Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vận dụng mô hình kim cương của m. porter phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu ...

Tài liệu Vận dụng mô hình kim cương của m. porter phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu của cà phê việt nam

.DOCX
24
11
103

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG BỘ MÔN CHÍNH SÁCH THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ TIỂU LUẬN ĐỀ TÀI VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA M. PORTER PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH XUẤT KHẨU CỦA CÀ PHÊ VIỆT NAM Giảng viên hướng dẫn: Th.S Vũ Hoàng Việt Sinh viên thực hiện: Dương Thị Nhật Anh 0951010352 Vũ Thị Minh Lộc 0951010495 Lê Viết Thanh 0951010205 Nguyễn Thị Kim Thoa 0951010571 Nguyễn Thành Linh 0951010137 Hoàng Hoàng Tuân Lớp: 0951010240 TMA301.1 Hà Nội, Tháng 11 -2011 MỤC LỤC Lời mở đầu........................................................................................................................2 I. Khái quát chung về lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia..................................3 II. Tổng quan ngành cà phê Việt Nam...........................................................................4 III. Phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia ngành hàng cà phê Việt Nam dựa trên mô hình kim cương của M.Porter..........................................................................................5 1. Điều kiện các yếu tố sản xuất.....................................................................................5 1.1. Đầu vào cơ bản:.............................................................................................5 1.2. Đầu vào nâng cao...........................................................................................8 2. Điều kiện nhu cầu trong nước....................................................................................9 2.1. Quy mô và mức độ tăng trưởng.......................................................................9 2.2. Thị hiếu tiêu dùng và phân khúc thị trường....................................................10 3. Các ngành hỗ trợ và có liên quan.............................................................................11 3.1. Các ngành hỗ trợ: gieo trồng, thu mua cà phê, cung ứng bao bì, máy móc đóng gói...............................................................................................................11 3.2. Ngành liên quan: vận tải, kho bãi lưu trữ, phân phối, cải tiến kỹ thuật….........12 4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh.........................................................13 4.1. Mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức doanh nghiệp................................13 4.2. Cạnh tranh ngành.........................................................................................16 5. Chính phủ:................................................................................................................16 6. Cơ hội........................................................................................................................ 19 Kết luận........................................................................................................................... 21 1 Tài liệu tham khảo..........................................................................................................22 2 Lời mở đầu Cà phê là mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, mỗi năm đem về cho nước ta hơn 1 tỷ USD. Trên bình diện Thế giới, Việt Nam là nước đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê và đứng đầu về xuất khẩu cà phê Robusta. Những năm gần đây, ngành cà phê nước ta đã có nhiều khởi sắc, nhất là sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương Mại Thế giới WTO thì sản lượng xuất khẩu đã tăng mạnh. Cà phê Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và đã có những ảnh hưởng nhất định đến thị trường cà phê thế giới. Ngành hàng cà phê cũng được Chính Phủ quan tâm đầu tư về nhiều mặt. Ý thức được ý nghĩa to lớn của việc phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia về mặt hàng nông sản xuất khẩu chủ lực này và vị thế quan trọng của nó trong nền kinh tế Việt Nam, dựa trên công trình nghiên cứu của nhà khoa học, nhà kinh tế học người Mỹ Michael Porter, trong bài tiểu luận này, chúng em vận dung mô hình kim cương của M. Porter vào phân tích lợi thế cạnh tranh xuất khẩu của ngành hàng cà phê của Việt Nam. Trong quá trình nghiên cứu, do còn nhiều hạn chế về mặt kiến thức, thời gian cũng như khả năng hạn hẹp trong việc tiếp cận các nguồn tư liệu, nên bài tiểu luận của chúng em không tránh khỏi những sai sót. Chúng em mong nhân được những góp ý chân thành từ phía thầy giáo để giúp chúng em hoàn thiện bài tiểu luận này. 3 I. Khái quát chung về lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia Lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia do Michael Porter đưa ra vào những năm 1990 trong cuốn sách Lợi thế cạnh tranh quốc gia. Đây là công trình nghiên cứu của một tập thể các nhà khoa học bắt đầu từ năm 1986 ở 12 nước như New Zealand, Bồ Đào Nha, Canada, Thụy Điển, Anh, Thụy Sỹ, Hàn Quốc, Đức, …. Mục đích của lý thuyết này là giải thích tại sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm, hay nói khác đi tại sao lại có những quốc gia có lợi thế cạnh tranh về một số sản phẩm. Theo lý thuyết này, lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của 4 nhóm yếu tố, mối liên kết của 4 nhóm này tạo thành mô hình kim cương. Các nhóm yếu tố đó bao gồm: (1) điều kiện các yếu tố sản xuất, (2) điều kiện về cầu, (3) các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan, (4) chiến lược, cơ cấu và mức độ cạnh tranh của ngành. Các yếu tố này tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia. Ngoài ra, còn có 2 yếu tố khác là chính sách của Chính phủ và cơ hội. Đây là 2 yếu tố có thể tác động đến 4 yếu tố cơ bản kể trên. Khối kim cương của M. Porter Chính phủ Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành Điều kiện về cầu Điều kiện các yếu tố sản xuất Các ngành hỗ trợ và có liên quan 4 Cơ hội Theo Porter thì không một quốc gia nào có thể có khả năng cạnh tranh ở tất cả các ngành hoặc ở hầu hết các ngành. Các quốc gia chỉ thành công trên thương trường kinh doanh quốc tế khi họ có lợi thế cạnh tranh bền vững trong một số ngành nào đó. Ông phê phán các quan điểm chỉ dựa vào lợi thế tuyệt đối và lợi thế so sánh. Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. II. Tổng quan ngành cà phê Việt Nam Cây cà phê được người Pháp đưa vào Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1870. Ngành cà phê thực sự phát triển từ sau năm 1975, đến nay cả nước có khoảng 540.000 ha diện tích trồng cà phê. Trong những năm gần đây, sản lượng cà phê của Việt Nam luôn đạt mức trên 1 triệu tấn/ năm, giá trị tổng sản lượng chiếm khoảng 2% GDP. Ngành cà phê đã có đóng góp không nhỏ vào tăng trưởng kinh tế của đất nước, đồng thời góp phần giải quyết việc làm cho khoảng 700.000 lao động. Kim ngạch xuất khẩu cà phê năm nhiều năm liền đạt trên 1,5 tỷ USD, năm 2010 đạt 1,763 tỷ USD, xếp thứ hai trong số các mặt hàng nông sản xuất khẩu của Việt Nam (sau gạo). Xét trên bình diện thế giới, Việt Nam đứng thứ hai sau Braxin về sản xuất và xuất khẩu cà phê. Hiện nay, cà phê Việt Nam đã có mặt tại 75 quốc gia trên thế giới, thị phần đạt 12% sản lượng thế giới (số liệu năm 2010, nguồn ICO – International Coffee Organization). Riêng đối với cà phê Robusta - cà phê vối (thích hợp với khí hậu vùng nhiệt đới), Việt Nam chiếm tỷ trọng lớn nhất trong tổng lượng cà phê Robusta của thế giới, đạt khoảng 35% năm 2010. Tuy vậy cà phê Robusta là loại có chất lượng và giá thành kém hơn so với cà phê Arabica – cà phê chè (thích hợp với khí hậu mát mẻ, độ cao trên 600m) vốn là thế mạnh của Braxin. 5 Sản lượng cà phê (đơn vị: triệu tấn) Tổng sản lượng Niên vụ Braxin Việt Nam 2006-2007 2007-2008 2,80 2,35 1,17 1,08 2008-2009 2009-2010 2010-2011 3,20 2,69 3,27 1,02 1,11 1,12 Thể giới 7,91 7,31 8,00 2,16 0,03 4,93 0,64 1,14 2,97 1,66 2,43 1,98 2,51 0,024 0,029 0,027 0,035 4,39 4,97 4,46 5,15 0,69 0,77 0,71 0,76 1,06 0,99 1,08 1,09 2,91 3,03 3,14 3,13 Tổng hợp từ Báo cáo tháng 6/2011của FAS/USDA Braxin Việt Nam Arabica Thể giới Cà phê Braxin Việt Nam Robusta Thể giới Cà phê 7,61 8,27 Năng suất bình quân cà phê Việt Nam vào loại cao nhất thế giới, khoảng 1, 7 tấn/ha, thường cao hơn khoảng 0, 7 tấn/ha so với các nước trồng cà phê trên thế giới. Tuy là nước xuất khẩu cà phê lớn thứ hai thế giới nhưng giá trị cà phê mang lại cho người nông dân và xuất khẩu lại không cao do hầu hết cà phê được xuất khẩu dưới dạng nhân thô, không qua chế biến, có đến 98% cà phê chưa rang xay, phương pháp chế biến còn lạc hậu. III. Phân tích lợi thế cạnh tranh quốc gia ngành hàng cà phê Việt Nam dựa trên mô hình kim cương của M.Porter 1. Điều kiện các yếu tố sản xuất 1. Đầu vào cơ bản: Việt Nam có lợi thế cạnh tranh xuất khẩu mặt hàng cà phê và trở thành nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu cà phê, phần lớn là do nước ta có điều kiện các yếu tố sản xuất mặt hàng cà phê vô cùng thuận lợi, trong đó các yếu tố sản xuất cơ bản giữ vai trò tiên quyết tạo ra lợi thế này. Các yếu tố đó bao gồm tài nguyên, khí hậu vị trí địa lí, lao động giản đơn và nguồn vốn tài chính. 1.1.1. Tài nguyên Đất trồng cà phê tốt là đất đỏ bazan, ngoài ra cũng có thể trồng cà phê trên đất đỏ đá vôi, cả trên đất đá hoa cương hay phiến thạch. Đất trồng cà phê cần tương đối bằng 6 phẳng, tốt nhất là độ dốc dưới 8 độ. Về tính chất hoá học, cà phê thích nghi với độ chua khá rộng, pH từ 4, 5 đến 6, 5. Hàm lượng chất hữu cơ cao thường giữ cho đất tơi xốp và có khả năng cung cấp chất dinh dưỡng cao. Nước ta có hơn 3 triệu hecta đất bazan màu mỡ thích hợp trồng cây cà phê, riêng ở khu vực Tây Nguyên có hơn 2 triệu hecta, chiếm hơn 60% diện tích đất bazan cả nước. Việt Nam hiê ̣n có 536.959 ha đất canh tác cà phê, trong đó gần 90% diê ̣n tích cà phê ở khu vực Tây Nguyên. 1.1.2. Khí hậu Cà phê vối phát triển rất tốt ở khí hậu nhiệt đới có nhiệt độ trung bình 22 -26 độ C, lượng mưa 1800 - 2000 mm và phân bố không đều trong 9 – 10 tháng của năm, độ ẩm không khí gần như bão hoà. Việt Nam nằm trong khu vực khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa, chủ yếu phân thành hai mùa mưa, mùa khô rõ rệt. Đặc biệt khu vực Tây Nguyên với khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều tạo điều kiện thuân lợi để cây cà phê phát triển, đảm bảo đầy đủ nhu cầu nước tưới tiêu. Mùa khô kéo dài thuận lợi cho việc phơi sấy bảo quản sản phẩm. Nhưng mặt khác, mùa khô kéo dài cũng gây nên tình trạng thiếu nước tưới. Cà phê chè thường được trồng ở các vùng có độ cao trên mực nước biển từ 1300-1800 m và có 1 mùa khô từ 4-5 tháng, lượng mưa trung bình từ 1500 – 1800 mm, nhiệt độ trung bình từ 22 – 25 độ C. Tuy nhiên ở các vùng Sơn La, Điện Biên của nước ta, người ta vẫn trồng được cà phê chè vì cùng này có vị trí vĩ độ rất cao (22 – 23 vĩ độ Bắc). Điều kiện của địa hình và vĩ độ đã điều chỉnh những điều kiện bất thuận làm cho cây cà phê chè có thể phát triển. 1.1.3. Vị trí địa lí Việt Nam nằm ở khu vực châu Á- Thái Bình Dương, khu vực kinh tế sôi động của thế giới. Nước ta nằm trên đường hàng hải và đường hàng không quốc tế quan trọng với nhiều cảng biển như: cảng Cái Lân (Quảng Ninh), Hải Phòng, Đà Nẵng, Sài Gòn…và các sân bay quốc tế Nội Bài, Đà Nẵng, Tân Sơn Nhất. Các tuyến đường bộ, đường sắt xuyên Á, các đường hàng không nối liền các quốc gia trong khu vực Đông Nam Á và trên thế giới, tạo điều kiện thuận lợi cho nước ta giao lưu với các nước xung quanh. Hơn nữa, 7 nước ta còn là cửa ngõ mở lối ra biển thuận lợi cho các nước: Lào, đông bắc Campuchia, Thái Lan và khu vực tây nam Trung Quốc. Vị trí địa chính trị thuận lợi tạo cơ hội để hướng đến, tiếp cận, và cho phép nước ta tận dụng các nguồn lực bên ngoài, tăng cường buôn bán, hợp tác đầu tư, mở rộng thị trường buôn bán với nước ngoài. 1.1.4. Nguồn nhân lực Theo kết quả điều tra mới nhất năm 2009, dân số của Việt Nam là 85.789.573 người, đứng thứ 3 Đông Nam Á, đứng thứ 13 thế giới. N ữ Nhìn vào tháp dân số trên, chúng ta thấy cơ cấu dân số Việt Nam vẫn là dân số trẻ, tỉ lệ dân số trong độ tuổi lao động chiếm trên 55% dân số. Mỗi năm, xã hội có thêm khoảng 1, 1 triệu lao động mới. Người dân nước ta cần cù chịu khó, lại ham học hỏi, tiếp thu nhanh những tiến bộ khoa học kĩ thuật mới tạo điều kiện thuận lợi để phát triển sản xuất do đặc điểm quá trình canh tác, chăm sóc và thu hoạch cây cà phê đòi hỏi rất nhiều công lao động, trung bình 1 ha cà phê cần từ 300- 400 công lao động, trong đó riêng công thu hái chiếm đến hơn 50%. Dân số đông là một nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế, cung cấp nguồn lao động dồi dào, thị trường tiêu thụ rộng lớn. 1.1.5. Nguồn vốn tài chính 8 Để tạo điều kiện giúp nông dân làm giàu nhờ cây cà phê, chính phủ nước ta đã tạo nhiều điệu kiện thuận lợi để nông dân có thể tiếp cận được nguồn vốn vay để trồng trọt, chủ yếu là thông qua kênh Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn (Agribank). Riêng niên vụ 2009- 2010 vừa qua, doanh số cho vay cà phê của Agribank đạt 11.334 tỷ đồng, trong đó 5.163 tỷ đồng (chiếm 45,6%) dành cho thu mua cà phê; số còn lại dành cho thu mua để xuất khẩu, trồng và chăm sóc, chế biến cà phê. 2. Đầu vào nâng cao 2.1.1. Cơ sở hạ tầng Các công trình giao thông, truyền thông, thủy lợi, điện… được nhà nước đầu tư xây dựng. Mạng lưới giao thông vận tải được nâng cấp, tạo thuận lợi cho công tác chuyên chở sản phẩm từ vùng sản xuất đến nơi tiêu thụ, cũng như vận chuyển nguyên liệu, phân bón, máy móc đến nơi canh tác… Hệ thống thủy lợi cũng được xây dựng đáp ứng nhu cầu tưới tiêu, canh tác của bà con trồng cà phê.Hệ thống thông tin liên lạc, truyền thông, truyền hình, cung cấp nguồn năng lượng… cũng được chú trọng phát triển. 2.1.2. Khoa học kĩ thuật Cùng với việc tăng nhanh về diện tích, việc áp dụng các biện pháp kỹ thuật thâm canh như: chọn giống, bón phân, tưới nước, tạo tán…đã làm năng suất và sản lượng cà phê tăng mạnh. Đồng thời, công nghiệp sơ chế cà phê ở Việt Nam đã có nhiều tiến bộ. Nhiều thiết bị mới chất lượng tốt đã được trang bị trong chế biến. Những năm 1990, năng suất bình quân 1 ha cà phê kinh doanh chỉ đạt từ 8- 9 tạ nhân, đến năm 1994 năng suất bình quân đạt 18, 5 tạ/ha, hiện nay bình quân đạt 25- 28 tạ/ha; cá biệt ở một số vùng sản xuất đã cho năng suất bình quân đạt 35- 40 tạ/ha, vườn cà phê một số hộ gia đình đạt trên 50 tạ/ha. 2.1.3. Lao động trình độ cao Đây là vấn đề rất nan giải đối với việc phát triển cây cà phê của nước ta, do lao động nước ta phần lớn là trình độ thấp và chưa qua đào tạo. Tuy vậy chất lượng lao động đang ngày được nâng cao song song với việc đầu tư công nghệ mới. Yếu tố kinh nghiệm lâu lăm cũng là một thế mạnh của lao động nước ta. 9 2. Điều kiện nhu cầu trong nước 3. Quy mô và mức độ tăng trưởng Là một trong những nước dẫn đầu thế giới về sản xuất và xuất khẩu cà phê lại là quốc gia có dân số đông thứ 13 thế giới nhưng lượng tiêu thụ cà phê trong nước của Việt Nam lại khá khiêm tốn so với các nước sản xuất cà phê khác. Theo báo cáo của Tổ chức Cà phê Quốc tế ICO, lượng cà phê tiêu thụ trên đầu người của Việt Nam năm 2009 chỉ đạt 0,82 kg/người, thấp hơn rất nhiều so với Braxin (5,64kg/người), hay với các nước nhập khẩu cà phê như Hoa Kỳ (4,09 kg/người), EU (4,67kg/người). Lượng cà phê tiêu thụ tại thị trường Việt Nam còn thấp như vậy một phần là do cà phê vẫn chưa thực sự phổ biến trong đời sống hàng ngày của mọi người dân Việt, với một cộng đồng lớn dân cư thì trà xanh mới là thức uống chính hàng ngày. Năm 2010, tiêu thụ cà phê của Việt Nam chỉ chiếm 8,6% tổng sản lượng, trong khi tiêu thụ nội địa của Braxin đạt khoảng 40% tổng sản lượng. Như vậy có thể thấy phần lớn sản lượng cà phê Việt Nam sản xuất đều dùng cho xuất khẩu, lượng tiêu thụ nội địa chưa tương xứng, chưa đủ để tạo tính an toàn cho lượng tiêu thụ cà phê Việt Nam trước những biến động của cầu và giá cà phê thế giới. Tuy nhiên, lượng tiêu thụ cà phê nội địa của Việt Nam đang đạt tốc độ tăng trưởng cao, từ mức 4,5% tổng sản lượng 11,57 triệu bao (1 bao = 60 kg) năm 2002 lên mức 8,6% tổng sản lượng 18,5 triệu bao năm 2010. Đặc biệt, năm 2010 theo báo cáo thị trường tháng 3 của Tổ chức Cà phê Quốc tế ICO, tiêu thụ cà phê tại Việt Nam đạt tốc độ tăng trưởng nhanh nhất thế giới với 31% từ 1,208 triệu bao năm 2009. Cũng trong năm này, tiêu thụ tại Braxin tăng trưởng 4,1% đạt 18,945 triệu bao. Với tốc độ tăng trưởng này, mục tiêu tiêu thụ nội địa đạt 10-15% tổng sản lượng trong những năm tới của Vicofa là khả thi và cần thiết nhằm nâng cao vai trò của thị trường nội địa hướng tới phát triển bền vững ngành cà phê. 10 4. Thị hiếu tiêu dùng và phân khúc thị trường Thị trường tiêu thụ cà phê Việt Nam được chia làm hai phân khúc: cà phê rang xay và cà phê hoà tan. Theo báo cáo của FAS (USDA), lượng tiêu thụ nội địa cà phê rang & nguyên hạt của Việt Nam niên vụ 2009-2010 đạt 1080 nghìn bao, còn lượng tiêu thụ nội địa cà phê hoà tan đạt 120 nghìn bao. Mặt khác theo nghiên cứu của Học viện Marketing Ứng dụng I.A.M, tiêu thụ thị trường nội địa Việt Nam đạt khoảng 61 nghìn tấn/năm, trong đó cà phê hoà tan chiếm 9 nghìn tấn, cà phê rang xay có nhãn hiệu chiếm 35 nghìn tấn, còn lại là cà phê không tên tuổi và nhãn hiệu. Thống kê đo lường tại 6 thành phố lớn (chỉ tính sản phẩm có nhãn hiệu) cho thấy thị phần cà phê hoà tan chiếm 62% về số lượng và 65% về giá trị, so với 38% về số lượng và 35% về giá trị của cà phê rang xay có nhãn hiệu. Mức tăng trưởng tiêu thụ hàng năm của cà phê hoà tan lớn hơn cà phê rang xay. Như vậy có thể thấy người tiêu dùng Việt Nam đang ngày càng hướng nhiều hơn đến cà phê hòa tan, vốn thuận tiện hơn trong việc thưởng thức, tạo nhu cầu thúc đây sản xuất cà phê hoà tan phát triển. Các nhãn hiệu cà phê trên thị trường Việt Nam cũng đang ngày càng đa dạng hơn, chủng loại sản phẩm được đa dạng hóa để đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Bên cạnh các doanh nghiệp nổi tiếng trong nước như Trung Nguyên, Vinacafe, Nestlé, người tiêu dùng Việt Nam cũng bắt đầu làm quen với các chuỗi cửa hàng cà phê thương hiệu nước ngoài như Gloria Jeans, Illy’s. Xét trên khía cạnh khác, theo kết quả điều tra từ 540 gia đình, 60 người uống cà phê tại quán và 40 quán cà phê tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh do Viện Chính sách và chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn thực hiện năm 2009, khách hàng ở độ tuổi thanh niên và vị thành niên có mức tăng tiêu thụ cà phê nhanh nhất, cả về cà phê bột và cà phê hòa tan. Nhóm thanh niên và trung niên có mức độ tiêu dùng cà phê cao nhất. Nhóm tuổi già tăng mức tiêu thụ rất ít và chỉ tăng lượng tiêu thụ cà phê bột. Xét về ngành nghề, những người làm việc nhiều về trí óc và có kỹ năng chuyên môn, kỹ thuật viên tiêu thụ cà phê nhiều nhất. Mức tiêu thụ cũng tăng mạnh ở lao động giản đơn. Điều tra ở trên cho thấy tiềm năng phát triển sản xuất cà phê có chất lượng, mẫu mã phù hợp với giới trẻ, với 11 lao động có trí óc, bên cạnh đó là các loại cà phê giá rẻ, phù hợp khẩu vị của nhóm thu nhập thấp, trình độ học vấn thấp. 3. Các ngành hỗ trợ và có liên quan Phần này chúng em tập trung vào các ngành hỗ trợ và liên quan đối với các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. 5. Các ngành hỗ trợ: gieo trồng, thu mua cà phê, cung ứng bao bì, máy móc đóng gói Đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê, các ngành hỗ trợ là những ngành cung ứng đầu vào cho chuỗi hoạt động sản xuất, kinh doanh như ngành cơ khí thì chế tạo và lắp ráp máy móc để phục vụ chế biến và đóng gói, hay ngành lâm nghiệp trồng cây cà phê để tạo đầu vào chính cho giai đoạn sản xuất sản phẩm cà phê tiêu dùng. Tuy hiện nay, công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam chưa thực sự phát triển để chiếm lợi thế cạnh tranh trên trường quốc tế, nhưng có thể nhận thấy rõ xu hướng phát triển của ngành này đang ngày một củng cố và hoàn thiện hơn. Ví dụ ngành cơ khí chế tạo trong nước đã có thể sản xuất được một số máy móc trong dây chuyền sản xuất cà phê như máy rang, sấy, mà trước đây, toàn bộ máy móc để sản xuất, chế biến cà phê đều phải nhập khẩu. Ni-lon dùng để sản xuất nhãn mác, bao bì, vỏ hộp cũng đã trở thành nguyên phụ liệu quan trọng mà Việt Nam có thể cung ứng được. Các doanh nghiệp thu mua cà phê tươi, hoặc sơ chế đã đóng góp chủ yếu vào hoạt động xuất khẩu cà phê, gần đây, kể từ khi Việt Nam hội nhập và mở cửa, sự xuất hiện nhiều doanh nghiệp nước ngoài tham gia hoạt động thu mua cà phê đã góp phần nâng cao tính cạnh tranh trong ngành, tạo động lực để các doanh nghiệp trong nước tận dụng lợi thế riêng và chủ động hơn. Điều đó được chứng tỏ khi ngày nay, các doanh nghiệp thu mua đang đua nhau đến tận vườn để thu gom và chuyên chở. Chính điều này tạo điều kiện tốt cho các doanh nghiệp xuất khẩu vì đáp ứng kịp thời số lượng và chủ động hơn trong giao dịch hàng hóa. Nói tóm lại, công nghiệp hỗ trợ nói chung trong xuất nhập khẩu cũng như nói riêng về ngành hàng cà phê đã phần nào giảm bớt sự yếu kém, bước đầu tạo tiền đề cho sự phát triển tiếp theo trong thời gian tới. 12 6. Ngành liên quan: vận tải, kho bãi lưu trữ, phân phối, cải tiến kỹ thuật… Có thể nói ngành liên quan đến ngành xuất khẩu cà phê là rất nhiều, song chỉ nói ở đây những ngành tiêu biểu như: Vận tải là công cụ quan trọng đối với bất kỳ ngành hàng xuất khẩu nào, vì vận tải tốt, tiết kiệm chi phí sẽ giúp các doanh nghiệp xuất khẩu kịp thời và chủ động trong điều kiện giao dịch, và hơn nữa là sẽ thu được khoản lợi nhuận cao hơn do chi phí vận tải và kho bãi tiết kiệm, đảm bảo. Khâu phân phối cũng như cung ứng cho sản xuất sản phẩm đều phụ thuộc nhiều vào vận tải. Việt Nam là một nước giáp biển, giao thông rộng khắp và phong phú, nên việc phát triển ngành vận tải đã giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê tiết kiệm được khá nhiều chi phí và vốn, tạo cơ hội để các doanh nghiệp cạnh tranh và giữ uy tín với đối tác. Ở Việt Nam, vận tải bộ đang còn là mỗi lo ngại đối với các doanh nghiệp do hệ thống giao thông còn nhiều bất cập, tuy nhiên vận tải thủy đã và đang dần khẳng định vị thế của mình so với các nước khác. Kho bãi lưu trữ đặt xếp hàng cũng khá quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Tự mỗi doanh nghiệp có thể xây dựng kho bãi lưu trữ hoặc thuê, tuy nhiên, bằng biện pháp hỗ trợ thuế, ngành cà phê đã được ưu đãi nhiều trong vấn đề kho bãi lưu hàng. Ngành công nghệ sinh học cũng là một ngành liên quan, vì những giống cà phê năng suất vẫn luôn được nghiên cứu và phát triển không ngừng nhờ có tiến bộ trong nghiên cứu sinh học, bên cạnh đó, những yếu tố như phân bón, kỹ thuật nuôi trồng cây cà phê, kỹ thuật thu hoạch,… cũng được nghiên cứu và phát triển liên tục. Ở nhiều địa phương trên cả nước, các phòng nghiên cứu và phát triển giống cây trồng nông lâm sản đã được xây dựng và đi vào hoạt động có hiệu quả từ nhiều năm trước đây. Bằng cách đó, cách doanh nghiệp sản xuất cà phê sẽ thu được phần lợi nhuận do tiến bộ khoa học kỹ thuật mang lại, và chính cả những người trồng cà phê cũng thu được nhiều lợi nhuận hơn. Dự án sản xuất giống cà phê, ca cao giai đoạn 2011-2015 của Viện Khoa học kỹ thuật nông lâm nghiệp Tây Nguyên với tổng vốn đầu tư 66,2 tỷ đồng đã được Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phê duyệt. Theo đó, mỗi năm, các hoạt động từ dự án sẽ cung cấp 20 tấn hạt lai đa dòng cà phê vối, 3 tấn hạt giống cà phê chè chất lượng cao, đồng thời cung ứng 2 triệu chồi ghép phục vụ nhu cầu tái canh và trồng mới mỗi năm 13 20.000-22.000 ha cà phê. Đây là yếu tố tích cực góp phần hỗ trợ doanh nghiệp trong nước xây dựng vùng nguyên liệu cà phê. Các ngành liên quan đóng vai trò như một kênh trực tiếp tác động đến định hướng và mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xuất khẩu cà phê. Thông qua các ngành liên quan mà các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê nắm bắt được cơ hội để lựa chọn sản phẩm ưu thế để sản xuất và có sự tác động trở lại đối với các ngành liên quan. 4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh 7. Mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức doanh nghiệp Khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, yếu tố nền tảng của khả năng cạnh tranh quốc gia, chịu sự quyết định của mục tiêu, chiến lược và cách thức tổ chức doanh nghiệp. Chiến lược doanh nghiệp là hệ thống các đường lối và biện pháp phát triển doanh nghiệp, các mục tiêu cần đạt, các nguồn lực phải sử dụng để đạt được các mục tiêu, dự định trong thời hạn của chiến lược. Theo M.Porter, “Chiến lược là việc tạo ra một sự hài hoà giữa các hoạt động của một công ty. Sự thành công của chiến lược chủ yếu dựa vào việc tiến hành tốt nhiều việc… và kết hợp chúng với nhau… cốt lõi của chiến lược là lựa chọn cái chưa được làm.” Sau đây là cái nhìn cụ thể hơn về chiến lược của các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh cà phê Việt Nam. Chiến lược đổi mới công nghệ: để nâng cao giá trị cà phê xuất khẩu, các doanh nghiệp cần cải tiến và đầu tư các thiết bị và công nghệ chế biến tiên tiến. Trước đây, các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh cà phê chủ yếu sử dụng công nghệ chế biến nửa ướt, nửa khô hoặc khô hoàn toàn khiến chất lượng cà phê nhân kém hoặc thất thoát nhiều. Từ năm 2004 trở lại đây, các doanh nghiệp chú trọng hơn đến công nghệ chế biến. Theo báo Đắk Lắk, tính đến năm 2011, trên địa bàn tỉnh Đắk Lắk đã có trên 30 doanh nghiệp áp dụng công nghệ chế biến ướt đối với cà phê, với tổng công suất trên 400000 tấn sản phẩm cà phê nhân/năm. Đơn cử một ví dụ là công ty cà phê Thắng Lợi đã tiên phong trong việc đầu tư hàng chục tỷ đồng để đưa công nghệ chế biến ướt vào hoạt động, đồng thời đầu tư đồng bộ hệ thống sân phơi, nhà kho hoàn chỉnh nên đã góp phần nâng cao chất lượng cà 14 phê xuất khẩu. Sản phẩm cà phê nhân của Công ty luôn được khách hàng Mitsubishi (Nhật Bản) bao tiêu toàn bộ với giá cao hơn thị trường trong nhiều năm liên tục. Bên cạnh công nghệ chế biến cà phê nhân, nhiều doanh nghiệp đã phát triển công nghệ chế biến cà phê hoà tan, tiêu biểu cho loại sản phẩm này là các nhãn hiệu Vinacafe, Nescafé, G7… Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm: đa dạng hoá sản phẩm là cần thiết để đẩy mạnh tiêu thụ trong nước cũng như xuất khẩu sang nước ngoài. Các công ty cà phê chú trọng đến việc tạo ra thị trường mới bằng sản phẩm mới, ví dụ như từ sản phẩm cà phê bột, pha fin thành các sản phẩm giúp người tiêu dùng tiết kiệm thời gian hơn, đó là cà phê hòa tan, pha sẵn; ngoài ra còn có các sản phẩm đóng lon tạo ra những dòng thị trường phù hợp với thị hiếu khi dùng cà phê của khách hàng ở những nơi khác nhau như uống ở các quán cóc, quán cà phê, uống tại nhà, nhân viên văn phòng… Lấy ví dụ cà phê Trung Nguyên, để đáp ứng nhu cần thưởng thức cà phê của các nhóm khách hàng khác nhau, Trung Nguyên đã tạo ra một chuỗi sản phẩm đa dạng thể hiện ở 3 dòng sản phẩm riêng biệt là sản phẩm phổ thông, trung cấp và cao cấp. + Sản phẩm phổ thông: gồm 3 loại Nâu- Sức sống, I-khát vọng, S-Chinh phục + Sản phẩm trung cấp: gồm các sản phẩm: Passiona, Cà phê Sáng tạo, Gourmet Blent, House Blent, Cà phê chế phin, Hạt rang xay… + Sản phẩm cao cấp: gồm Weasel (Cà phê chồn), Diamond Collection, Legendee, Classic Blend Chính sự đa dạng hoá này đã khiến sản phẩm cà phê của Trung Nguyên đến được với mọi phân khúc thị trường, tăng cường sức mạnh thương hiệu doanh nghiệp, một điều mà không nhiều doanh nghiệp thực hiện được. Chiến lược đa dạng hoá sản phẩm này cũng thể hiện chiến lược về giá của doanh nghiệp. Chiến lược liên kết trong ngành: các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh cà phê cần xây dựng mối liên kết với người trồng cà phê cũng như giữa các doanh nghiệp với nhau để nâng cao sức cạnh tranh. Tổng công ty cà phê Việt Nam VINACAFE không chỉ chú trọng khâu thu mua, chế biến mà còn chú trọng đến sản xuất nông nghiệp, hướng tới phát triển nông nghiệp bền vững trên diện tích 37000 ha với các loại giống cà phê cho 15 năng suất cao, trong 5 năm tới tập trung tái canh khoảng 11000 ha để thay thế các vườn cà phê già cỗi tại các đơn vị trực thuộc. Chiến lược quảng cáo, phân phối: khâu quảng cáo, phân phối sản phẩm là khâu vô cùng quan trọng và cũng được các doanh nghiệp rất chú trọng. Các công ty cà phê Việt Nam luôn hỗ trợ các đại lý phân phối sản phẩm của mình về cơ sở vật chất, kỹ thuật, kinh nghiệm phân phối cũng như đầu tư vào quảng cáo trên các phương tiện thông tin đại chúng. Tuy nhiên chưa có nhiều doanh nghiệp có được chiến lược quảng cáo, phân phối thực sự độc đáo. Xét về hướng đi riêng thì phải kể đến việc phân phối thông qua nhượng quyền thương mại của cà phê Trung Nguyên. Năm 1998, cà phê Trung Nguyên xuất hiện ở thành phố Hồ Chí Minh, đến năm 2000 hiện diện tại Hà Nội và lần đầu tiên nhượng quyền thương hiệu đến Singapore. Đây là công ty Việt Nam đầu tiên áp dụng mô hình kinh doanh nhượng quyền thương hiệu trong nước và quốc tế. Hiện nay, Trung Nguyên đã có gần 1000 quán cà phê nhượng quyền trên cả nước và 8 quán ở nước ngoài như Mỹ, Nhật, Singapore, Thái Lan, Trung Quốc, Campuchia, Ba Lan, Ukraina. Chiến lược phát triển thương hiệu: các doanh nghiệp cà phê đã chú trọng phát triển thương hiệu, đưa thương hiệu cà phê Việt Nam đến với bạn bè quốc tế. Nhưng vấn đề bảo vệ thương hiệu vẫn còn nhiều bất cập. Gần đây nhất là vụ việc của cà phê Buôn Ma Thuột. Địa danh “Buon Ma Thuot”, cả tiếng Latin và tiếng Trung, đã bị một doanh nghiệp ở Quảng Đông (Trung Quốc) đăng ký bảo hộ và được cấp chứng nhận bảo hộ số có hiệu lực 10 năm kể từ 14/11/2010. Chủ sở hữu này cũng tiếp tục đăng ký và được bảo hộ logo “Buon Ma Thuot Coffee – 1896” tại Trung Quốc từ 14/6/2011. Trên thực tế, chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột đã được Cục Sở hữu trí tuệ cấp chứng nhận cho tỉnh Đắc Lắc, công nhận bảo hộ quốc gia từ năm 2005. Nhưng từ đó cho đến nay, Đắk Lắk đã chậm trễ trong việc quản lý, sử dụng và đầu tư phát triển nhãn hiệu này. Mãi đến tháng 8/2011, Sở Khoa học và Công nghệ Đắc Lắc mới cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng chỉ dẫn địa lý cà phê Buôn Ma Thuột cho 8 thành viên của Hiệp hội Cà phê Buôn Ma Thuột. Việc đánh mất nhãn hiệu như trên có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng, gây ảnh hưởng không nhỏ đến thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột, thậm chí doanh nghiệp Trung Quốc còn lấy việc bảo hộ nhãn hiệu để ngăn cản việc cà phê Buôn Ma Thuột của ta 16 xuất khẩu sang Trung Quốc. Việc khiếu nại nếu thực hiện được cũng sẽ tốn nhiều thời gian, công sức. Chiến lược xúc tiến thương mại: là rất cần thiết cho xuất khẩu cà phê Việt Nam, các doanh nghiệp chú trọng tìm kiếm thị trường mới, tìm hiểu nhu cầu thị trường, những rào cản thị trường để có biện pháp đối phó với sự hỗ trợ của các trung tâm xúc tiến thương mại. Về cách thức tổ chức doanh nghiệp, các công ty chú trọng xây dựng các tổ chức đoàn thể ngày càng vững mạnh, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao động, đảm bảo có thu nhập ổn định, thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ nhà nước giao cho, đảm bảo an ninh chính trị và góp phần tăng tốc độ phát triển kinh tế trên địa bàn. 8. Cạnh tranh ngành Hiện tại, các doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ và xuất khẩu cà phê của Việt Nam có số lượng không nhỏ, khá đa dạng về sản phẩm, quy mô, tạo sức ép cạnh tranh trong nước, mang lại lợi ích cho ngành. Mặt khác, với việc mở cửa thị trường, các doanh nghiệp nước ngoài với nguồn vốn tài chính hùng hậu đầu tư kinh doanh vào Việt Nam càng xuất hiện nhiều, sức ép cạnh tranh từ các doanh nghiệp này là rất lớn đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải liên kết lại với nhau. Theo xu thế ấy, 20 doanh nghiệp xuất khẩu cà phê chủ lực là thành viên Hiệp hội Cà phê và Ca cao Việt Nam VICOFA đã liên kết thành lập Câu lạc bộ các doanh nghiệp xuất khẩu cà phê hàng đầu Việt Nam nhằm liên kết chặt chẽ hơn trong việc trao đổi kinh nghiệm, phối hợp thống nhất hành động bảo vệ quyền lợi doanh nghiệp, người trồng cà phê. Những liên kết như thế này cần phát triển hơn nữa về số lượng và mức độ nhằm nâng cao thế cạnh tranh của cà phê Việt Nam. 5. Chính phủ: Theo mô hình kim cương, Chính phủ là yếu tố có thể tác động đến lợi thế cạnh tranh quốc gia thông qua 4 nhóm nhân tố xác định lợi thế cạnh tranh đã được bàn đến ở trên. Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã sử dụng vai trò điều hành của mình, có 17 nhiều tác động nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của cà phê nước ta, có thể kể đến như sau: - Định hướng phát triển ngành: Chính phủ và bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đề ra mục tiêu cho từng thời kỳ. Trước thực tiễn cà phê chè được thị trường thế giới ưa chuộng hơn, mức giá cao hơn nhưng lại không phổ biến ở Việt Nam, Chính phủ đề ra chiến lược đầu tư mở rộng trồng cà phê chè, chuyển dịch dần cơ cấu cây cà phê. Tuy nhiên việc thực hiện dự án trồng cà phê chè tại các tỉnh phía Bắc đã không đạt được kết quả như mong muốn. - Ban hành và thực hiện các cơ chế chính sách: Quyết định số 63/2010/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25/10/2010 về chính sách hỗ trợ giảm tổn thất sau thu hoạch đối với nông sản, thuỷ sản. Theo quyết định này, các tổ chức gia đình, hộ cá nhân được Nhà nước hỗ trợ lãi suất cho các khoản vay dài hạn để mua máy móc, thiết bị sản xuất trong nước nhằm giảm tổn thất sau thu hoạch như các loại máy làm đất, trồng, chăm sóc, thu hoạch cà phê, máy sấy, vật liệu cơ bản để làm sân phơi, mức hỗ trợ là 100% lãi suất trong 2 năm đầu, từ năm thứ 3 là 50% lãi suất. Các khoản vay để mua sắm thiết bị chế biến ướt cà phê, các thiết bị xử lý nâng cao phẩm cấp cà phê (steam, đánh bóng ướt…), kho tạm trữ cà phê được áp dụng lãi suất tín dụng đầu tư phát triển. Có thể thấy các chính sách được nêu ra mang lại lợi ích to lớn cho nông dân trồng cà phê, tuy nhiên thông tin về chính sách còn chưa nhanh chóng đến được với bà con, việc chỉ đạo thực hiện, kiểm soát thực hiện còn chưa được chú ý đúng mức dẫn đến những bất cập, nhiêu khê trong thủ tục vay vốn tại các ngân hàng, gây khó khăn cho việc tiếp cận nguồn vốn của nông dân. - Chính sách hỗ trợ trong những thời kì khó khăn: + Trong thời kì 2000-2004, thời kì ngành cà phê thế giới nói chung và ngành cà phê Việt Nam nói riêng chịu sự khủng hoảng nghiêm trọng về giá cả, Chính phủ đã có nhiều quyết định quy định về tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, thực hiện tạm trữ cà phê, miễn giảm thuế đối với người trồng, hỗ trợ lãi suất vay ngân hàng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu cà phê, hỗ trợ tiền cho nhập khẩu giống, khoanh nợ vay ngân hàng 18 thời hạn 3 năm cho người trồng cà phê, thu mua chế biến và xuất khẩu cà phê và tiếp tục cho vay mới. + Niên vụ 2009-2010, đứng trước tình trạng giá cà phê giảm mạnh, Chính phủ đã quyết định hỗ trợ mua tạm trữ 200 nghìn tấn cà phê với mức lãi suất 6%/năm, thời gian được hỗ trợ lãi suất tối đa là 6 tháng từ 15/4 đến 15/10, các ngân hàng cân đối vốn vay cho doanh nghiệp, cơ cấu lại thời hạn nợ cho nông dân. Quyết định này nhằm chặn đà giảm giá và giúp nông dân không bán tháo hàng khi niên vụ thu hoạch 2010 kết thúc. Tuy nhiên, theo nhiều ý kiến, thời điểm triển khai hỗ trợ thu mua tạm trữ cà phê là chậm trễ (khi đó lượng cà phê trong dân hầu như đã cạn kiệt - phần lớn trước đó đã rơi vào tay doanh nghiệp nước ngoài), nguồn vốn vay thu mua tạm trữ cà phê thủ tục còn rườm rà kéo theo việc doanh nghiệp triển khai chậm. - Chính phủ cho phép xây dựng trung tâm mua bán cà phê năm 2005, thành lập sàn giao dịch cà phê điện tử năm 2011, chính là nhằm tạo môi trường kinh tế cung cấp thông tin, cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp kinh doanh cà phê, các hộ nông dân trồng cà phê. Như vậy có thể thấy Chính phủ vẫn thiếu những chính sách đồng bộ quản lý ngành cà phê, như thiếu các chính sách mua tạm trữ cà phê, phát triển hệ thống kho tàng bảo quản cà phê khi sản lượng vào mùa tăng cao, giá giảm; thiếu các chính sách hỗ trợ cho vay mua cà phê theo mùa vụ cho các doanh nghiệp; đặc biệt là chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp phát triển chế biến cà phê tinh, cà phê hòa tan, các sản phẩm từ cà phê… Chính phủ cũng cần có 1 chính sách quản lý rủi ro giá cà phê thích hợp để bảo vệ cho người trông cà phê trước sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các doanh nhiệp tư nhân và nước ngoài, tránh các bẫy đầu cơ. Chính phủ các nước Brazil, Columbia, Guatemala, Costa Rica, Ấn Độ, Nicaragua và Tanzania đều có các chính sách để quản lý rủi ro giá cà phê, hỗ trợ cho nông dân những kiến thức căn bản để phòng hộ trước các biến động xấu của thị trường. Từ cuối năm 2010, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn dưới sự chỉ đạo của Chính phủ đã tiến hành xây dựng dự thảo cơ chế, chính sách nhằm tăng khả năng dự trữ cà phê, đảm bảo xuất khẩu có lợi cho nền kinh tế; kiểm soát giá xuất khẩu cà phê, nhất là 19
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan