Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vận dụng mô hình kim cương của m. porter để phân tích lợi thế cạnh tranh của ngà...

Tài liệu Vận dụng mô hình kim cương của m. porter để phân tích lợi thế cạnh tranh của ngành xuất khẩu gạo thái lan

.DOC
27
813
139

Mô tả:

ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ --------o0o-------- Đề tài: VẬN DỤNG MÔ HÌNH KIM CƯƠNG CỦA M.PORTER ĐỂ PHÂN TÍCH LỢI THẾ CẠNH TRANH CỦA NGÀNH XUẤT KHẨU GẠO THÁI LAN Nhóm thực hiện: 5 Văn Công Mùi Phạm Thị Ngọc Lâm Phạm Thị Kiều Oanh Phan Hà Vi Phạm Thị Hiền Chanthamaly Bounsong Paliya Sengaloun Lớp: TMA301(1-1112).1_LT Giảng viên hướng dẫn: THS. Vũ Hoàng Việt Hà Nội, ngày 8 tháng 11 năm 2011 Bảng phân công nhiệm vụ STT 1 Họ và tên MSV Văn Công Mùi 09510105906 2 Phạm Thị Ngọc Lâm 0951010134 3 Phan Hà Vi 0951020177 4 Phạm Thị Kiều Oanh 0951020204 5 Phạm Thị Hiền 0951010868 Chanthamaly Bounsong 0951010880 Paliya Sengaloun 0751000472 6 7 Nhiệm vụ - Làm phần chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành. - Bổ sung và hoàn thiện phần chính phủ và cơ hội. - Làm phần: điều kiện cầu, bài học cho Việt Nam. - Chỉnh sửa, bổ sung,hoàn thiện, kiểm tra cuối cùng, in và nôp tiểu luận. - Viết phần mở đầu, cở sở lí luận và kết luận cho tiểu luận. - Bổ sung và chỉnh sửa bài tiểu luận - Làm phần: điều kiện các yếu tố sản xuất, mối quan hệ giữa các yếu tố trong mô hình - Mục luc, bìa - Bổ sung và tổng hợp lại toàn bộ bài tiểu luận - Làm phần: các ngành hỗ trợ và có liên quan - Làm phần chính phủ và cơ hội - Làm phần chính phủ và cơ hội 2 MỤC LỤC I. Khái quát chung...................................................................................5 1. Cơ sở lý thuyết.......................................................................................5 2. Tổng quát về Thái Lan..........................................................................6 3. Đôi nét về tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu gạo của Thái Lan....................................................................................................7 II. Các nhóm yếu tố trong mô hình kim cương của M.Porter...............7 1. Điều kiện yếu tố sản xuất......................................................................7 2. Nhu cầu trong nước...............................................................................11 3. Các ngành hỗ trợ và liên quan.............................................................12 4. Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh....................................14 5. Vai trò của Chính phủ..........................................................................16 6. Cơ hội 18 III. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong mô hình kim cương...................18 1. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với điều kiện các yếu tố sản xuất.........................19 2. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với điều kiện cầu...................................................19 3. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với các ngành hỗ trợ và có liên quan.................20 4. Mối quan hệ giữa điều kiện các yếu tố sản xuất với điều kiện cầu..................................................................................20 5. Mối quan hệ giữa điều kiện yếu tố sản xuất với các ngành hỗ trợ và có liên quan..............................................................21 6. Mối quan hệ giữa điều kiện cầu với các ngành hỗ trợ và có liên quan.................................................21 7. Mối quan hệ giữa chính phủ và cơ hội với các yếu tố còn lại..........22 IV. Bài học cho Việt Nam............................................................................23 3 MỞ ĐẦU Hiện nay, tính cạnh tranh của một quốc gia, một ngành kinh tế, hay một sản phẩm là một vấn đề quan tâm hàng đầu của Chính phủ và các ngành công nghiệp khi bước vào tiến trình hội nhập kinh tế khu vực thế giới.Vấn đề này đã được rất nhiều các nhà khoa học nghiên cứu, sơ khai trong các lý thuyết cổ điển và dần hoàn thiện trong các lý thuyết mới. Một trong số đó phải kể tới Michael Porter – cha đẻ của lợi thế cạnh tranh, với lý thuyết lợi thế cạnh tranh quốc gia ( National Competitive Advantage).Đây được xem là lý thuyết tiếp cận thương mại quốc tế toàn diện, đầy đủ nhất, kết hợp được các cách giải thích khác nhau trong các lý thuyết thương mại quốc tế trước đó và đồng thời đưa ra một khái niệm khá quan trọng : lợi thế cạnh tranh quốc gia. Cũng chính vì điểm tiến bộ đó, rất nhiều quốc gia, nhiều ngành kinh tế, nhiều sản phẩm đã vận dụng lý thuyết này để tạo tính cạnh tranh cho mình. Sự cạnh tranh của mặt hàng gạo Thái Lan là một ví dụ điển hình với việc trở thành nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới từ năm 1962, khi Myanmar đánh mất vị trí số một trên thị trường lương thực toàn cầu. Việc nghiên cứu sự vận dụng mô hình kim cương cho mặt hàng gạo Thái là việc làm cần thiết để rút ra bài học quý báu cho Việt Nam, nước có mặt hàng gạo không quá khác biệt về chủng loại và chất lượng so với gạo Thái và cũng là nước xuất khẩu gạo thứ hai sau Thái Lan trên thế giới. Đặc biệt là hiện nay, các chuyên gia Thái Lan và châu Âu nhận định rằng với chính sách bảo hộ giá gạo của Chính phủ Thái Lan sẽ khiến Thái Lan mất vị trí số 1 trong bản đồ xuất khẩu gạo thế giới vào tay Việt Nam. Quá trình nghiên cứu vấn đề được thực hiện qua việc thu thập, phân tích các tài liệu có liên quan đến điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành của mặt hàng gạo Thái , các bài báo, các tác phẩm nghiên cứu của các nhà khoa học trong nước và nước ngoài đã được công bố, các tài liệu, giáo trình môn chính sách thương mại quốc tế, các số liệu thống kê, các nguồn thông tin trên website, các phương tiện thông tin đại chúng… 4 I. 1. Khái quát chung Cơ sở lý thuyết Lợi thế cạnh tranh được hiểu là những nguồn lực, lợi thế của ngành, quốc gia mà nhờ có chúng các doanh nghiệp kinh doanh trên thương trường quốc tế tạo ra một số ưu thế vượt trội hơn, ưu việt hơn so với các đối thủ cạnh tranh trực tiếp. Lợi thế cạnh tranh giúp cho nhiều doanh nghiệp có được “Quyền lực thị trường” để thành công trong kinh doanh và trong cạnh tranh. Lợi thế cạnh tranh quốc gia thường bị hiểu nhầm với lợi thế so sánh. Thực chất lợi thế so sánh chỉ là những điều kiện đặc thù tạo ra ưu thế một khía cạnh nào đó của một quốc gia hoặc ngành kinh doanh của quốc gia đó, như những điều kiện tự nhiên, tài nguyên hay con người. Nguồn nhân công rẻ, tài nguyên dồi dào thường được coi là lợi thế so sánh của các nước đang phát triển. Tuy nhiên đây mới chỉ là cơ sở cho một lợi thế cạnh tranh tốt chứ chưa đủ là một lợi thế cạnh tranh đảm bảo cho sự thành công trên thị trường quốc tế. Lợi thế cạnh tranh phải là khả năng cung cấp giá trị gia tăng cho các đối tượng có liên quan như: khách hàng, nhà đầu tư hoặc các đối tác kinh doanh và tạo giá trị gia tăng cao cho doanh nghiệp. Lý thuyết cạnh tranh quốc gia giải thích tại sao một số quốc gia lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất một số sản phẩm( có lợi thế cạnh tranh một số sản phẩm). Lý thuyết này được xây dựng dựa trên cơ sở lập luận rằng khả năng cạnh tranh của một nền công nghiệp được thể hiện tập trung ở khả năng sáng tạo và đổi mới của ngành.Theo ông, khi thế giới cạnh tranh mang tính chất toàn cầu hóa thì nền tảng cạnh tranh sẽ chuyển dịch từ các lợi thế tuyệt đối hay lợi thế so sánh mà tự nhiên ban cho sang những lợi thế cạnh tranh quốc gia được tạo ra và duy trì vị thế cạnh tranh lâu dài của các doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Theo lý thuyết này lợi thế cạnh tranh quốc gia được thể hiện ở sự liên kết của bốn nhóm yếu tố , tao thành mô hình kim cương ( diamond) theo như sơ đồ sau: 5 Chính phủ Chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành Điều kiện các yếu tố sản xuất Điều kiện về cầu Các ngành hỗ trợ và có liên quan Cơ hội Trong đó, bốn yếu tố tác động qua lại lẫn nhau và hình thành nên khả năng cạnh tranh quốc gia bao gồm: điều kiện các yếu tố sản xuất; điều kiện về cầu; các ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan; chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành. Ngoài ra còn có hai yểu tố khác có thể tác động tới bốn yếu tố cơ bản trên, đó là : chính sách của Chính phủ và cơ hội. Michael Porter cho rằng thành công hay hay thất bại của một quốc gia trong một ngành công nghiệp cạnh tranh quốc tế phụ thuộc vào sự hiện diện và mức độ tinh vi của các nhân tố quyết định trong “mô hình kim cương” và một quốc gia chỉ thành công khi nó khai thác được những thuận lợi và nâng cấp được lợi thế để vượt qua những bất lợi về các nhân tố. Lợi thế cạnh tranh lâu dài chỉ có thể đạt được nhờ đổi mới và nâng cấp liên tục lợi thế cạnh tranh. 2. Tổng qua về Thái Lan Vương quốc Thái Lan (tiếng Thái: ราชอาณาจ ักรไทย Rachaanachakra Thai), thường gọi là Thái Lan, là mộtquốc gia nằm ở vùng Đông Nam Á, phía Bắc giáp Lào và Myanma, phía Đông giáp Lào và Campuchia, phía Nam giáp vịnh Thái Lan và Malaysia, phía Tây giáp Myanma và biển Andaman. Thái Lan là một quốc gia quân chủ lập hiến đứng đầu là vua. Thái Lan có diện tích 513.000 km2 (198.000 dặm vuông) lớn thứ 50 trên thế giới và dân số khoảng 64 triệu người đông thứ 21 trên thế giới. Ngôn ngữ chính thức là tiếng 6 Thái.Từ năm 1985 đến 1995, kinh tế Thái Lan phát triển nhanh và trở thành nước công nghiệp mới trong đó du lịch có những điểm đến nổi tiếng như Pattaya, Băng Cốc và Phuket và xuất khẩu đóng góp quan trọng vào nền kinh tế. 3. Đôi nét về tình hình sản xuất chế biến và xuất khẩu gạo của Thái Lan - Về sản xuất: Thái Lan có 3,7 triệu hộ gia đình, chiếm 66% của 5,6 triệu hộ nông dân trồng lúa trong cả nước; với diện tích trồng lúa khoảng 62-66 triệu rai, đạt sản lượng là 24 – 27,2 triệu tấn thóc/năm, chiếm 4% sản lượng thế giới. 80% diện tích trồng lúa nằm ở khu vực có mưa. - Về chế biến: Thái Lan có khoảng 40.000 nhà máy xay sát thuộc cỡ vừa và nhỏ nằm rải rác ở các vùng nông thôn. - Về thị trường trong nước: Mỗi năm Thái Lan tiêu dùng nội địa khoảng 13,614,2 triệu tấn thóc, trong đó 10-10,3 triệu tấn dùng trong tiêu dùng trực tiếp, 1-1,1 triệu tấn làm giống và chế biến thức ăn gia súc, còn lại để chế biến khác. - Thị trường nước ngoài: Thái Lan có thu nhập từ việc xuất khẩu gạo là 70-80 tỷ Baht ( tương đương 1,583 triệu USD), đứng thứ nhất trên thế giới, chiếm 27% thị phần gạo trên thế giới. Mỗi năm Thái Lan xuất khẩu 5,6-7,5 triệu tấn gạo, trong đó gạo có chất lượng tốt chiếm 56,7%, chất lượng trung bình chiếm 6,6%, gạo chất lượng thấp 18,5%, gạo sấy 28,1%. Dự kiến năm 2004 Thái Lan sẽ xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn gạo. II. Các nhóm yếu tố trong mô hình kim cương của M. Porter 1. Điều kiện các yếu tố sản xuất. Dựa vào lý thuyết về lợi thế cạnh tranh quốc gia của M. Porter,ta có thể giải thích tại sao Thái Lan lại có được vị trí dẫn đầu trong việc sản xuất gạo đồng thời là quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu gạo thông qua việc phân tích nhân tố thứ nhất trong khối kim cương của M.Porter là điều kiện các yếu tố sản xuất. Sự phong phú dồi dào của các yếu tố sản xuất có vai trò nhất định đối với lợi thế cạnh tranh quốc gia, Thái Lan có lợi thế hơn khi sản xuất và xuất khẩu 7 lúa gạo sử dụng nhiều các yếu tố đầu vào mà quốc gia có nhiều. Trước hết phải kể đến nhóm các yếu tố cơ bản bao gồm: đất đai, khí hậu, thủy lợi, giống lúa, phân bón, lao động giản đơn.  Vị trí địa lý Thái Lan nằm trong khu vực Đông Nam Á với diện tích khoảng 514000 km2 trên bề mặt Trái Đất với tổng diện tích đất khô là 511770 km2 và diện tích đất ngập nước là 2230 km2. Thái Lan có hai hệ thống sông chính là sông Chao Phraya và sông Mê Kông ngoài ra còn có sông Wang, Nan, Yom và Ping thuộc hệ thống song Chao Phraya cung cấp nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp. Như vậy, với diện tích rộng lớn đông bằng cùng với hệ thống sông ngòi dẫn nước quanh năm thì Thái Lan là đất nước có vị trí địa lý thuận lợi để sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là với lúa nước. Từ đó tạo ra lợi thế cạnh tranh với các nước lân cận như Việt Nam, Mianma, Ấn Độ…  Đất đai Thái Lan có tổng diện tích đất khoảng 51,4 tiệu ha, trong đó diện tích đất trồng lúa chiếm 9,6 triệu ha mà phần lớn nằm trong khu vực Đông Bắc với diện tích 4,8 triệu ha. Khoảng hai phần năm diện tích của Thái Lan được bao phủ bởi các dãy núi, đồi núi cản trở việc trồng trọt. Tuy nhiên, theo thông tin chi tiết đã được thông qua các cuộc điều tra thì phải có khoảng một phần mười trong số đó được chuyển đổi với mục đích nông nghiệp. Hiện nay, đất canh tác chiếm khoảng 34% diện tích đất trồng trọt, đất trồng cây lâu năm chiếm 6%, đồng cỏ vĩnh viễn là 2%, rừng và đất trồng rừng chiếm 26% còn lại 32% là đất phục vụ mục đích khác. Từ những số liệu trên có thể thấy được phần lớn diện tích đất nông nghiệp ở Thái Lan được sử dụng để trồng lúa. 8  Khí hậu Khí hậu Thái Lan là khí hậu nhiệt đới gió mùa. Thời tiết nóng với nhiệt độ trung bình hàng năm là 28,1 oC ( từ 9,9 – 39,9oC). Lượng mưa trung bình hàng năm tại Bangkok là 1418 mm (từ 870 – 2072 mm), 85,8% tập trung từ tháng 5 đến tháng 10. Thái lan có bốn mùa rõ rệt: Mùa khô kéo dài từ tháng 1 đến tháng 2, mùa nóng từ tháng 3 đến tháng 5, mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 10, mùa mát từ tháng 11 đến tháng 12. Trong đó mưa nhiều nhất (90%) xảy ra vào mùa mưa. Nhiệt độ trung bình của thời tiết Thái Lan cao hơn Việt Nam, nhiệt độ thường từ 32oC vào tháng 12 và lên tới 35oC vào tháng 4 hàng năm. Đây là khí hậu đặc trưng của Đông Nam Á giúp Thái Lan phát triển nông nghiệp các cây nhiệt đới, đặc biệt sản xuất lúa gạo có lợi thế cạnh tranh cao. Thủy lợi Hai hệ thống sông chính của Thái Lan là Chao Phraya và Mê Kông.Hai con sông này cũng hỗ trợ thủy lợi cho nền kinh tế nông nghiệp của Thái Lan. Ngoài hai hệ thống sông lớn còn có một số hệ thống sông và các sông khác từ các vùng đất trong phạm vi biên giới của Thái Lan vào Vịnh Thái Lan và biển Andama.Các lưu vực sông Chao Phraya là con sông có hệ thống thủy lợi lớn nhất ở Thái Lan, bao gồm khoảng 35% đất của quốc gia, và thoát nước có diện tích 157.924 km ². Sông Mê Kông là con sông dài thứ 11 trên thế giới và lớn thứ 12 theo thể tích (xả 475 km3 nước hàng năm). Chiều dài ước tính của sông là 4880 km và tưới tiêu cho gần 810 000 km 2. Mê Kông là hệ thống sông lớn thứ hai sau sông Chao Phraya.   Giống lúa Thái Lan có nguồn gen dồi dào về giống lúa. Ngân hàng gen có hơn 24.000 dòng/giống. Gần 100 giống lúa cải tiến đã được công nhận đưa vào sản xuất. Giống lúa nổi tiếng nhất là KHAO DAWK MALI 105 (HOM MALI) hay còn gọi là HƯƠNG NHÀI (JASMINE) có phẩm chất ngon, mềm và thơm.  Phân bón Hiện nay, phân bón hóa học được sử dụng rộng rãi cho sản xuất lúa gạo ở Thái Lan. Năng suất tối đa nhận được từ từng chủng loại phụ thuộc vào độ màu mỡ của các loại đất. Kết quả cũng cho thấy năng suất tối đa từ đất sét và đất sét 9 trộn lớn hơn so với cát pha sét. Một số thí nghiệm được thực hiện ở Thái Lan hơn 20 năm để nghiên cứu về ảnh hưởng của phân bón hóa học và phân trộn rơm rạ dựa trên năng suất lúa, thấy rằng sản lượng nhiều như nhau cho tất cả các phương pháp điều trị trong ngắn hạn, nhưng phân trộn rơm nếu liên tục áp dụng sẽ mang lại một sự cải thiện dần dần tính chất của đất lúa và tăng năng suất đáng kể. Ngoài ra, một nghiên cứu so sánh các tính chất của đất theo phân trộn rơm rạ và phân bón hóa học được thực hiện trong dài hạn. Đất nhận được phân trộn rơm không chỉ cần có mật độ thấp, mà còn có hàm lượng chất hữu cơ đáng kể.  Lao động phổ thông Thái Lan vốn là một nuớc nông nghiệp truyền thống với dân số nông thôn chiếm khoảng 80% dân số cả nước. Nông nghiệp Thái Lan trong hàng thập kỷ qua có vai trò quan trọng, góp phần tăng trưởng kinh tế, bảo đảm chất lượng cuộc sống cho người dân. Bên cạnh các yếu tố đầu vào cơ bản còn phải kể đến các yếu tố đầu vào cao cấp bao gồm hệ thống hạ tầng và lao động có tay nghề. Các yếu tố này hiện đang là những đầu vào quan trọng nhất giúp ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo tạo được lợi thế cạnh tranh trình độ cao, đó là lợi thế cạnh tranh dựa vào tính chất độc đáo sản phẩm và công nghệ.  Hệ thống hạ tầng Thái Lan khuyến khích nông dân gieo trồng lúa vụ 3 trong năm trên diện tích canh tác có thể thực hiện được, áp dụng các máy móc trang thiết bị khoa học tiên tiến hiện đại thay thế lao động chân tay để góp phần chuyên môn hóa sản xuất làm tăng năng suất lúa trên cùng một diện tích canh tác. Nhà nước Thai Lan có chiến lược trong xây dựng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết đất canh tác trên toàn quốc góp phần nâng cao năng suất lúa và cây trồng trong sản xuất nông nghiệp. Chương trình điện khí hóa nông thôn với việc xây dựng các thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp trên cả nước. Nhằm mục tiêu phát triển dài hạn, Chính phủ Thái Lan có kế hoạch hiện đại hóa ngành nông nghiệp, đồng thời thúc đẩy sản xuất lương thực thự phẩm (đặc biệt là lúa gạo), 10 các nguồn năng lượng thay thế và áp dụng các chính sách mới để cải thiện hiệu quả sự dụng đất trong cả nước.  Lao động có tay nghề Để thúc đẩy sự phát triển bền vững nền nông nghiệp, Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: Tăng cường vai trò các cá nhân và các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp; đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp học và các hoạt động chuyên môn trong. lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội cho nông dân, giải quyết tốt vấn đề nợ trong nông nghiệp; giảm nguy cơ rủi ro và thiết lập hệ thống bảo đảm rủi ro cho nông dân. Vì vậy, nông dân chuyên nghiệp tăng 19,5% trong tổng số nông dân trong năm 2004 Tóm lại xét về khía cạnh điều kiện các yếu tố sản xuất thì Thái Lan không chỉ tận dụng tốt những ưu đãi của tự nhiên như là những yếu tố cơ bản mà còn tự trang bị, nâng cao những yếu tố đầu vào cao cấp. Điều này một phần lý giải cho những lợi thế của ngành lúa gạo Thái Lan trên trường quốc tế. 2. Nhu cầu trong nước Thông qua các tác động tĩnh và động nhu cầu trong nước xác định mức đầu tư, tốc độ và động cơ đổi mới của các doanh nghiệp trong nước. Ba khía cạnh của nhu cầu trong nước có ảnh hưởng lớn tới lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp là: bản chất của nhu cầu, dung lượng và mô hình tăng trưởng của nhu cầu và cơ chế lan truyền nhu cầu trong nước ra các thị trường quốc tế. Với mặt hàng gạo, đây là một loại lương thực thiết yếu trong cuộc sống người dân Thái Lan. Cơm-loại thức ăn được nấu ra từ gạo là thức ăn hàng ngày không thể thiếu được trong bữa cơm của người Thái. Vì vậy nhu cầu nội địa luôn ở mức cao. Dù giá gạo có tăng cao thì người dân Thái Lan cũng sẽ không dừng được việc tiêu dung mặt hàng chuyển ngay lập tức sang tiêu dung mặt hang khác được mà chỉ có thể tiêu dung mặt hang gạo với số lượng thấp hơn thôi. Mặt hàng gạo là mặt hàng thiết yếu trong cuộc sống nên mức độ đòi hỏi của người dân về mặt hàng này cũng dễ tính. Nhưng cuộc sống ngày càng phát triển, 11 đời sống người dân Thái cũng không ngừng nâng cao và xu hướng muốn “ăn ngon mặc đẹp” là điều đương nhiên. Mong muốn được ăn những loại gạo ngon hơn là điều bình thường và điều đấy sẽ tạp áp lực hơn cho các nhà quản lý, nghiên cứu tìm ra những loại giống lúa mới ngon hơn đạt hiệu quả cao hơn để áp dụng trong trồng trọt, sản xuất. 3. Ngành công nghiệp hỗ trợ và có liên quan  Chọn tạo giống Việc cải tạo giống lúa đã được nông dân bản xứ thực hiện qua nhiều thế kỷ do họ đã trồng nhiều giống địa phương trên cùng một lô ruộng cho phép sự lai tạp tạo ra một dạng cây mới, rồi chọn lọc cẩn thận những con lai tốt nhất để gieo trồng trong vụ sau. Năm 1907, cuộc đấu xảo giống lúa đầu tiên được tiến hành tại Thái Lan đã thúc đẩy công tác chọn tạo giống lúa. Năm 1916, trại thí nghiệm lúa đầu tiên được thành lập và chương trình lai tạo giống cũng như các công tác nghiên cứu mọi mặt đã được thiết lập. Hiện nay, công tác chọn tạo giống lúa là một trong những nhiệm vụ chính của Phòng Nghiên cứu & Phát triển Lúa và 27 Trung tâm Nghiên cứu Lúa trực thuộc. Phòng Nghiên cứu & Phát triển Lúa cũng chịu trách nhiệm sản xuất 2500 tấn hạt giống lúa nguyên chủng hàng năm Quy trình sản xuất lúa giống để cung cấp cho người nông dân như sau: 12 KHU VỰC NHÀ NƯỚC - Phòng Nghiên cứu & phát triển lúa - Các trường ĐH -Các viện Nghiên cứu Phòng Nghiên cứu & Phát triển lúa KHU VỰC TƯ NHÂN Chọn tạo giống Công ty/nhà sản xuất lúa giống Hạt giống siêu nguyên chủng HẠT Giống lai Hạt giống nguyên chủng Giống óp GIỐN G NÔNG DÂN Phòng lúa giống - Phòng Lúa giống - Phòng Khuyến nông & Khuếch trương Lúa gạo - Sở Khuếch trương Hợp tác xã Hạt giống đăng kí Hạt giống thương mại TỰ ĐỂ DÀNH Hạt giống xác nhận NÔNG DÂN NÔNG DÂN  Thủy lợi và phân bón Theo bộ trưởng nông nghiệp Thai Lan Somsak Thepsuthin: “mở rộng hệ thống tưới tiêu và phục hối độ màu mỡ của đất là phương tiên then chốt để đạt được những mục tiêu trên”. Bộ nông nghiệp Thái Lan đã quyết định chi 2 tỉ baht cho những dự án tưới tiêu nhằm đẩy mạnh sản lượng lúa ở những vùng thiếu nước và cho nông dân vay 10 tỉ để nuôi gia cầm. Việc nuôi gia cầm có thể giảm giá thành sản xuất lúa vì phân gia cầm có thể thay thế phân hóa học. Công nghiệp chế biến, công nghiệp dich vụ và sản xuất đồ gia dụng Về lĩnh vực công nghiệp phục vụ nông nghiệp, Chính phủ Thái Lan đã tập trung phát triển các ngành mũi nhọn, như: thúc đẩy mạnh mẽ công nghiệp chế biến nông sản cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Một trong những chính sách đem lại thành công cho ngành công, nông nghiệp nông thôn của Thái Lan đó là, Thái Lan đã chủ động mở cửa thị trường khi thích hợp. Thái Lan đã có nhiều chương trình xúc tiến đầu tư, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào liên  13 doanh với các nhà sản xuất trong nước, để phát triển ngành công nghiệp chế biến thực phẩm, thông qua việc mở cửa cho các quốc gia dù lớn hay nhỏ vào đầu tư kinh doanh tại Thái Lan. Chính phủ Thái Lan là người đại diện, thương lượng với các nước, để các doanh nghiệp của họ đạt được những lợi thế cạnh tranh trong xuất khẩu thực phẩm chế biến. Bên cạnh đó, Thái Lan còn có chính sách trợ cấp ban đầu cho các nhà máy chế biến và đầu tư trực tiếp vào cơ sở hạ tầng như: cảng kho lạnh, sàn đấu giá, đầu tư vào nghiên cứu và phát triển; xúc tiến công nghiệp và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ. Không những thế ngành công nghiệp dịch vụ như vận tải, đóng gói bao bì và bảo hiểm cũng góp phần thúc đẩy xuất khẩu gạo ra thị trường nước ngoài để sản phẩm đến tay người tiêu dùng mà vẫn giữ được chất lượng tốt, hơn nữa còn giúp các doanh nghiệp gánh được những tổn thất khi sự cố phát sinh trong quá trình vận chuyển nhờ mua bảo hiểm cho phương tiện vận tải và hàng hóa. Những đồ gia dụng không thể thiếu đem lại bát cơm ngon trong mỗi gia đình phải kể đến là nồi cơm điện và bát đĩa. Đây là những mặt hàng liên quan và thúc đẩy sự phát triển của ngành nông nghiệp sản xuất lúa gạo ở Thái Lan. Không chỉ vậy mặt hàng đồ gia dụng cũng được người tiêu dùng trong nước và ngoài nước ưa chuộng nhờ mẫu mã đẹp, nhiều tính năng hiện đại và sử dụng được lâu năm. 4. Chiến lược, môi trường cạnh tranh Thái Lan liên tục dẫn đầu thế giới về lượng gạo xuất khẩu. Song, các nhà xuất khẩu Thái Lan vẫn đang xây dựng nhiều chiến lược cạnh tranh với các nước xuất khẩu gạo khác trong đó có Việt Nam, Ấn Độ, Pakistan... Bằng cách tìm giải pháp nhằm hạ chi phí, giảm giá thành sản xuất lúa , sản xuất với năng suất và chất lượng câo hơn.Theo đó, sản lượng gạo trong 5 năm tới sẽ được nâng từ 25,8 triệu tấn/ năm lên 33 triệu tấn/ năm.  Vai trò của Hiệp Hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan (gọi tắt là hiệp hội) là một tổ chức nhằm giúp đỡ và ủng hộ các công ty và nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan. Nhiệm vụ chính của hiệp hội là nghiên cứu và thu thập dữ liệu và thông tin liên quan đến xuất khẩu gạo trên thế giới và thường xuyên cung cấp cho các thành viên của hiệp hội. Do tính chất thời sự thay đổi nhanh chóng của thị trường gạo, 14 các nhà kinh doanh gạo Thái Lan rất cần cập nhật thông tin ở mọi thời điểm về thị trường mua bán lúa gạo trong nước và tất cả các nước trên thế giới nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Chức năng khác của hiệp hội là trung tâm của cả khối tư nhân và nhà nước về xuất khẩu gạo. Hiệp hội đề xuất những vấn đề có liên quan đến thương mại lúa gạo giúp tăng hiệu quả cạnh tranh xuất khẩu hoặc kiến nghị Chính phủ giải quyết những vấn đề còn tồn tại. Bên cạnh đó, bộ phận quản lý của Nhà nước Thái Lan sẽ cùng thảo luận với hiệp hội trước khi chính phủ đề ra chính sách hoặc quy định về thương mại lúa gạo. Hiệp hội chủ trương tạo sự hợp tác giữa các nhà xuất khẩu trong nước hơn là tranh đấu vì quyền lợi riêng hay cạnh tranh không lành mạnh. Hiệp hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan cũng có sự hợp tác, trao đổi với các hiệp hội nhà xuất khẩu ở các nước khác, trong đó có Hiệp hội Lương thực Việt Nam.  Đa dạng hóa, tập trung vào chất lượng Trong quá khứ khủng hoảng lương thực hiếm khi xảy ra. Nhưng trong tương lai rất có thể khủng hoảng lương thực xảy ra thường xuyên hơn. Điều này có thể do nhiều nguyên nhân: chiến tranh, thiên tai, biểu tình/đình công quy mô lớn kéo dài hoặc do giá nhiên liệu tăng ảnh hưởng đến sản xuất lúa gạo. Ngoài ra, nông dân có xu hướng gieo trồng những loại cây khác thay thế lúa để sản xuất năng lượng sinh học, do cho thu nhập cao hơn lúa. một số nước nhập khẩu như Malaysia đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn bằng cách tăng diện tích trồng lúa. Một số nước khác đầu tư tiền bạc để mua nhiều đất trồng lúa hơn. Vì thế Thái Lan duy trì vị trí nước đứng hàng đầu xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới bằng cách cải thiện và phát triển chất lượng lúa gạo ngày càng tốt hơn. Thái Lan tăng cường đa dạng hóa các sản phẩm gạo và mẫu mã bao bì đóng gói. Thái Lan thường xuất khẩu rất đa dạng các mặt hàng gạo sau đây: gạo thơm trắng Thái Lan (Hommali, Jasmine rice), gạo trắng Thái, gạo tấm trắng Thái, gạo nếp trắng Thái, gạo nếp đen Thái, gạo đỏ Thái, gạo đồ Thái (Thai Parboiled Rice), gạo lức Thái, gạo lức thơm Thái. Trong đó, gạo trắng hạt dài Thái Lan thường có các phẩm cấp gạo sau đây: 100% phẩm cấp B, 5%, 10%, 15%, 25%, 35% tấm, 100% tấm A 1 cực siêu hạng, và 100% tấm A 1 siêu hạng. Loại gạo hạt dài gồm các sản phẩm như: loại 100% gạo không chọn lựa hạt (không dùng máy để tách hạt khác màu), 5%, 10% và loại 15% tấm không chọn lựa hạt... 15  Giảm chi phí Việc giảm chi phí nói chung giúp các nhà xuất khẩu gạo của Thái Lan dễ dàng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Thái Lan luôn đổi mới và gia tăng hiệu quả xuất khẩu vì họ ý thức rằng các nước khác cũng phát triển chiến lược để cạnh tranh với gạo Thái Lan trên thị trường thế giới. Trong những năm gần đây, cuộc khủng hoảng lương thực dẫn đến sản xuất lương thực thế giới không ổn định và giá gạo tăng cao hơn trước đây. Kết quả là nhiều nước khác cũng muốn gia tăng gieo trồng lúa gạo cho xuất khẩu. Vì thế Thái Lan nhấn mạnh sự phát triển một cách nghiêm ngặt chiến lược của mình để duy trì vị trí nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới.  Mở rộng thị trường Chính phủ Thái cũng nỗ lực mở rộng thị trường tiêu thụ gạo của mình bằng cách cử các phái đoàn thương mại sang những thị trường mới như Senegal, Ghana, Tunisia, các Tiểu Vương quốc Arập Thống nhất và Trung Quốc. Các thị trường này rất tin tưởng vào tiêu chuẩn và chất lượng gạo Thái, và hầu hết họ đều đã tăng nhập khẩu gạo Thái Lan.  Nghiên cứu chọn giống, quy hoạch vùng gieo trồng Thái Lan duy trì vị trí nước đứng hàng đầu xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới bằng cách cải thiện và phát triển chất lượng lúa gạo ngày càng tốt hơn. Quan tâm đầu tư nhiều hơn cho nghiên cứu chọn tạo giống lúa là một trong những ưu tiên hàng đầu. Và Thái Lan cũng xác định rõ ràng chiến lược quy hoạch các vùng gieo trồng các loại lúa chất lượng khác nhau nhằm đáp ứng các nhu cầu khác nhau của khách hàng. Từ đó, Thái Lan tăng khả năng cạnh tranh và kích thích khách hàng lựa chọn loại gạo đặc biệt và độc nhất của họ để nhập khẩu cho nhu cầu tiêu thụ của người dân ở nhiều nước trên thế giới. 5. Vai trò của Chính phủ Chính phủ Thái Lan can thiệp thị trường lúa gạo lần đầu tiên là sau khi kết thúc chiến tranh thế giới làn thứ hai, khi bắt đầu thực hiện thuế xuất khẩu.Với sự phát triển trên thị trường gạo thế giới và nền kinh tế nội địa, chính sách sản xuất 16 và xuất khẩu lúa gạo đã bị thay đổi trong thập kỷ qua. Sau khi gia nhập WTO vào đầu năm 1980, Thái Lan bãi bỏ thuế xuất khẩu và mở cửa thị trường, tự do hóa trong chính sách xuất khẩu gạo. Và chính sách đấy hoàn toàn đúng đắn khi bây giờ Thái Lan đã trở thành cường quốc xuất khẩu gạo trên thế giới. Để thúc đẩy nền sản xuất và xuất khẩu gạo phát triển bền vững Thái Lan đã áp dụng một số chiến lược như: đầu tư cho sản xuất và chế biến gạo, đưa ra nhiều chính sách hạn ngạch và xuất khẩu gạo, các ưu đãi về giá, về thị trường...; áp dụng nhiều tiến bộ trong khoa học kĩ thuật vào trong sản xuất, chế biến, đẩy mạnh việc nâng cao chất lượng mặt hàng gạo trong xuất khẩu. Giữa năm 2007 và 2011, sáu chiến lược phát triển bền vững được thực hiện. Các chiến lược liên quan đến mọi khía cạnh của ngành lúa gạo trong nước bao gồm sản xuất, người nông dân, nâng cao chất lượng, phát triển sản phẩm và tiếp thị. Tiếp thị ở nước ngoài cũng được chú trọng kèm theo chiến lược để tạo ra giá trị và hậu cần phát triển. Nhà nước Thái Lan luôn quan tâm đến việc lập kế hoạch chiến lược trong xây dựng cơ sở hạ tầng và phân bố hợp lý các công trình thủy lợi lớn, phục vụ cho nông nghiệp. Hệ thống thủy lợi, bảo đảm tưới tiêu cho hầu hết diện tích đất canh tác trên toàn quốc, góp phần nâng cao năng suất lúa. Chương trình điệm khí hóa nông thôn với việc xây dựng các trạm thủy điện vừa và nhỏ được triển khai rộng khắp cả nước. Chính phủ khuyến khích, hỗ trợ thành lập các trung tâm nghiên cứu, ứng dụng các tiến bộ về khoa học-kỹ thuật trong nông nghiệp, đặc biệt chú trọng đến việc chuyển đổi giống cây trồng nhất là các lạo giống lúa mới có ưu thế, phù hợp với từng vùng thổ nhưỡng. Kiên trì tuyên truyền, vận động người dân học hỏi, nâng cao kiến thức, kỹ năng trong sản xuất lúa; tăng cường công tác bảo hiểm xã hội, giải quyết tốt vấn đề về vốn và nợ, thiết lập các hệ thống đảm bảo rủi ro cho nông dân để nông dân yên tâm sản xuất mà không phải mang nỗi lo thường trực vì “ được mùa mất giá, được giá mất mùa” hoặc đầu ra không ổn định. Gạo của Thái Lan có uy tín trên thị trường xuất khẩu, do nông dân chỉ trồng một số giống lúa có chất lượng, được đăng ký rõ ràng, dù năng suất không cao. Để bảo hộ gạo trong nước, Bộ Thương mại Thái Lan có quy trình kiểm tra rất khắt khe chất lượng gạo trước khi nhập kho, hầu tránh tình trạng thương lái mua gạo ở nước khác giá rẻ, mua về để bán giá cao lấy chênh lệch. 17 Để đạt được mục tiêu nói trên, Bộ Thương mại Thái Lan đã thành lập 4 tiểu ban chuyên trách, gồm Tiểu ban về tiêu chí thóc gạo; Tiểu ban quảng bá và thúc đẩy tiếp thị; Tiểu ban thông tin về gạo và Tiểu ban chiến lược thị trường. Hiện nay Chính phủ của đảng Pheu Thái đã áp dụng chương trình can thiệp mua lúa gạo từ các nhà sản xuất tại 31 tỉnh thành từ ngày 7/10 . Những người trực tiếp sản xuất ra lúa gạo ở vùng nông thôn Thái Lan vui mừng trước chính sách mới. Những người nông dân Thái Lan không chỉ ủng hộ việc tăng thu nhập mà cả chính sách thúc đẩy kinh tế, họ tin rằng những chính sách này là phần thưởng đối với giới lao động chân chính và mang lại lợi ích không nhỏ cho thị trường lao động của nước nhà. 6. Cơ hội Gạo là nguồn cung cấp năng lượng thiết yếu cho cơ thể. Cơm – 1 loại thức ăn được làm ra từ gạo là thức ăn gần như hàng ngày của người dân khu vực Đông Nam Á và Đông Á. Có khoảng 2 tỉ người ở châu Á dùng gạo và các chế phẩm từ gạo để bổ sung 60% tới 70% nguồn năng lượng hàng ngày cho cơ thể. Thị trường lương thực và gạo là gia tăng ở mọi thời đại, bởi vì sự gia tăng dân số thế giới hàng năm.. Hơn nữa khi mà dân số thế giới đạt 7 tỷ vào cuối tháng 10/2011 , LHQ cũng đang dự đoán con số này sẽ đạt mức 8 tỷ vào năm 2025 và 10 tỷ vào năm 2083 thì nhu cầu về lương thực dặc biệt là gạo hay thị trường cho gạo Thái Lan.Ta là vô cùng lớn. Có thể thấy rõ nhu cầu về gạo lớn nhất là ở các nước châu Á như: Trung Quốc, Ấn Độ, Philippin, Malaysia, Iran, Iraq,...và một số nước ở khu vực khác như: Tanzania, Nigeria,… Trên thế giới biến đổi khí hậu với những tác động nghiêm trọng và không thể dự đoán hết được của nó đang gây ra nhiều thiệt hại nặng nề cho nền nông nghiệp toàn cầu. Cùng với đó là sự thu hẹp về diện tích gieo trồng ở nhiều nước do nhiễm mặn, xa mạc hóa hay mất đất cho những cây trồng khác hiệu quả hơn về kinh tế hoặc lấy mặt bằng cho công nghiệp xây dựng. Khi đó lương thực, đặc biệt là lúa gạo lại càng là vấn đề nóng bỏng trên phạm vi toàn cầu. III. Mối quan hệ giữa các yếu tố trong mô hình kim cương Trong quá trình phân tích cụ thể từng yếu tố cấu thành mô hình kim cương, chúng ta có thể thấy rằng Thái lan là quốc gia có đầy đủ các thế mạnh cũng như các điều kiện cần thiết để nắm giữ vị trí đứng đầu thế giới về xuất 18 khẩu lúa gạo. Tuy nhiên các yếu tố đó không phải là tồn tại độc lập, tách biệt với nhau mà chúng có mối quan hệ chặt chẽ từng đôi một để làm nên mạng lưới kim cương vững chắc, các yếu tố tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau giúp cho ngành sản xuất lúa gạo nói riêng và ngành sản xuất nông nghiệp nói chung của Thái Lan phát triển bền vững. Có thể minh chứng điều đó qua những phân tích sau: 1. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với điều kiện các yếu tố sản xuất Ngày nay, một số nước như Malaysia, Ấn Độ, Việt Nam đang cố gắng sản xuất nhiều lúa gạo hơn bằng cách dựa vào các yếu tố sản xuất nổi bật của nước mình để cạnh tranh ngôi vị đứng đầu xuất khẩu gạo trên thị trường thế giới. Tuy nhiên, với chiến lược đa dạng hóa, tập trung vào chất lượng, Thái Lan không áp dụng cách tăng diện tích trồng lúa như Malaysia hay đầu tư tiền bạc để mua nhiều đất trồng lúa hơn mà tập chung chủ yếu vào cải thiện và phát triển chất lượng yếu tố đầu vào là giống lúa giúp nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường nhờ việc cung cấp nhiều mặt hàng lúa gạo. Cụ thể là Thái Lan đã chú trọng chọn tạo ra các giống lúa thơm ngon như: gạo thơm trắng Thái Lan (Hommali, Jasmine rice), gạo trắng Thái, gạo tấm trắng Thái, gạo nếp trắng Thái, gạo nếp đen Thái, gạo đỏ Thái, gạo đồ Thái (Thai Parboiled Rice), gạo lức Thái, gạo lức thơm Thái. Bên cạnh đó, Hiệp Hội các nhà xuất khẩu gạo Thái Lan cũng thường xuyên đề xuất và kiến nghị với Chính phủ giải quyết những vấn đề còn tồn tại về các yếu tố sản xuất như phân bón, thủy lợi, cơ sở hạ tầng giúp tăng năng suất cây trồng. 2. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với điều kiện cầu Hiểu rõ được nhu cầu của người tiêu dùng trong nước luôn ở mức độ cao cũng như mong muốn của người Thái được ăn những loại gạo ngon hơn với đầy đủ hàm lượng dinh dưỡng, Chính phủ Thái Lan đã không ngừng triển khai các chiến lược nghiên cứu tìm ra các loại giống lúa mới ngon hơn, đạt hiệu quả cao hơn để áp dụng trong trồng trọt, sản xuất. Người tiêu dùng trong nước luôn được ưu tiên sử dụng các loại gạo có chất lượng hàng đầu và khi nhu cầu trong nước đã được đáp ứng đầy đủ thì Chính phủ mới tiến tới mở rộng thị trường xuất khẩu lúa gạo dư thừa ra thị trường nước ngoài. Phải nói rằng sản lượng lúa gạo ở Thái 19 Lan là vô cùng lớn, không chỉ cung cấp đầy đủ nguồn lương thực cho khoảng 64 triệu người mà Thái Lan còn hướng việc cung cấp lúa gạo ra thế giới ra thị trường Châu Âu, Châu Mỹ và Châu Á với số lượng 5,6 – 5,7 triệu tấn gạo mỗi năm trong đó chất lượng tốt chiếm 56,7 %, chất lượng trung bình chiếm 6,6%. Những con số này đã phần nào phản ảnh được vị thế chiếm lĩnh hàng đầu cũng như lợi thế cạnh tranh của Thái Lan. 3. Mối quan hệ giữa chiến lược, cơ cấu và môi trường cạnh tranh ngành với các ngành hỗ trợ và có liên quan Chiến lược của quốc gia không chỉ tập trung vào các yếu tố đầu vào hay nhu cầu trong nước mà còn tập trung vào các ngành hỗ trợ và liên quan. Như đã phân tích, để phát triển ngành sản xuất lúa gạo không thể thiếu được các ngành hỗ trợ và liên quan, cũng chính vì lí do đó mà chính phủ đã đưa ra các chiến lược để nâng cao các ngành hỗ trợ như chọn tạo giống, sản xuất phân bón, khí tượng thủy văn và công nghiệp chế biến thực phẩm. Có thể đưa ra một trường hợp cụ thể là hiện nay Phòng Lúa giống và 23 Trung tâm Lúa giống chịu trách nhiệm sản xuất khoảng 100.000 tấn lúa giống hàng năm. Mặt khác,muốn tạo được môi trường cạnh tranh với các quốc gia cần phải hạ thấp giá thành của sản phẩm ở mức hợp lý nói cách khác là giảm chi phí sản xuất. Các doanh nghiệp sản xuất những yếu tố đầu vào cần đưa ra nhiều giải pháp như nâng cao chất lượng đầu tư, thay đổi công nghệ, bổ sung thiết bị hiện đại nhằm giảm tiêu hao năng lượng, đồng thời nâng cao kỹ năng quản lý cho cán bộ quản lý sản xuất bằng cách đào tạo những kỹ năng, công cụ quản lý sản xuất cần thiết, phù hợp với trình độ, năng lực cán bộ quản lý, hơn nữa doanh nghiệp cần mạnh dạn áp dụng một số phương pháp quản lý đơn giản, hiệu quả từ đó sẽ giảm chi phí sản xuất. 4. Mối quan hệ giữa điều kiện các yếu tố sản xuất với điều kiện cầu Do ngành sản xuất lúa gạo có quy mô lớn cùng tốc độ phát triển nhanh, cầu trong nước về mặt hàng này rất cao phải đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng của khách hàng, hơn nữa thị hiếu của người dân muốn sự dụng các loại gạo có chất lượng tốt, thơm ngon và có hàm lượng chất dinh dưỡng cao vì vậy các yếu tố đầu vào về giống lúa phải tăng cả về số lượng lẫn chất lượng, phân bón phải được đáp ứng đẩy đủ để cây lúa phát triển tốt cho năng suất cao và chất lượng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan