xã hội giữa con người với con người. Như vậy, quan hệ giữa con người với con người trong sản xuất vật chất tạo nên QHSX. Quan hệ sản xuất vật chất được biểu hiện trên ba mặt, đó là quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất, quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất, quan hệ trong phân phối sản phẩm lao động. Quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của lực lượng sản xuất. Mặt khác, do hình thành một cách tất yếu khách quan, không phụ thuộc vào ý muốn của con người cho nên những quan hệ sản xuất là những quan hệ mang tính vật chất thuộc đời sống xã hội, chúng là cơ sở hiện thực của kiến trúc thượng tầng. Quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất nói lên rằng tư liệu sản xuất thuộc về 15 ai, ai chiếm hữu tư liệu sản xuất và ai là người có quyền định đoạt tư liệu sản xuất. Nói cách khác, quan hệ sở hữu phản ánh quyền sở hữu đối với tư liệu sản xuất, chứa đựng các quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt. Các quyền này có thể hợp nhất trong một tập đoàn người nhất định. Chính quan hệ sở hữu các tư liệu sản xuất đã quy định địa vị của từng tập đoàn trong hệ thống xã hội. Xét đến cùng quan hệ sản xuất không có mục đích tự thân, mà nhằm đạt đến lợi ích nhất định của chủ sở hữu và chỉ thông qua các lợi ích mà người ta mới có thể nhận thức đúng đắn về quan hệ sở hữu và quan hệ quản lý. Trong quan hệ sản xuất, quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất đóng vai trò quyết định vì nó quyết định bản chất của quan hệ sản xuất, quyết định mục đích, hình thức tổ chức, phương thức quản lý và quyết định cả việc phân phối sản phẩm làm ra. Do vậy, quan hệ sở hữu là quan hệ xuất phát, quan hệ cơ bản, quan hệ trung tâm của quan hệ sản xuất. Trong quan hệ giữa quan hệ sở hữu với lợi ích kinh tế xã hội thì quan hệ sở hữu là cái bên trong, được biểu hiện ra ngoài thông qua lợi ích. Ở đây có thể nói lợi ích kinh tế là biểu hiện gần gũi nhất của quan hệ sở hữu. Bởi vì lợi ích kinh tế của mỗi người, mỗi tập đoàn người, mỗi giai cấp, cũng như vai trò của họ trong hệ thống sản xuất được quy định trước hết do mối quan hệ của họ đối với việc chiếm hữu tư liệu sản xuất. Quan hệ sở hữu quyết định mục đích, hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh, phương thức quản lý, chi phối và định đoạt việc phân phối sản phẩm làm ra. Do vậy, nó cũng quyết định địa vị của các tập đoàn người trong hệ thống sản xuất xã hội. Trong xã hội, giai cấp nào nắm quyền sở hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, thì giai cấp đó nắm quyền chi phối tổng sản phẩm xã hội, đồng thời nắm quyền thống trị xã hội. Trong lịch sử xã hội loài người từ trước đến nay có các loại hình sở hữu cơ bản đối với tư liệu sản xuất, đó là sở hữu công cộng và sở hữu tư 16 nhân. Cùng với sự phát triển của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã hội thì các hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất ngày càng trở nên đa dạng. Quan hệ sở hữu quyết định hệ thống quản lý sản xuất kinh doanh, thông qua đó quyết định hệ thống lợi ích kinh tế của các giai cấp khác nhau trong xã hội. Chẳng hạn, trong xã hội tư bản chủ nghĩa, giai cấp tư sản nắm quyền sở hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu nên có quyền chi phối hệ thống quản lý sản xuất, do đó quyết định lợi ích của tất cả các giai cấp khác trong xã hội, sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể là hai hình thức sở hữu cơ bản giữ vai trò định hướng sự phát triển của các hình thức sở hữu khác trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Vì lợi ích xã hội, lợi ích tập thể là cái cơ bản, quy định hệ thống các lợi ích trong xã hội. Về quan hệ trong tổ chức và quản lý sản xuất kinh doanh, thích ứng với một kiểu quan hệ sở hữu là một chế độ tổ chức và quản lý sản xuất nhất định. Trong các xã hội mà nền kinh tế dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, thì người sở hữu tư liệu cũng là người quản lý sản xuất, là kẻ bóc lột, còn người lao động không có tư liệu sản xuất là người bị quản lý và bị bóc lột. Điển hình của chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất trong lịch sử phát triển trong xã hội loài người phải kể đến ba loại hình: sở hữu chiếm hữu nô lệ, sở hữu phong kiến và sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa. Trong các chế độ mà tư liệu sản xuất dựa trên chế độ công hữu thì mọi thành viên đều có vị trí bình đẳng trong tổ chức lao động xã hội và phân phối sản phẩm. Chế độ công hữu về tư liệu sản xuất đã từng tồn tại trong buổi đầu của xã hội loài người - chế độ công xã nguyên thuỷ và trong chế độ cộng sản chủ nghĩa mà loài người đang hướng tới giai đoạn đầu của nó là chủ nghĩa xã hội. Việc thiết lập chế độ công hữu về tư liệu sản xuất trên thực tế trong chế độ cộng 17 sản chủ nghĩa là tiền đề cho việc tổ chức quản lý và các hoạt động khác sẽ được thực hiện một cách bình đẳng. Tuy nhiên, việc làm đó là cả một quá trình lâu dài và chỉ có thể được thực hiện dần dần từng bước từ thấp đến cao thông qua nhiều bước trung gian quá độ. Đương nhiên, trong sự tác động lẫn nhau của các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất thì quan hệ tổ chức và quản lý, quan hệ phân phối cũng có vai trò rất quan trọng. Tuy phụ thuộc vào quan hệ sở hữu đối với tư liệu sản xuất nhưng trong thực tế quan hệ tổ chức và quản lý cũng có vai trò rất quan trọng tác động trở lại to lớn đối với sở hữu. Ngay cả khi chế độ sở hữu chưa có gì thay đổi, nhưng nếu có một phương thức quản lý thích ứng, phù hợp thì sản xuất vẫn có bước phát triển. Trong nhiều trường hợp nó là yếu tố quyết định trực tiếp đến quy mô, tốc độ và hiệu quả của nền kinh tế. Khi lợi ích của người lao động mâu thuẫn với chủ sở hữu và quản lý thì quan hệ tổ chức quản lý mang nặng tính chất thống trị, chuyên chế, cưỡng ép. Nếu quan hệ tổ chức quản lý được điều chỉnh, mâu thuẫn được tháo gỡ thì quan hệ giữa chủ sở hữu, quản lý và công nhân sẽ mang tính hợp tác, dân chủ hơn và do vậy mà có thể khai thác được tính chủ động sáng tạo của người lao động. Trái lại, khi tổ chức quản lý lỏng lẻo thì tư liệu sản xuất ngày càng bị thất thoát, hao mòn đi, không phát huy được tác dụng, làm kìm hãm, thậm chí phá hoại quan hệ sở hữu. Thực tế cho thấy các công ty bị vỡ nợ, phá sản… nhiều khi không phải do công nghệ lạc hậu, mà là chưa thiết lập được quan hệ quản lý phù hợp. Hay cũng có nhiều công ty chỉ được trang bị những công nghệ sản xuất trung bình nhưng vẫn làm ăn phát đạt là nhờ một hệ thống quản lý thích hợp. Vì thế trong sự nghiệp công nghiệp hoá ở nước ta hiện nay, vấn đề đặt ra là không chỉ xây dựng được một cơ cấu sở hữu hợp lý, mà còn phải thiết lập đươc một hệ thống tổ chức quản lý hữu hiệu. V.I. Lênin đã từng chỉ ra rằng, chủ nghĩa 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan