Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT VỀ PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VÀO VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY V...

Tài liệu VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT VỀ PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VÀO VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ TÀY Ở CAO BẰNG HIỆN NAY

.PDF
96
292
53

Mô tả:

98 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN *** ĐÀM THỊ MINH VẬN DỤNG QUAN ĐIỂM MÁC-XÍT VỀ PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG VÀO VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ TÀY Ở CAO BẰNG HIỆN NAY CHUYÊN NGÀNH : DVBC & DVLS MÃ SỐ : 5 01 02 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: TS. NGÔ ĐÌNH XÂY Ban Khoa giáo Trung ương HÀ NỘI - 2004 3 MỤC LỤC Trang Trang phụ bìa 1 Lời cam đoan 2 Mục lục 3 MỞ ĐẦU 4 Chương 1- QUAN ĐIỂM PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG MÁC – XÍT VỚI VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC 2.1. Văn hoá Tày 10 10 1.2. Vận dụng nguyên tắc phủ định biện chứng trong giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc 15 Chương 2 - MỘT SỐ VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ TÀY Ở CAO BẰNG HIỆN NAY TRÊN CƠ SỞ NGUYÊN TẮC PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG 2.1. Văn hoá Tày 36 36 2.2. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển văn hoá Tày ở Cao Bằng 42 2.3. Biểu hiện của văn hoá Tày Cao Bằng trong một số lĩnh vực hoạt động tinh thần 44 2.4. Thực trạng lĩnh vực tinh thần của văn hoá Tày Cao Bằng hiện nay 66 2.5. Một số kiến nghị để giữ gìn và phát huy văn hoá Tày Cao Bằng hiện nay 73 KẾT LUẬN 86 TÀI LIỆU THAM KHẢO 88 4 A. PHẦN MỞ ĐẦU 1- Tính cấp thiết của đề tài 1.1. Với tư cách là một trong ba nội dụng cơ bản của phép biện chứng duy vật, quy luật phủ định của phủ định luôn là nền tảng lý luận là kim chỉ nam cho hoạt động nhận thức cũng như hoạt động thực tiễn của những người Mác - xít. Phủ định của phủ định trong quan điểm phủ định duy vật biện chứng không chỉ giúp cho những người Mác – xít hiểu đúng và trúng về bản chất, về đặc điểm của quá trình phủ định biện chứng – một quá trình đã , đang và sẽ diễn ra thường xuyên trong thế giới xung quanh ta. Nó còn giúp cho đảng của họ có được cơ sở lý luận và phương pháp luận để đưa ra và thực hiện có hiệu quả những đường lối, chủ trương, chính sách của mình nhằm để xây dựng một xã hội mới tốt đẹp hơn, có chất lượng hơn.Việc thiết kế, xây dựng được một xã hội mới về chất trên nền vốn có của xã hội cũ,về thực chất, đó là quá trình vận dụng và thực hiện quan điểm phủ định biện chứng trong thực tế. 1.2. Phủ định biện chứng là quá trình phủ định bao hàm trong nó những nhân tố tích cực của cái bị phủ định. Vì vậy, phủ định biện chứng mang tính kế thừa, tích cực và gạt bỏ những yếu tố không phù hợp với sự phát triển cái mới. Song khi vận dụng quan điểm phủ định vào đời sống thực tiễn để xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng đã có những quan điểm xem xét sự vật và hiện tượng một cách cứng nhắc, siêu hình hoặc là xoá bỏ tất cả, hoặc kế thừa một cách nguyên xi. Đã một thời chúng ta mắc phải cách nhìn và đánh giá siêu hình về sự vật, đã vận dụng một cách máy móc mô hình xây dựng chủ nghĩa xã hội của Liên Xô (cũ) và các nước Đông Âu trước đây mà không đứng trên quan điểm phủ định biện chứng của chủ nghĩa Mác –Lênin. Hơn bất cứ lĩnh vực xã hội nào, lĩnh vực văn hoá ở nước ta trước đổi mới đã 5 có những quan điểm chỉ đạo và cách làm không đúng và hệ quả là nhiều di sản văn hoá dân tộc do lịch sử để lại đã bị xâm phạm và phá hỏng. Nền văn hoá dân tộc đã bị tổn thất lớn. Có nhiều lí do để giải thích cho vấn đề này, song trong đó cần nhấn mạnh rằng, trong cách nghĩ và cách làm của chúng ta, đã thiếu tư duy và cách nhìn của phủ định biện chứng. Nói một cách khác, chúng ta vẫn nói về phủ định biện chứng, song chưa hiểu và chưa nắm được thực chất của nó. Vì vậy làm rõ quan điển phủ định biện chứng và vận dụng một cách đúng đắn thích hợp vào hoàn cảnh cụ thể của nước ta là điều hết sức cần thiết. Đặc biệt, sử dụng quan điểm phủ định biện chứng vào lĩnh vực văn hoá để nhằm xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, nhất là đối với văn hoá dân tộc ít người như dân tộc Tày ở Cao Bằng là điều hết sức quan trọng và tối cần thiết. 1.3. Văn hoá Việt Nam hiện nay đang được vận động và chịu nhiều ảnh hưởng của điều kiện xung quanh: đó là kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, cuộc cách mạng khoa học – Công nghệ hiện đại. Kinh tế thị trường đã thể hiện được tính ưu việt của nó và được đông đảo quần chúng nhân dân, các thành phần kinh tế nước ta đồng tình ủng hộ. Kinh tế thị trường đã đóng góp một cách đáng kể vào phát triển kinh tế đất nước, đóng góp cho giải quyết việc làm, và ngân sách của nhà nước, kích thích mọi người suy nghĩ, tìm tòi, sáng tạo, cải tiến kỹ thuật, phát huy tiềm lực về vốn, sức lao động ... Tuy nhiên, kinh tế thị trường còn nhiều mặt tiêu cực trong vấn đề phát triển văn hoá như kích thích khát vọng làm giàu, làm bằng bất cứ giá nào lấy đồng tiền làm mục tiêu và thước đo cao nhất. Từ đó dẫn đến đủ kiểu làm ăn bất chính với lối sống hưởng lạc, xa xỉ với thái độ lạnh lùng, tàn nhẫn, giả dối trong ứng xử, những thứ đó đang làm xói mòn truyền thống đạo đức tốt đẹp, lối sống lành mạnh và quan hệ có tình nghĩa 6 của dân tộc ta. Nhiều tệ nạn xã hội phát triển: buôn lậu, ma tuý, mại dâm, mê tín dị đoan, nhiều hủ tục mới, cũ lan tràn ... giáo dục xuống cấp nghiêm trọng, nhiều tiêu cực phát sinh trong cả dạy và học, gian dối, man trá, mua bằng bán điểm... Những tệ nạn ấy đã và đang gây nên nhiều tổn hại cho nền văn hoá dân tộc nói chung, văn hoá Tày nói riêng. Với đường lối đổi mới, Đảng ta đang chủ động hội nhập kinh tế với thế giới và khu vực, đất nước ta mở rộng cửa đón gió bốn phương, trong đó có cả gió lành và gió độc. Với tâm lý sùng ngoại, nhiều người đã chạy theo lối thực dụng và cá nhân cực đoan, ích kỷ, hưởng lạc trong thế giới tư bản. Họ ngộ nhận những giá trị văn hoá, coi thường những giá trị dân tộc, xem thường bản sắc văn hoá dân tộc, tiếp nhận xô bồ mọi thứ văn hoá ngoại lai, không phân biệt hay dở, tốt xấu. Chúng ta đang sống trong thời đại bùng nổ khoa học, công nghệ mà một trong những thành quả nổi bật của nó là xuất hiện kỷ nguyên thông tin với hàng nghìn vệ tinh hoạt động trên các quỹ đạo khác nhau, có khả năng chuyền tải tức thời mọi thông tin tới bất kỳ địa điểm nào trên trái đất. Lợi dụng thành tựu này các “đế quốc văn hoá” đang nhân danh con người và nhân quyền để áp đặt cho các dân tộc những thị hiếu và lối sống theo quan điểm của họ. Về văn hoá, họ đã thông qua cái gọi là văn hoá đại chúng, văn hoá nghe nhìn của phương Tây nhằm làm cho các thế hệ trẻ ngày càng xa rời cốt cách tâm hồn dân tộc, chạy theo các phản giá trị, đề từ tự diễn biến về văn hoá đi đến tự diễn biến về chính trị. Tất cả những hiện tượng phản văn hoá đó ngày càng ảnh hưởng tiêu cực đến văn hoá dân tộc Việt Nam, trong đó có văn hoá của các dân tộc thiểu số (như văn hoá Tày) và cũng từ đây, hơn lúc nào hết chúng ta phải nhận diện hiện tượng đáng lo ngại ấy, từ đó phải có những biện pháp thiết thực, hữu hiệu để giữ gìn phát huy văn hoá dân tộc. 7 Nhận thức rõ tầm quan trọng và vị trí của văn hoá trong sự nghiệp đổi mới, chấn hưng đất nước, hội nghị lần thứ V Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) và gần đây nhất Hội nghị lần thứ X Ban chấp hành Trung ương (khoá IX) đã đặt ra nhiều vấn đề cấp bách trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc trong điều kiện đổi mới và mở cửa. Dưới góc độ triết học vận dụng quan điểm phủ định biện chứng để nghiên cứu văn hoá, làm sáng tỏ các điều kiện, nguồn gốc và văn hoá dân tộc có ý nghĩa lý luận và phương pháp luận quan trọng ở nước ta, đặc biệt là đối với văn hoá Tày ở Cao Bằng, việc nghiên cứu này sẽ giúp cho cả nước nói chung và Cao Bằng nói riêng thấy được những yếu tố tích cực, tiến bộ cần phát huy và lọc bỏ những yếu tố lạc hậu, bảo thủ không còn phù hợp trong việc kế thừa, phát huy văn hoá dân tộc. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dưới góc độ, văn hoá dân tộc… chẳng hạn như: - Các công trình của Vũ Thị Kiều Phương (2003): “Phủ định biện chứng và vai trò của nó đối với sự phát triển” (Luận văn Thạc sĩ – Viện Triết học), Phúc Khánh (1963), “Sự phát triển biện chứng từ thấp đến cao, quy luật phủ định của phủ định”, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội. Đã phân tích khá sâu quan điểm triết học biện chứng và vai trò của phủ định biện chứng đối với sự phát triển, phủ định biện chứng được xem như là một phương thức tất yếu của quá trình cải tạo và xây dựng xã hội mới. Các chuyên khảo về văn hoá của Phan Ngọc (1998) “Bản sắc văn hoá Việt Nam”, Nhà xuất bản Thông tin. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (1996) “Văn hoá đại cương và cơ ở văn hoá Việt Nam”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đã làm rõ văn hoá và sự phát triển văn hoá, bản sắc văn hoá, sự 8 tiếp xúc giữa văn hoá Việt Nam với văn hoá khác trong quá trình hình thành và phát triển của nó. Tiếp cận về văn hoá Tày các tác giả Hoàng Quyết, Tuấn Dũng (1994) “Phong tục tập quán người Tày ở Việt Bắc”, Nhà xuất bản Văn hoá, Hoàng Quyết, Ma Bằng, Hoàng Huy Phách, Công Lược, Vương Toàn (1993), Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Hoàng Tuấn Nam (2001), “Tang lễ cổ truyền của dân tộc Tày”, Nhà xuất bản Văn hoá dân tộc, Bế Viết Đẳng (1992), Văn hoá dân gian Cao Bằng, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội. Đã từ góc độ dân tộc học nghiên cứu về đời sống vật chất và tinh thần của dân tộc Tày nói chung và dân tộc Tày Cao Bằng nói riêng thông qua việc trình bày, mô tả dưới dạng văn hoá vật chất, văn hoá tinh thần. Nhưng cho đến nay hầu như chưa có công trình nào từ góc độ triết học để tiếp cận văn hoá Tày ở Cao Bằng. Như vậy, qua các công trình nêu trên, các tác giả, các học giả Việt Nam đã đề cập và nghiên cứu đến phủ định biện chứng và vai trò của nó trong xã hội, cũng như đã đề cập và nghiên cứu đến văn hoá dân tộc, bản sắc văn hoá dân tộc, sự giao thoa văn hoá Việt Nam với các loại văn hoá khác trong quá trình tiếp thu. Song cho đến nay ở Việt Nam dường như chưa có một chuyên khảo nào đề cập đến vấn đề vận dụng quan điểm mác xít về phủ định biện chứng để tiếp cận nghiên cứu văn hoá, cũng như tiếp cận để nghiên cứu văn hoá Tày. Rõ ràng ở đây, việc vận dụng quan điểm mác xít về phủ định biện chứng để đề cập, lý giải văn hoá Tày còn là vấn đề bỏ ngỏ. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1. Mục đích, hình thành quan điểm đúng và hệ thống các kiến nghị mang tính khả thi trong giữ gìn văn hoá Tày, nhằm làm cho văn hoá Tày không ngừng phát triển. 9 3.2. Nhiệm vụ, để thực hiện được mục đích trên cần làm rõ các vấn đề sau đây: - Làm rõ nguyên tắc vận dụng quan điểm phủ định biện chứng trong giữ gìn và phát huy văn hoá Tày ở Cao Bằng. - Đề xuất một số kiến nghị nhằm giữ gìn, phát huy văn hoá Tày ở Cao Bằng. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của đề tài, quan điểm của phủ định biện chứng rất rộng, trong phạm vi đề tài chúng tôi chỉ xem xét những đặc điểm, tính chất, nguyên tắc chung của quá trình phủ định biện chứng và trên cơ sở hiểu biết về bản chất của phủ định biện chứng, bước đầu vận dụng để giải quyết một số nội dung trong văn hoá tinh thần của dân tộc Tày Cao Bằng như: phong tục tập quán, lễ hội, tín ngưỡng, ma chay, cưới xin ... 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận, luận văn dựa trên cơ sở những nguyên lý biện chứng của chủ nghĩa Mác-Lênin. Dựa trên tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng về văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc. Dựa trên các kết quả nghiên cứu trong các công trình nghiên cứu về văn hoá và bản sắc văn hoá dân tộc ở Việt Nam trong thời gian qua 5.2. Phương pháp nghiên cứu. Luận văn sử dụng các phương pháp phân tích, so sánh, tổng hợp, quy nạp, diễn dịch… 6. Đóng góp và ý nghĩa của luận văn 6.1. Đóng góp của luận văn, góp phần làm sáng tỏ việc vận dụng quan điểm phủ định biện chứng trong giữ gìn, phát huy văn hoá Tày. 6.2. Ý nghĩa của luận văn, luận văn có thể làm tài liệu cho công tác nghiên cứu và giảng dạy ở các tỉnh, trường có nội dung giảng dạy liên quan đến văn hoá Tày. 10 7. Kết cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, tài liệu tham khảo luận văn được chia làm 2 chương, 7 tiết. B- NỘI DUNG CHƯƠNG 1 QUAN ĐIỂM PHỦ ĐỊNH BIỆN CHỨNG MÁC- XÍT VỚI VẤN ĐỀ GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY VĂN HOÁ DÂN TỘC 1.1. Nội dung quan điểm phủ định biện chứng mác-xít–Những nguyên tắc 1.1.1. Nội dung quan điểm phủ định biện chứng Phủ định biện chứng trước hết là sự phủ định, nhưng không phải là tất cả những sự phủ định mà chúng ta vẫn bắt gặp hàng ngày. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định diễn ra do những mâu thuẫn bên trong sự vật, hiện tượng quy định. Vì vậy khi các nhà triết học Hy Lạp cổ đại phát hiện ra và trình bày dưới dạng rất sơ khai và mộc mạc một trong những quy luật biện chứng của sự vận động và phát triển là quy luật mâu thuẫn thì cũng là lúc họ đưa ra những tư tưởng rất sơ khai về phủ định biện chứng của sự phủ định. Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại những phỏng đoán về mâu thuẫn và quy luật mâu thuẫn – một trong những quy luật biện chứng của sự vận động, biến đổi và phát triển, trong đó đã hàm chứa những phỏng đoán về phủ định và biện chứng của sự phủ định. Ngay việc các nhà triết học Hy Lạp cổ đại chỉ xem phủ định như là khâu cuối cùng của quá trình mâu thuẫn và diễn ra khi mặt đối lập này xoá bỏ, huỷ diệt mặt đối lập kia cũng đã gợi mở chiều 11 hướng cho các nhà triết học biện chứng sau này suy nghĩ về nguồn gốc xuất hiện của phủ định. Mặt khác các nhà triết học Hy Lạp cổ đại luôn nhận thức mâu thuẫn trong mối liên hệ với sự sinh thành. Cuộc đấu tranh giữa các mặt trong mâu thuẫn khiến cho sự vật, hiện tượng cũ mất đi nhưng không phải là sự vật, hiện tượng đó mất hoàn toàn. Bởi vì các nhà triết học Hy Lạp cổ đại luôn luôn chú ý đến khởi nguyên và sự tồn tại của khởi nguyên trong cấu tạo và trong qúa trình vận động, biến đổi của sự vật, hiện tượng. Mặc dù họ có những quan điểm khác nhau về hình thức khởi nguyên nhưng lại có sự tương đồng về các đặc tính khởi nguyên, một trong số đó là tính không biến mất hoàn toàn của khởi nguyên trong suốt quá trình vận động và biến đổi của sự vật, hiện tượng. Do đó, khi sự tự phủ định diễn ra thì sự mất đi của sự vật, hiện tượng không đồng nghĩa với sự vật, hiện tượng đó đã bị xoá bỏ hoàn toàn. Song nhà triết học vẫn được xem là người đầu tiên trong lịch sử đã đưa ra những tư tưởng rõ ràng về phủ định biện chứng là Hêghen. Hêghen không những đã đưa ra những tư tưởng rõ ràng về phủ định biện chứng mà còn vận dụng nhận thức đó vào thực hiện những mục đích triết học của ông. Tuy nhiên tư tưởng biện chứng của Hêghen còn nhiều hạn chế do tính chất duy tâm tư biện của triết học Hêghen nói chung. Những hạn chế đó, về sau này, đã được khắc phục một cách xuất sắc trong “Chủ nghĩa duy vật hiện đại” của C. Mác, Ph Ăngghen và V.I.Lê-nin. Trong lịch sử triết học cổ điển Đức mà tiêu biểu là Hêghen, phạm trù phủ định được hình thành từ những tư tưởng của ông về mối liên hệ biện chứng giữa “sự quy định khẳng định”, và “Sự quy định phủ định". Mối liên hệ biện chứng này được xây dựng trên cơ sở xuất phát điểm của triết học Hêghen là sự thống nhất (và cũng là sự đồng nhất). Sự thống nhất trong triết 12 học Hêghen không phải là một thể thống nhất chết. Với vai trò là “Căn cứ” nó là một thể thống nhất sống” [19, tr.149]. “Một thể thống nhất sống” là một thể thống nhất hàm chứa mâu thuẫn biện chứng giữa “Sự quy định khẳng định” và “Sự quy định phủ định” cùng sự tự chuyển hoá của chúng. Sự chuyển hoá này khiến cho “thể thống nhất sống” bị phá vỡ. Khi đó “sự quy định phủ định” tồn tại “một cách che giấu” trong “sự quy định khẳng định sẽ chuyển sang sự “tồn tại của nó”, tức là sự quy định phủ định” sẽ trở thành “một sự quy định khẳng định” mới trong một thể thống nhất mới của quá trình “tư duy đang phản tư”. Mối quan hệ biện chứng giữa “sự quy định khẳng định” và “sự quy định phủ định” cũng là cơ chế hoạt động của hệ thống bộ ba (tam đoạn thức). Hêghen trình bày phép biện chứng của sự phủ định qua cơ chế bộ ba ở nhiều nơi trong hệ thống triết học của ông. Hệ thống bộ ba gồm chính đề, phản đề và hợp đề, trong đó chính đề là “sự quy định khẳng định” còn phản đề là “sự quy định phủ định” giữa những sự quy định này không có sự phân biệt tuyệt đối, trong quá trình tư duy phản tư, phản đề luôn có khuynh hướng phủ định chính đề – là cái khẳng định đầu tiên - để tự chuyển hoá thành một chính đề mới và hình thành nên một tương quan khẳng định – phủ định mới. Đây là một quá trình liên tục, trong mối liên hệ biện chứng giữa chính đề và phản đề. Hợp đề với tính cách là sự thống nhất của chính đề và phản đề phải bao chứa đồng thời trong nó sự tương đồng và sự khác biệt của chính đề và phản đê. Bao chứa ở đây có nghĩa là hoà hợp, hợp nhất không phải là sự sắp đặt như một tổng số. Vì vậy thể thống nhất mới sẽ có trình độ mới và cao hơn về chất so với thể thống nhất cũ. Theo Hêghen, hệ thống bộ ba là một kết cấu liên tục do hợp đề không phải là “một cái thứ ba yên tĩnh” [18, tr. 250]. Tư tưởng của Hêghen về mối quan hệ biện chứng chính đề – phản đề, sự phủ định của phản đế với chính đề là một sự phủ định biện chứng. Chỉ sự 13 phủ định biện chứng mới có khả năng dẫn đến một “thể thống nhất sống” vì chính đề không bị phản đề trong sự phủ định. Qua đó cho thấy tư tưởng của ông có tính cách mạng về biện chứng của sự phủ định và vai trò của nó trong cách thức phát triển của khái niệm.Hêghen đã xây dựng nền móng cho khái niệm của phủ định biện chứng. Song hạn chế của ông là ở chỗ chỉ quan tâm đến sự phát triển tinh thần và cho rằng sự phát triển tinh thần tuyệt đối hay sự tha hoá của tinh thần tuyệt đối sẽ quy định tất cả những sự phát triển còn lại. Như vậy kể cả sự phủ định của phủ định Hêghen đã vạch ra cách thức, khuynh hướng của sự vật, vận động, biến đổi, phát triển, chỉ ra mới liên hệ lôgíc – lịch sử của sự phát triển, nhưng lại mang một “lớp vỏ thần bí” duy tâm khách quan, bởi nó chỉ mô tả sự vận động của tinh thần, của khái niệm. Tuy hệ thống triết học của Hêghen là thần bí tư biện, trừu tượng, ông đã sử dụng phương pháp triết học có tính cách mạng của ông để xây dựng nên một hệ thống triết bảo thủ, nhưng không ai có thể phủ nhận được Hêghen là một nhà biện chứng thiên tài, phủ định trong triết học biện chứng của Hêghen không chỉ là phủ định có bảo tồn và giữ lại nguyên vẹn những yếu tố chân lý trong cái bị phủ định mà còn là một sự lọc bỏ những yếu tố không còn giá trị, đồng thời cải tạo và nâng cao những yếu tố đã được giữ lại. Đúng như nhận định của C.Mác và Ph.Ăng ghen, chúng ta không nên dừng lại ở bộ khung toà nhà triết học (hay hệ thống triết học) của Hêghen để chỉ thấy mặt hạn chế, bảo thủ, phản động mà phải đi sâu vào bên trong bộ khung đó để có thể thấy được những đóng góp triết học to lớn của Hêghen. Về vấn đề này, C.Mác viết như sau: “Tính chất thần bí mà phép biện chứng đã mắc phải ở trong tay Hêghen tuyệt nhiên không ngăn cản Hêghen trở thành người đầu tiên trình bày một cách khái quát và có ý thức những hình thái vận động chung của phép hiện chứng ấy. Ở Hêghen, phép biện chứng bị lộn ngược đầu xuống đất. Chỉ cần dựng nó lại là sẽ phát hiện được cái hạt 14 nhân hợp lý của nó ở đằng sau lớp vỏ thần bí” [21, tr. 35]. Trong quá trình xây dựng chủ nghĩa duy vật hiện đại C.Mác – Ph. Ăng ghen đã thực hiện nhiệm vụ triết học đó. Hai ông coi việc “cải tạo” phép biện chứng duy tâm khách quan của Hêghen, “dựng” nó lại và xây dựng một phép biện chứng mới (Phép biện chứng duy vật) là nhiệm vụ triết học quan trọng của mình. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ này, các ông đã kế thừa, tiếp thu có phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen, đã tìm ra những quy định cơ bản chi phối sự vận động và phát triển của lịch sử. Nguồn gốc duy vật của các quy định và các phạm trù được C.Mác và Ph.Ăngghen chỉ ra và khẳng định trong những luận điểm mang tính chất nguyên lý của “chủ nghĩa duy vật hiện đại” như: “… hiển nhiên là những quá trình tự nhiên và lịch sử … được phản ánh trong bộ não tư duy và tồn tại trong đó”, do vậy người ta không thể đưa ra những quy luật biện chứng từ bên ngoài vào giới tự nhiên mà phải “phát hiện ra chúng trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ trong giới tự nhiên” [21, tr. 25]. Theo những tư tưởng đó, phạm trù phủ định là sản phẩm của tư duy, là kết quả nhận thức thế giới khách quan của con người. Nội dung của phạm trù phủ định là sự phán ánh, là hình ảnh của sự phủ định diễn ra trong tự nhiên và trong lịch sử. Không phải nội dung sự phủ định trong tư duy quy định nội dung sự phủ định diễn ra một cách phổ biến, tất yếu và khách quan trong tự nhiên và trong lịch sử. Trái lại nội dung lịch sử phủ định trong tự nhiên và lịch sử sẽ quy định nội dung sự phủ định trong tư duy. Về phạm trù phủ định trong triết học duy vật biện chứng, trước hết chúng ta phải kể đến luận điểm sau đây của Ph.Ăng ghen “phủ định, trong phép biện chứng, không phải chỉ có ý nghĩa giản đơn là nói: không, hoặc giả là tuyên bố rằng một sự vật không tồn tại, hay phá huỷ sự vật ấy theo một cách nào đó” [36, tr. 201]. Về một phương diện nhất định luận điểm trên là một định nghĩa của triết học duy vật biện chứng với tư cách là một phạm trù 15 triết học. Ph.Ăng ghen đã định nghĩa phủ định “trong phép biện chứng” bằng cách đưa ra nội dung của một loại phủ định khác đối với phủ định “trong phép biện chứng”. Xét theo nội dung, đó chính là sự phủ định hoàn toàn, tuyệt đối một cách siêu hình. Đó là loại phủ định không căn cứ vào quá trình phát triển hiện thực của sự vật, hiện tượng mà chỉ là “một ý kiến từ ngoài áp đặt vào” quá trình đó [33, tr. 845], nên sự phụ định này không có khả năng dẫn đến bất kỳ sự phát triển nào. Từ đó Ph.Ăng ghen đã chỉ rõ những đặc điểm của phủ định “trong phép biện chứng” hay là “sự phủ định trong đó có sự phát triển”. Đó là loại phủ định căn cứ vào quá trình phát triển hiện thực của sự vật, hiện tượng, cho nên đối với mỗi loại sự vật đều có phương thức phủ định riêng biệt. Ph.Ăngghen nói về phương thức phủ định như sau: “không những tôi phải phủ định, mà còn phải xoá bỏ sự phủ định ấy một lần nữa. Cho nên phải thiết lập sự phủ định thứ nhất như thế nào cho sự phủ định thứ hai vẫn sẽ còn hay có thể có được” [36, tr. 201]. Như vậy theo Ph.Ăng ghen, phương thức phủ định gồm hai bước là phủ định và phủ định của phủ định đó. Trong đó, bước phủ định thứ hai (phủ định của phủ định) diễn ra trên cơ sở kết quả của bước phủ định thứ nhất. Để cho bước phủ định thứ hai có thể diễn ra và để cho sự vật, hiện tượng có thể tiếp tục quá trình vận động của nó thì bước phủ định thứ nhất không thể là bước phủ định sạch trơn (phủ định hoàn toàn) mà phải là phủ định biện chứng, tức là sự phủ định trên cơ sở kế thừa. Chính sự kế thừa này sẽ khiến cho sự phủ định không dẫn đến sự diệt vong mà làm cho sự vật, hiện tượng phát triển. Ph.Ăng ghen chia phủ định làm hai lại: “sự phủ định chân chính” và “sự phủ định xấu, không có kết quả”, “sự phủ định xấu không có kết quả chính là sự phủ định thuần tuý, chủ quan, cá nhân là một ý kiến từ ngoài áp đặt vào quá trình phát triển. Còn sự phủ định chân chính là sự phủ định có tính tất yếu và khách quan. Ph. Ăng ghen viết: “Sự phủ định chân chính – 16 phủ định tự nhiên, phủ định lịch sử và phủ định biện chứng, đúng là động lực (xét về mặt hình thức) của mọi sự phát triển: sự phân ra thành những đối lập, sự đấu tranh và giải quyết những mặt đối lập đó, đồng thời trên cơ sở kinh nghiệm đã thu được, lại đi tới một điểm xuất phát ban đầu, nhưng ở một trình độ cao hơn” [36, tr. 845]. Tư tưởng về phủ định biện chứng cũng là vấn đề mà V.I.Lênin rất quan tâm. Vì nó liên quan đến những vấn đề của lý luận nhận thức chân lý, biện chứng của quá trình nhận thức....Trong "Bút ký triết học", V.I.Lênin đã phân biệt khá rõ phủ định siêu hình và phủ định biện chứng V.I.Lênin viết: “Không phải sự phủ định sạch trơn, không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi, không phải sự do dự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trưng và cái bản chất trong phép biện chứng – dĩ nhiên, phép biện chứng bao hàm trong nhân tố phủ định và thậm trí với tính cách và nhân tố quan trọng nhất của nó – không, mà là sự phủ định coi như là vòng khâu của liên hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định, tức là không có một sự do dự nào, không có một sự chiết trung nào” [18, tr. 245]. Như vậy, đặc trưng cơ bản của phủ định biện chứng là sự phủ định có khẳng định chứ không phải là sự phủ định sạch trơn và không hàm chứa bất kỳ một sự khẳng định nào như sự phủ định trong phép siêu hình. Mối liên hệ biện chứng giữa phủ định và khẳng định đã làm nên mối liên hệ giữa các giai đoạn phát triển. Đây là sự khác biệt căn bản của phủ định trong phép biện chứng và phủ định trong phép siêu hình. Phủ định biện chứng và phủ định của phủ định có mối liên hệ chặt chẽ nhưng không đồng nhất. Phủ định biện chứng là yếu tố căn bản và cần thiết cho quá trình phủ định của phủ định . Còn phủ định của phủ định là một quá trình vận động bao gồm một số những phủ định biện chứng , V.I . Lênin đã viết như sau: “sự lập lại ở giai đoạn cao, của một số đặc trưng, đặc tính ete 17 của giai đoạn thấp” và “sự quay trở lại dường như với cái cũ” [19, tr. 240].Vì sự “lặp lại” trong phủ định biện chứng sẽ làm nên mới liên hệ kế thừa có phát triển giữa các giai đoạn phủ định của phủ định. 1.1.2. Những nguyên tắc phương pháp luận của phủ định biện chứng và yêu cầu của chúng trong giữ gìn và phát huy giá trị văn hoá dân tộc Từ việc phân tích ở trên chúng tôi có thể rút ra các nguyên tắc của phủ định biện chứng là : - Phủ định biện chứng là sự tự phủ định là sự phủ định tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo, cho cái mới ra đời thay thế cái cũ. - Phủ định biện chứng là phủ định được thực hiện thông qua giải quyết mâu thuẫn. Vì nguyên nhân của phủ định biện chứng là do những mâu thuẫn nội tại của sự vật, hiện tượng quy định. Sự đấu tranh giữa các mặt đối lập bên trong sự vật đưa đến chuyển hoá lẫn nhau cái mới ra đời thay thế cái cũ. Quá trình đó diễn ra thường xuyên ngoài ý muốn của con người. Nó là yếu tố tất yếu của sự phát triển. - Phủ định biện chứng là sự phủ định mang tính khách quan. Đó là sự tự phủ định của sự vật và hiện tượng không phải do chủ quan của con người quyết định, cũng không phải do thượng đế hay chúa điều khiển. - Phủ định biện chứng là phủ định có tính kế thừa. Đó là kết quả của việc giải quyết mâu thuẫn bên trong sự vật, do đó phủ định biện chứng không thủ tiêu hoàn toàn cái cũ mà chỉ lọc bỏ những yếu tố lạc hậu ngăn cản sự phát triển, giữ lại những yếu tố tích cực còn phù hợp của cái cũ để chuyển sang cái mới. Như vậy giữa cái cũ và cái mới không tuyệt đối tách rời đối lập nhau mà nối liền giai đoạn sau vơí giai đoạn trước của quá trình phát triển bằng cách bảo tồn những mặt tích cực của giai đoạn trước, cải biến và chuyển hoá nó sang giai đoạn sau. Đây là thực chất của sự phát triển, là nội dung cơ bản của phủ định biện chứng. Tính kế thừa thể hiện trong cả tự 18 nhiên, xã hội, tư duy. Chẳng hạn như sự tiến hoá của các loài vật, sự phát triển của các hình thái kinh tế - xã hội, sự phát triển của văn hoá và các tư tưởng triết học bao giờ cũng phải kế thừa những tinh hoa của cái cũ. Trong thực tế, sự phát triển gồm có cả bước tiến lên lẫn thụt lùi, cả tiến bộ lẫn thoái bộ, cả tiến hoá lẫn thoái hoá. Sự phát triển cũng không phải là một con đường thẳng tắp vì đôi khi có những bước quanh co, thụt lùi tạm thời. Ở đây chúng tôi muốn nhấn mạnh sự ra đời của cái mới trên cơ sở cái cũ, nhưng cái mới sẽ có trình độ phát triển cao hơn trình độ phát triển mà cái cũ đạt được và quá trình cái mới phủ định cái cũ để khẳng định sự tồn tại của nó không phải là quá trình đơn giản và nhanh chóng. Sự phát triển thực hiện của cái cũ, quá trình ra đời của cái mới, điều kiện khách quan và chủ quan để cái mới ra đời thay thế cho cái cũ ...tất cả những điều đó sẽ quyết định quá trình tự phủ định cái cũ và khẳng định cái mới là quá trình lâu dài hay mau chóng, phức tạp hay đơn giản. Theo quan điểm của phủ định biện chứng sự tự phủ định là phủ định có kế thừa nó không làm cho sự vật, hiện tượng cũ bị diệt vong hay biến mất hoàn toàn. Nó là sự phủ định có giữ lại, có bảo tồn. Với sự kế thừa đó, sự vật hiện tượng cũ không còn nguyên vẹn nữa. Đó là sự loại bỏ những yếu tố đã trở nên lạc hậu, tiêu cực và không còn phù hợp với sự tồn tại và phát triển của sự vật, hiện tượng mới. Khi vận dụng quan điểm biện chứng mác - xít về phủ định biện chứng về giữ gìn, xây dựng, phát huy văn hoá dân tộc đòi hỏi chúng ta phải biết phân biệt cái mới, cái hợp quy luật, nhưng đồng thời cũng phải thấy được những cái “mới” không phải là kết qủa của phủ định biện chứng mà nó được áp đặt từ ở đâu đó vào. Đồng thời phải chống lại, khắc phục những thái độ phủ định sạch trơn, hoặc những tư tưởng bảo thủ khư khư giữ lấy những cái cũ lỗi thời, kế thừa một cách nguyên xi, cản trở tới sự phát triển văn hoá của đất nước cũng như của từng dân tộc. Vấn đề là ở chỗ 19 phải biết kế thừa có phê phán, có chọn lọc, những cái vốn là tinh hoa văn hoá của nhân loại, sử dụng chúng như là tiền đề cho sự nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn trong sự vận động tiến lên của văn hoá dân tộc. 1.2.Vận dụng nguyên tắc phủ định biện chứng trong giữ gìn và phát huy văn hoá dân tộc 1.2.1.Khái niệm văn hoá Khái niệm văn hoá là khái niệm đa chiều và đa góc cạnh. Cho đến nay người ta đã thống kê được hơn 400 định nghĩa khác nhau về văn hoá. Song các nhà văn hoá đều có chung nhận định đó là văn hoá bao gồm có văn hoá vật chất và văn hoá tinh thần. Trong thế giới mọi sự vật, hiện tượng và quá trình được con người tìm hiểu, nhận thức, tác động và ảnh hưởng trở lại con người điều đó có khía cạnh văn hoá của nó. Vì thế có rất nhiều định nghĩa, nhiều cách tiếp cận văn hoá, coi văn hoá là sự sáng tạo của con người từ cái nhỏ nhất đến cái lớn nhất trên mọi lĩnh vực sinh tồn. Văn hoá không phải là một lĩnh vực riêng biệt, văn hoá là tổng thể nói chung những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, là hiện tượng xã hội vô cùng phong phú và phức tạp luôn mở ra phạm vi rộng lớn cho sự nghiên cứu. Cho nên nắm vững quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về văn hoá sẽ cho ta chìa khoá khám phá thế giới văn hoá đầy bí ẩn. Theo quan điểm của triết học Mác – Lênin thì văn hoá chỉ gắn liền với con người và xã hội loài người, nếu như hoạt động của con vật là hoạt động bản năng thì hoạt động của con người là hoạt động tự giác, hoạt động nhằm để hiểu biết, khám phá và sáng tạo. Con người vừa sáng tạo ra bản thân mình vừa đồng thời sáng tạo ra thế giới văn hoá. Trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” C.Mác đã vạch ra rõ nguồn gốc của văn hoá gắn liền với sự sáng tạo và năng lực của con người, 20 và sự sáng tạo đó bao giờ cũng bắt nguồn từ lao động , lao động sáng tạo ra con người và xã hội loài người. Nếu như loài vật chỉ kiếm sống bằng cách lợi dụng các vật có sẵn trong tự nhiên và nhờ đó xác lập bản chất của chúng thì ngược lại, qua lao động các quan hệ của con người được xác lập, biến đổi kể cả quan hệ với tự nhiên. Cái làm nên bản chất con người, tạo nên sự khác biệt giữa con người với bất kỳ giống, loài nào của tự nhiên chính là “hoạt động sống” của con người. Đó là hoạt động sản xuất vật chất và tái sản xuất ra bản thân con người với tư cách là một thực thể xã hội, thể hiện quan hệ giữa con người với con người, con người với xã hội. “Bản chất của con người không phải là những cái trừu tượng, cố hữu của cá nhân riêng biệt trong tính hiện thực của nó, bản chất con người là tổng hoà những mối quan hệ xã hội” [25, tr. 275]. Theo C.Mác, hoạt động của con người không chỉ thoả mãn nhu cầu ăn , mặc, ở…. mà còn là kết tinh năng lực sáng tạo, là cách sống, phương thức sống, phương thức bộc lộ nhân tính, biểu hiện ra trong toàn bộ sản phẩm vật chất, tinh thần do chính con người sáng tạo ra trong quá trình thực hiện lịch sử – xã hội của mình. Như vậy văn hoá được hình thành và phát triển trên cơ sở hình thành và phát triển của chính con người, con người là tác giả sáng tạo ra văn hoá và cũng là “kẻ” mang các giá trị văn hoá cho nên các giá trị văn hoá có tính kế thừa từ thế hệ này đến thế hệ khác, từ thời đại qua thời đại và có sự giao thoa ảnh hưởng giữa các dân tộc. Khi bàn về văn hoá, V.I.Lênin cho rằng trong xã hội có giai cấp, luôn tồn tại hai nền văn hoá, nền văn hoá của giai cấp thống trị và nền văn hoá của nhân dân lao động. Ông khẳng định tính tất yếu của cách mạng văn hoá, cuộc cách mạng này hết sức khó khăn vì trình độ dân trí và cơ sở hạ tầng lạc hậu, song không phải ngồi chờ lực lượng sản xuất phát triển mới làm cách mạng văn hoá, mà phải chủ động tạo ra các tiền đề căn bản của nền văn hoá 21 cách mạng, yếu tố cơ bản để xây dựng xã hội mới. V.I.Lênin đã xác định tính kế thừa biện chứng của sự phát triển văn hoá, khi ông giải quyết mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong văn hoá . Ông viết “Văn hoá vô sản không phải bỗng nhiên mà có, nó không phải do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản phát minh ra. Đó hoàn toàn là điều ngu ngốc. Văn hoá phải là sự phát triển hợp quy luật của tổng số kiến thức mà loài người đã tích luỹ được dưới ách thống trị của xã hội tư bản, xã hội của bọn địa chủ và xã hội của bọn quan liêu [19, tr. 361]. Ở đây V.I.Lênin đã hiểu văn hoá theo nghĩa rộng, là những giá trị chung nhất, tồn tại và phát triển qua nhiều chế độ xã hội, nhiều giá trị có ý nghĩa. Vì vậy phải biết kế thừa có chọn lọc các giá trị văn hoá truyền thống. Như chúng ta đã biết, tính đến nay đã có tới hàng trăm định nghĩa khác nhau về văn hoá. Trong khi trên thế giới còn bàn cãi rất nhiều về định nghĩa văn hoá thì ở nước ta từ năm 1942, chủ Tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một định nghĩa về văn hoá mang tính chất hệ thống: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, nghệ thuật, những công cụ sinh hoạt hàng ngày về mặc, ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ sáng tạo và phát minh đó tức là văn hoá. Văn hoá là tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng nhu cầu của đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [23, tr. 431]. Trong định nghĩa này, Hồ Chí Minh xác định văn hoá là sự phát triển tất yếu, mang tính xã hội cao là phương thức sống, hoạt động và không ngừng nâng cao theo đà phát triển của xã hội. Sáng tạo ra giá trị nhân văn là nội dung cốt lõi của giá trị văn hoá.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan