Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ lực của việt nam sau khi gia nhập wto...

Tài liệu Vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ lực của việt nam sau khi gia nhập wto

.PDF
47
466
99

Mô tả:

Vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO
Đề tài nghiên cứu khoa học Đề tài: Vấn đề xuất khẩu 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam sau khi gia nhập WTO A. PHẦN MỞ ĐẦU Việt Nam nằm ở một vị trí có điều kiện thuận lợi để sản xuất và xuất khẩu nông sản. Các mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam đã đóng góp rất lớn vào giá trị xuất khẩu hàng hóa và thu ngoại tệ cho đất nước. Sau 4 năm gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO ngành nông nghiệp Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể đóng góp vào nền kinh tế quốc dân, bên cạnh đó còn một số hạn chế và thách thức đối với ngành nông nghiệp Việt Nam nói chung và các sản phẩm chủ lực trong xuất khẩu từ Nông nghiệp nói riêng. Đóng góp to lớn vào giá trị xuất khẩu của cả nước thì cần nhắc tới 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam như: Gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, chè và hạt điều. 1. Lý do chọn đề tài: Việt Nam là nước đang phát triển đi lên từ một nước nông nghiệp lạc hậu, trình độ thấp. Dựa vào điều kiện tự nhiên thuận lợi để phát triển sản xuất nông nghiệp tham gia vào thị trường quốc tế. Trước kia với chế độ tập trung quan liêu bao cấp, thị trường Việt Nam chỉ gói gọn thị trường trong nước, nền kinh tế đình trệ, dần dần đâm vào khủng hoảng và suy thoái. Với sự lãnh đạo tài tình của Đảng cộng sản Việt Nam đã tìm ra con đường đúng đắn mở rộng thị trường ngoài nước để giao lưu, học hỏi và trao đổi sản phẩm, đẩy mạnh quá trình phát triển của sản xuất. Nông nghiệp không nằm ngoài sự vận động đó. Sản phẩm nông nghiệp Việt Nam nổi tiếng trên trường quốc tế vì giá rẻ và sản phẩm thủ công chiếm tỉ trọng lớn, chất dinh dưỡng được đảm bảo,.. Tuy nhiên các mặt hàng nông sản của Việt Nam khi tham gia vào thị trường quốc tế không chỉ gặp những thuận lợi nhất định mà còn gặp rất nhiều khó khăn. Để nghiên cứu sâu hơn về các mặt hàng nông sản Việt Nam chúng tôi quyết định thực hiện đề tài này nhằm mục đích nhận biết rõ những thuận lợi và khó khăn của các mặt hàng nông sản Việt Nam vốn là thế mạnh của kinh tế cả nước để từ đó Nhà nước và cơ quan chức năng có những điều chỉnh phù hợp để nâng cao năng suất cũng như giá trị sản lượng nông sản xuất khẩu thu lại nhiều lợi ích cho đất nước. Là sinh viên chuyên ngành Kinh tế nông nghiệp và phát triển nông thôn nhóm chúng tôi quyết định làm đề tài này để tìm hiểu sâu thêm và củng cố thêm kiến thức đã thu thập được. Đó là mục đích để thực hiện nghiên cứu đề tài này. ĐH Kinh tế Quốc dân 1 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học 2. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn và lý luận về công tác xuất khẩu nông sản Việt Nam ra thị trường quốc tế sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, từ đó tìm ra những thuận lợi khó khăn của 6 mặt hàng nông sản chủ lực để tìm cách hạn chế khó khăn và tận dụng cơ hội để nâng cao giá trị xuất khẩu và góp phần tăng trưởng kinh tế đất nước. 3. Nhiệm vụ nghiên cứu: Phân tích cơ sở lý luận để làm rõ các quan điểm, nhận định, tiên đoán của các nhà kinh tế về vấn đề xuất khẩu của Việt Nam khi tham gia nhập WTO. Phân tích những thuận lợi, khó khăn của 6 mặt hàng nông sản chủ lực của Việt Nam khi tham gia xuất khẩu. Đề xuất một số giải pháp và kết luận cần thiết khi thực hiện đề tài. 4. Đối tượng nghiên cứu: Đối tượng nghiên cứu là những bài báo, đề tài của các tác giả nói về tình hình xuất khẩu nông sản Việt Nam, tập trung nghiên cứu các bài viết về 6 nông sản chủ lực nêu trên. 5. Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu thị trường xuất khẩu của 6 mặt hàng nông sản chủ lực: gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, chè, điều của Việt Nam kể từ khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, tức từ ngày 7/11/2006. 6. Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp thống kê Phương pháp thu thập số liệu Phương pháp phân tích Phương pháp quan sát,.. Dựa vào các số liệu thu thập được phân tích vấn đề từ đó tìm ra những kết luận cần thiết để giải quyết vấn đề. ĐH Kinh tế Quốc dân 2 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học B. NỘI DUNG CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN Trong một nền kinh tế mở thì hoạt động xuất nhập khẩu là không thể thiếu được và đóng một vai trò quan trọng ảnh hưởng to lớn đến tăng trưởng của một nước Xuất khẩu, trong lý luận thương mại quốc tế là việc bán hàng hoá và dịch vụ cho nước ngoài, trong cách tính toán cán cân thanh toán quốc tế theo IMF là việc bán hàng hóa cho nước ngoài. (theo điều 28, mục 1, chương 2 luật thương mại Việt Nam 2005) xuất khẩu hàng hóa là việc hàng hóa được đưa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc đưa vào khu vực đặc biệt nằm trên lãnh thổ việt nam được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật Trong tính toán tổng cầu,xuất khẩu được coi là nhu cầu bên ngoài, đối với những nền kinh tế mà cầu nội địa yếu, thì xuất khẩu có ý nghĩa quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế. Chính vì thế, nhiều nước đang phát triển theo đuổi chiến lược công nghiệp hoá hướng vào xuất khẩu Việt Nam là một nước có tiềm năng về xuất khẩu nông sản.Tuy nhiên ,lại chưa phát huy được hết ưu thế đó của mình. Sự gia nhập vào tổ chức thương mại vừa là cơ hội lớn vừa là thách thức không nhỏ cho nền kinh tế Việt Nam trong hoạt động xuất nhập khẩu.Nếu chúng ta không nghiêm khắc nhìn lại và khắc phục thì những ưu thế về thị trường hoa quả sẽ không còn nữa. Các nước láng giềng của Việt Nam như Trung Quốc ,Thái Lan…vừa là thị trường của ta vừa là đối thủ mạnh cạnh tranh với ta trên thị trường này.Họ đã có rất nhiều thay đổi trong các chính sách để thích nghi trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ hiện nay, đặc biệt là trong “sân chơi” WTO Tìm hiểu một chút về WTO Tên đầy đủ là: World Trade Organization WTO – Hiệp hội thương mại thế giới là sân chơi chung cho thị trường toàn cầu. Là Tổ chức thương mại lớn nhất hành tinh điều chỉnh những hoạt động buôn bán đa phương mang tính chất tương đối tự do, công bằng và tuân thủ những luật lệ rõ ràng. Là Tổ chức Quốc tế duy nhất quản lý luật lệ giữa các quốc gia trong thương mại quốc tế, đó là những hiệp định đã và đang tiếp tục được đàm phán và ký kết giữa các quốc gia hoặc lãnh thổ quan thuế thành viên. • Những thuận lợi và khó khăn của Việt Nam khi gia nhập WTO Thuận lợi không nhiều ĐH Kinh tế Quốc dân 3 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Đầu tư nước ngoài sẽ gia tăng trong lĩnh vực nông nghiệp, đem vào công nghệ mới, tiên tiến để thúc đẩy ngành chế biến nông sản, nhờ đó giúp mở mang những vùng đất hoang hóa, sản xuất những sản phẩm nông nghiệp độc đáo mà những công ty này đang có thị trường, đưa hàng nông sản Việt Nam ra thị trường thế giới nhiều hơn sau. Khi Việt Nam gia nhập WTO, những lợi ích tiềm năng như mở rộng thị trường cho những mặt hàng xuất khẩu truyền thống nông nghiệp và thủy sản, đồng thời chúng ta có cơ hội tiếp cận cơ chế giải quyết tranh chấp của WTO (về lâu dài) giúp tránh được những vụ kiện vô lý như cá tra - cá ba sa giữa Việt Nam và Mỹ. Một khi ngành nông nghiệp đứng vững trên sân chơi WTO thì kinh tế nông nghiệp trở thành động lực chính thúc đẩy công cuộc xóa đói giảm nghèo. Lúc đó, nông nghiệp là chìa khóa tạo ra sự ổn định và phát triển vùng nông thôn. Trong bối cảnh đó, ngành nông nghiệp có thêm nhiều cơ hội phát triển Cùng với những ưu thế sẵn có của nông sản Việt Nam, việc gia nhập WTO tiếp tục tạo đà thuận lợi cho xuất khẩu nông sản. Bên cạnh những bạn hàng truyền thống, hầu hết các ngành hàng xuất khẩu trong năm nay đều tiếp nhận thêm những bạn hàng mới. Nếu như nhiều năm trước đây, xuất khẩu cao su của Việt Nam chủ yếu tập trung vào thị trường Trung Quốc thì năm qua đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Từ đầu năm đến nay sản lượng cao su xuất khẩu sang Trung Quốc giảm chỉ còn khoảng 59%, trong khi xuất sang các thị trường khác như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia, Đức lại tăng đáng kể. Đặc biệt, sản lượng cao su xuất sang thị trường Malaixia trong năm nay đã tăng 3 lần so với năm trước và đây được đánh giá là thị trường chiến lược của cao su Việt Nam trong tương lai. Với ngành chè, những nỗ lực cải thiện chất lượng chè Việt Nam sau khi gia nhập WTO còn mang lại kết quả rõ nét hơn. Theo Hiệp hội hội Chè Việt nam, sau những nỗ lực của ngành chè trong việc đầu tư phát triển các cơ sở công nghiệp chế biến chè theo quy hoạch, đồng thời tổ chức lại ngành chè theo hướng từng bước hiện đại hoá, tăng nhanh tỷ lệ các sản phẩm chè tinh chế, có chất lượng cao và đa dạng hoá sản phẩm, năm nay giá chè xuất khẩu của Việt Nam đã được cải thiện đáng kể với mức tăng khoảng 25%, tương ứng mức tăng 270-280 USD/tấn. • Thách thức quá lớn Khó khăn về trình độ phát triển Mặc dù đã trải qua gần 20 năm mở cửa và đổi mới, nhưng hiện nay, Việt Nam vẫn là nước đang phát triển ở trình độ thấp. Gần 80% dân số vẫn sống dựa vào nông nghiệp, nền kinh tế thị trường đang trong giai đoạn hình thành và còn nhiều ảnh hưởng của thời kinh tế tập trung bao cấp. Tình trạng độc quyền vẫn tồn tại khá nặng nề trong một số lĩnh vực, nhất là tài chính, ngân hàng, điện, bưu chính viễn thông; khả năng cạnh tranh của ĐH Kinh tế Quốc dân 4 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học doanh nghiệp còn rất thấp; hệ thống pháp luật hiện hành chưa đáp ứng các yêu cầu của hội nhập… Tất cả các yếu tố ấy làm cho tiến trình hoàn tất các thủ tục và đáp ứng các điều kiện tham gia WTO của ta chậm trễ. Những yêu cầu về mở cửa thị trường do các thành viên WTO đưa ra rất cao, trong khi Việt Nam chỉ đủ sức đưa ra những cam kết thấp Bất lợi của người đi sau Việc gia nhập WTO sau 148 nước, trong đó có những nước tiềm năng xuất khẩu lớn như Thái Lan, Trung Quốc… càng làm tăng sự bất lợi của Việt Nam. Việc Trung Quốc trở thành thành viên chính thức của WTO năm 2001 đã khiến Việt Nam khó khăn hơn trong việc cạnh tranh với hàng hóa Trung Quốc vốn đang tràn ngập thị trường thế giới với giá rẻ. Việt Nam và Trung Quốc vốn tương đối giống nhau về trình độ kinh tế cũng như các mặt hàng xuất khẩu. Xuất khẩu chủ lực của Việt Nam có bốn sản phẩm giống của Trung Quốc, đó là hàng dệt may, giày dép, gốm sứ và hàng điện tử. Cả Việt Nam và Trung Quốc đều có mục tiêu là xuất sang các thị trường Nhật, ASEAN, EU, Mỹ. Là thành viên của WTO, Trung Quốc được hưởng những mức thuế ưu đãi khi xuất sang các nước này, do vậy cuộc cạnh tranh sẽ ngày càng trở nên gay gắt. Cạnh tranh với các nước phát triển và đang phát triển Gia nhập WTO nghĩa là tham gia một sân chơi bình đẳng. Nhiều nước đang phát triển có cùng trình độ như Việt Nam, có các chủng loại hàng hóa, dịch vụ tương tự như chúng ta, nhưng họ đã gia nhập WTO trước và đã được hưởng một số ưu đãi. Việt Nam sẽ là đối thủ cạnh tranh với các nước đang phát triển khác về hàng xuất khẩu vào các thị trường lớn như Mỹ, EU… Để duy trì lợi thế cạnh tranh, các nước này không muốn chúng ta có những điều kiện ưu đãi hơn họ khi chúng ta gia nhập WTO. Vì vậy, trong quá trình đàm phán đa phương và song phương, Việt Nam cần khẳng định quyết tâm tham gia một sân chơi bình đẳng, tôn trọng lợi ích của các quốc gia khác, đặc biệt là với các đối tác có tiềm năng xung đột cạnh tranh nhưng đồng thời phải thuyết phục để họ hiểu thực trạng kinh tế Việt Nam và có những nhân nhượng thỏa đáng. Khi gia nhập WTO, Việt Nam cũng sẽ phải cạnh tranh với các nước đã phát triển, nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp mà Việt Nam có thế mạnh. Việt Nam mong muốn giữ nguyên mức trợ cấp xuất khẩu như hiện nay và dần dần giảm xuống phù hợp với các điều khoản của WTO. Thế nhưng, tại một số nước phát triển, nông sản vẫn tiếp tục được trợ giá và rõ ràng hàng nông sản Việt Nam xuất sang các nước phát triển sẽ khó cạnh tranh được với hàng nông sản nội địa vốn vẫn đang được các nước này bảo hộ. Mâu thuẫn giữa năng lực thực thi và năng lực cam kết ĐH Kinh tế Quốc dân 5 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Để tham gia WTO, Việt Nam không những phải hoàn thiện khung luật pháp đáp ứng điều kiện của một nước thành viên mà còn phải nghiêm túc thực hiện cam kết đó. Để đáp ứng các yêu cầu trên, Chính phủ Việt Nam đã đề ra Chương trình xây dựng luật pháp để gia nhập WTO với hai phần: luật phục vụ nghĩa vụ của các nước thành viên WTO (bắt buộc) như: Luật về an toàn thực phẩm: suốt trong quá trình sản xuất, trái cây và rau quả Việt Nam phải có Chứng chỉ “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt” (Good Agricultural Practices, GAP) để chứng minh mặt hàng này luôn an toàn vệ sinh. Luật về chất lượng: mặt hàng nông sản Việt Nam phải cần rất nhiều chứng chỉ, chẳng hạn như chứng chỉ xác nhận nguồn gốc giống (chứng chỉ xác nhận giống không thuộc loại cây biến đổi gen, GMO), chứng chỉ báo cáo chất lượng (hàm lượng protein, chống oxy hóa, vitamine, đồng bộ về giống, độ chín, kích cỡ và màu sắc)... để chứng minh mặt hàng có chất lượng cao và bổ dưỡng. Luật về số lượng: lượng hàng hóa lưu hành trong thị trường nông sản thế giới ngày nay vừa lớn về số (trăm tấn, ngàn tấn, vạn tấn), vừa đồng bộ (giống, kích cỡ, màu sắc, bao bì) và chính xác về thời gian giao hàng (đúng ngày quy định hoặc thứ Tư mỗi tuần, tuần đầu mỗi tháng...). Luật về giá cả: để yểm trợ cho cạnh tranh, giá cả trở nên một yếu tố quyết định. Đây là một thứ “luật bất thành văn” của bất cứ một cơ sở sản xuất hay một quốc gia nào trên thế giới muốn tham dự cuộc chơi. Nông dân Việt Nam phải hết sức quan tâm đến điểm này để mặt hàng luôn có giá rẻ - vốn là một lợi thế của Việt Nam trong mấy năm qua. Trong bốn luật chơi kể trên, cái khó nhất cho nông nghiệp Việt Nam hiện nay là chu trình “nông nghiệp an toàn” hay “nông nghiệp tốt”, GAP. Đây là một chương trình kiểm tra an toàn thực phẩm xuyên suốt từ A đến Z của dây chuyền sản xuất, bắt đầu từ khâu chuẩn bị nông trại, canh tác đến khâu thu hoạch, sau thu hoạch, tồn trữ, kể cả những yếu tố liên quan đến sản xuất như môi trường, các chất hóa học và thuốc bảo vệ thực vật, bao bì và ngay cả điều kiện làm việc và phúc lợi của người làm việc trong nông trại. Như vậy, chu trình nông nghiệp an toàn GAP là một bộ hồ sơ trình bày công nghệ sản xuất của nông trại đồng thời cũng là bộ hồ sơ ghi chép chi tiết những hoạt động của nông trại đó. Một số các nước ASEAN như Malaysia, Thái Lan, Singapore và Indonesia tuy có biên soạn chương trình GAP cho mình, nhưng việc xuất khẩu rau quả và trái cây của họ vẫn không thuận lợi hơn vì những chu trình này đã không đáp ứng các đòi hỏi khắt khe của thị trường châu Âu, Hoa Kỳ và Nhật Bản - là những thị trường vùng ôn đới có điều kiện khí hậu, khoa học kỹ thuật nông nghiệp và văn hóa ẩm thực khác biệt. ĐH Kinh tế Quốc dân 6 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Cam kết khi gia nhập WTO không cho phép Chính phủ Việt Nam trợ cấp xuất khẩu. Tuy nhiên, Chính phủ được phép trợ cấp khuyến nông và phục vụ phát triển nông nghiệp. Vậy thì xây dựng chiến lược phát triển mạnh ngành trái cây, rau quả và hoa; nhanh chóng hoàn thành chu trình nông nghiệp an toàn VietGAP; và dấy lên một phong trào tập huấn VietGAP đều khắp cho nông dân mới là trợ cấp WTO đúng kiểu nhất để Chính phủ giúp nông dân tham gia vào một cuộc chơi tuy hào hứng nhưng đầy bất trắc rủi ro. Việt Nam hứa sẽ tuân thủ các cam kết của mình ngay sau khi gia nhập WTO cho dù các cam kết này có thể mâu thuẫn với pháp luật hiện hành. Tuy vậy, việc thực thi các cam kết là khó vì yêu cầu của các nước rất cao trong khi hệ thống pháp luật của ta chưa hoàn chỉnh, nhiều quy định mới được thông qua, hoặc mới ban hành nhưng chưa được áp dụng trong thực tiễn. Theo Hiệp định về các khía cạnh sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mại (TRIPs) của WTO, các nước thành viên phải có hệ thống bảo vệ bản quyền, bằng phát minh, sáng chế, nhãn mác hàng hóa… rất nghiêm ngặt. Thế nhưng, ở nước ta, việc sản xuất hàng giả, hàng nhái, ăn cắp bản quyền, mẫu mã… vẫn diễn ra tràn lan và chưa được giải quyết triệt để. Tình hình trên làm cho các doanh nghiệp Việt Nam khó có thể cạnh tranh bình đẳng và đúng luật trên thị trường thế giới. ĐH Kinh tế Quốc dân 7 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU 6 MẶT HÀNG NÔNG SẢN CHỦ LỰC 1. Gạo Mặt hàng nông sản nước ta nhìn chung có sức cạnh tranh trên thị trường trong nước và thị trường quốc tế. Trong 15 nhóm hàng xuất khẩu chủ lực thì có hơn một nửa là hàng nông sản, bao gồm: gạo, cà phê, nhân điều, hồ tiêu, cao su,, chè, rau quả, lạc nhân. Một số mặt hàng xét về quy mô có thể tác động đến thị trường và giá cả trên thế giới như gạo, cà phê Robusta, hồ tiêu, cao su, nhân điều. Sau ba năm gia nhập WTO, mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức nhưng nông sản Việt Nam cũng đạt được nhiều thành tựu đáng kể. Trong các mặt hàng nông sản thì gạo chiếm tỷ trọng cao nhất, gạo không những góp phần ổn định tình hình lương thực trong nước mà còn chiếm tỷ lệ cao trong sản lượng lương thực thế giới. Mặt hàng này đã đem lại cho nền kinh tế Việt Nam nguồn ngoại tệ tương đối cao đồng thời góp phần làm tăng vị thế của Việt Nam trong thị trường thế giới. Điều đó cho thấy mặt hàng lúa gạo đóng vai trò rất quan trọng trong đời sống người dân Việt Nam cũng như trong công cuộc phát triển kinh tế Việt Nam. Trong nhiều năm, Việt Nam luôn là nước xuất khẩu gạo lớn đứng thứ 2 trên thế giới, có sức cạnh tranh mạnh mẽ với các cường quốc sản xuất lúa gạo như Thái Lan và Ấn Độ. 1.1 Thành tựu sau ba năm gia nhập WTO Năm 2007 Năm 2007, cả nước đã xuất khẩu được 4,54 triệu tấn gạo với kim ngạch 1,47 tỷ USD, giảm 0,64% về lượng nhưng tăng 15,2% về trị giá so với năm 2006. Đơn giá xuất khẩu trung bình đạt cao nhất từ trước tới nay, đạt trung bình 324 USD/tấn, tăng 20,44% so với giá xuất khẩu trung bình năm 2006 và tăng 22,72% so với giá xuất khẩu trung bình năm 2005. Về chủng loại Năm 2007, xuất khẩu gạo 15% tấm đạt 1,512 triệu tấn với kim ngạch 501,5 triệu USD, tăng 15,04% về lượng và tăng 37,96% về trị giá so với năm 2006; tăng 21,84% về lượng và tăng 44,67% về trị giá so với năm 2005. Năm 2007, loại gạo này được xuất khẩu chủ yếu sang các thị trường Indonesia (900.225 tấn, trị giá 281 triệu USD): Cuba (407.460 tấn, trị giá 160 triệu USD); Malaixia (50.490 tấn, trị giá 15 triệu USD)…. Về thị trường ĐH Kinh tế Quốc dân 8 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Đứng đầu về thị trường nhập khẩu gạo của Việt Nam năm 2007 là Philippine với 1,454 triệu tấn, trị giá 464,87 triệu USD,giảm 3,71% về lượng nhưng tăng 8,3% về trị giá so với năm 2006. Xuất khẩu sang thị trường này chủ yếu là gạo 25% tấm. Xuất khẩu sang Indonesia năm 2007 tăng khá mạnh, đạt 1,11 triệu tấn gạo với trị giá 360,66 triệu USD, tăng tới 226,6% về lượng và tăng 244,75% về trị giá so với năm 2006; còn so với năm 2005 tăng 1029,39% về lượng và tăng 1220,74% về trị giá. Thị trường này chủ yếu nhập khẩu gạo 15% tấm và gạo nếp 10% tấm. Năm 2008 Sản lượng lúa cả nước là 38 triệu tấn, xuất khẩu gạo đạt kim ngạch 4,709 triệu tấn với giá trị là 2,882 tỉ USD. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam trong năm 2008 cũng đạt mức cao, bình quân là 550 USD/tấn, gần gấp đôi so với năm 2007. Thị Trường xuất khẩu năm 2008 ĐH Kinh tế Quốc dân 9 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Năm 2009 Cả nước hiện có 216 doanh nghiệp xuất khẩu gạo. Năm 2009, thị trường hàng hoá thế giới chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế nghiêm trọng, trong đó có lúa gạo. Dưới sự điều hành xuất khẩu linh hoạt của Chính phủ, năm qua, cả nước đã xuất khẩu được 6,052 triệu tấn gạo, là năm xuất khẩu nhiều nhất từ trước đến nay; trong đó chủng loại gạo cao cấp chiếm đến 40, 25%. Tổng giá trị xuất khẩu đạt 2,463 tỉ USD (giá FOB); về số lượng tăng 29,35% so năm 2008. Theo dự báo của ngành nông nghiệp, lượng lúa hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là hơn 11, 5 triệu tấn và sản lượng tồn từ năm 2009 chuyển sang thì lượng gạo hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là 7,25 triệu tấn. Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong tháng 4 năm 2010 lượng xuất khẩu gạo của cả nước đạt 700 ngàn tấn, đạt giá trị 385 triệu USD, đưa tổng lượng gạo xuất khẩu 4 tháng đầu năm lên 2,14 triệu tấn, thu về 1,18 tỷ USD. Riêng các doanh nghiệp thành viên của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA) trong 4 tháng năm 2010 đã ký hợp đồng xuất khẩu hơn 3,9 triệu tấn gạo các loại và hiện đã xuất đi được gần 2 triệu tấn. So với cùng kỳ năm trước, xuất khẩu gạo 4 tháng đầu năm 2010 giảm 13,85% về số lượng, nhưng giá trị FOB chỉ giảm 1,26%, trị giá CIF tăng 0,23%. Trong đó, các hợp đồng tập trung chiếm trên 60 % (tăng 2,3%) và hợp đồng thương mại trên 39% (giảm hơn 30% so với năm trước). Giá xuất khẩu bình quân đạt 466,95 USD/tấn, tăng 59,53 USD/tấn so với cùng kỳ năm 2009. Việc ký kết và giao hàng các hợp đồng thương mại có dấu hiệu khôi phục trở lại trong tháng 3 và tháng 4 năm 2010. Hợp đồng thương mại tháng 3 tăng hơn 139% so với tháng 2 và tháng 4 tăng hơn 39,8% so với tháng 3 năm 2010. Điều này cho thấy, xuất khẩu gạo của nước ta đang có những tín hiệu lạc quan. Hiện nay, thị trường cũng thể hiện một số yếu tố tích cực như: Iraq đang đấu thầu 120.000 tấn; Brazil mất mùa, thiếu gạo, có thể nhập 1,5 triệu tấn và tác động đến nhu cầu gạo từ châu Á; Trung Quốc bị hạn hán, có thể nhập một lượng lớn lương thực; Nam Mỹ hiện xuất khẩu gạo giá cao, không cạnh tranh được với các nguồn châu Á... Hiện nay, gạo Việt Nam có mặt trên 100 nước chiếm 20%thị phần gạo thế giới. Bên cạnh đó, giá trị gạo của ta cũng ngày càng được đánh giá cao hơn. 1.2 Khó khăn, hạn chế Thứ nhất, sản lượng gạo tăng nhưng giá trị không tăng; gạo Việt Nam xuất khẩu giá thấp nhất thế giới. ĐH Kinh tế Quốc dân 10 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Từ nhiều năm nay, Việt Nam vẫn là nước xuất khẩu gạo lớn thứ 2 trên thế giới chỉ sau Thái Lan. Có một thực tế là chúng ta xuất khẩu mỗi năm một tăng và năm 2009 đạt mức kỉ lục 6 triệu tấn. Tuy nhiên, khi nhìn lại về giá trị thì hạt gạo Việt Nam lại thuộc hàng thấp trong các nước xuất khẩu. Nhiều người cho rằng: đã đến lúc cần tính toán lại, nhằm nâng cao giá trị mặt hàng vốn được xem là lợi thế của chúng ta. Số liệu mới đây của Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho thấy gạo 5% tấm của Thái Lan được chào bán 500 USD/tấn, Pakistan chào bán 415 USD/tấn trong khi Việt Nam chỉ có thể chào bán 400 USD/tấn. Tương tự, gạo 25% tấm của Việt Nam cũng thấp hơn khoảng 70USD/tấn so với Thái Lan. Tình trạng trên đã kéo dài từ nhiều năm nay, qua đó cho thấy mặc dù chúng ta luôn duy trì vị trí thứ 2 về số lượng gạo xuất khẩu trên thế giới nhưng mức lợi nhuận thực mang về lại chưa tương xứng. Theo các doanh nghiệp xuất khẩu, gạo Việt Nam vẫn được bán ra thế giới, nhưng không phải ai cũng biết về chất lượng, về tên gọi của gạo Việt Nam. Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng do chú trọng vào tăng năng suất hơn là chất lượng nên suốt một thời gian dài, gạo Việt Nam chủ yếu được sản xuất từ những giống phẩm chất thấp. Ngoài ra, việc hình thành những vùng chuyên canh lúa xuất khẩu vẫn còn khó khăn do tỉ lệ đất của mỗi nông hộ khá thấp. Như tại ĐBSCL, bình quân một hộ trồng lúa chỉ có 1,3 hecta. Trong đó có đến 30,6% hộ có diện tích từ 0,2 - 0,5 hecta và 7,7% hộ có diện tích dưới 0,2 hecta. Các chuyên gia nông nghiệp cho rằng do chú trọng vào tăng năng suất hơn là chất lượng nên suốt một thời gian dài, gạo Việt Nam chủ yếu được sản xuất từ những giống phẩm chất thấp. Thứ hai, thị trường gạo khó ổn định. Việt Nam là nước xuất khẩu lúa gạo lớn nhưng nông dân lại không được hưởng nhiều lợi nhuận do giá cả và thị trường liên tục biến động bất lợi. Theo Bộ Tài chính, từ khi hộ gia đình nông dân được xem là đơn vị kinh tế tự chủ, thóc gạo cung ứng ra thị trường do hàng triệu hộ nông dân sản xuất tạo nên một thị trường cạnh tranh hoàn hảo. Tuy nhiên, có vẻ như sự cạnh tranh hoàn hảo ở đây chỉ nhìn từ phía người bán khi mỗi hộ nông dân chỉ bán ra một lượng thóc gạo rất nhỏ so với toàn thị trường. Nông dân không thể độc quyền về thị trường thì cũng không độc quyền về giá, phải chấp nhận giá thị trường; một số lượng nhỏ nông dân tham gia hay rút khỏi thị trường cũng không ảnh hưởng đến mức giá chung. ĐH Kinh tế Quốc dân 11 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Trong khi đó, người mua thì lại có quyền tự do lựa chọn mà không cần biết người bán là ai. Với tính mùa vụ của lúa gạo, có thời điểm hàng triệu hộ nông dân cùng bán lúa gạo. Khi đó, người mua là những DN, các tư thương nhân cơ hội đó để ép giá, nông dân bị lỗ vốn nhưng họ không thể tích trữ để giữ giá vì không có vốn. Các doanh nghiệp xuất khẩu lớn được kỳ vọng là người bình ổn thị trường mua lúa trực tiếp đến nông dân khoảng 20%, 80% còn lại mua qua “trung gian” và lực lượng này luôn ép giá bán xuống dưới giá mà các doanh nghiệp mua. Vì vậy, lợi nhuận của người sản xuất luôn bị giảm sút. Điệp khúc “được mùa, rớt giá” thể hiện rõ ở những thời điểm này nhưng nông dân không tự mình khắc phục được. Ngược lại, vào lúc giáp hạt, người sản xuất hết lúa bán ra ít, khối lượng cung nhỏ hơn mức cầu nên giá thóc, gạo trên thị trường tăng cao. Vì thế, giá cao nhưng nông dân không hưởng lợi gì. Thực tế, đầu 2008, khi giá thế giới tăng kéo theo giá trong nước tăng ảo. Tuy nhiên, giá tăng chỉ gây khó cho người tiêu dùng, còn nông dân cũng không được hưởng nhiều vì lúa không còn để bán. Chuyên gia của Bộ Tài chính nhận định, sự biến động của thị trường đã tác động làm dịch chuyển, thậm chí phá vỡ cơ cấu sản xuất, cây trồng làm cho sản xuất không ổn định, người sản xuất không yên tâm đầu tư do giá cả không ổn định, dẫn đến thua lỗ, phá sản. Trong quá trình kinh doanh người trồng lúa tuy biết điều đó nhưng không thể tự khắc phục được những bất lợi của thị trường mà đòi hỏi phải có sự can thiệp hỗ trợ của Nhà nước. Thứ ba, gạo chất đầy kho. Cuối tháng 2-2010, khi giá lúa gạo trong nước đang có dấu hiệu xuống thấp, ngay lập tức VFA đã chỉ đạo 30 doanh nghiệp lớn thu mua tạm trữ trong hai đợt với số lượng 1,5 triệu tấn gạo. Việc thu mua tạm trữ đã được doanh nghiệp chấp hành khá tốt. Nhiều doanh nghiệp hy vọng giá gạo giảm chỉ trong thời gian ngắn rồi lên lại khi thị trường sôi động. Trái với dự đoán, xuất khẩu gạo trong thời gian gần đây đang có chiều hướng không thuận lợi khi thị trường ế ẩm, giá gạo giảm mạnh. Thị trường không thuận lợi cùng với việc phải đẩy mạnh thu mua tạm trữ đã khiến các doanh nghiệp gạo gặp nhiều khó khăn. Ví dụ Công ty Lương thực Trà Vinh trong kho còn tồn khoảng 60.000-70.000 tấn. Đây chính là gánh nặng mà công ty đang phải chịu trước áp lực của lãi suất ngân hàng 13-14%/năm như hiện tại. Dù lượng gạo tồn còn khá nhiều nhưng trước mắt công ty vẫn phải mua gạo tạm trữ theo chủ trương của hiệp hội. Nếu công ty không mua thì nông dân không biết bán gạo cho ai. Thị trường trầm lắng thế này, công ty cũng chưa biết giải quyết sao” - Giám đốc Nguyễn Văn Việt lo lắng. Hơn thế nữa, hị trường gạo thế giới đang trầm lắng đã gây ảnh hưởng tới xuất khẩu gạo của công ty. Công ty không có ĐH Kinh tế Quốc dân 12 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học thêm được hợp đồng xuất khẩu nào mới. Những năm trước vào thời điểm này, Công ty Lương thực Trà Vinh ký được khá nhiều hợp đồng thương mại nhưng trong năm nay rất ít, chỉ chiếm khoảng 10% lượng gạo xuất khẩu của công ty. Từ đầu năm đến nay, công ty xuất khẩu được khoảng 30.000 tấn, chủ yếu sang thị trường tập trung Malaysia, Philippines với những hợp đồng được ký giữa chính phủ hai nước. Thứ tư là cơ chế điều hành xuất khẩu gạo bộc lộ nhiều yếu kém. Bên cạnh những kết quả khả quan, việc điều hành xuất khẩu gạo thời gian qua bộc lộ nhiều tồn tại cần chấn chỉnh. Với cơ chế điều hành như hiện nay, tất cả mọi doanh nghiệp đều có quyền kinh doanh xuất khẩu gạo. Số lượng doanh nghiệp xuất khẩu gạo đã lên đến hơn 200 doanh nghiệp. Điều đáng nói là trong số đó có nhiều doanh nghiệp không đáp ứng được những yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất phục vụ xuất khẩu. Thậm chí, nhiều doanh nghiệp không dự trữ đủ lượng gạo cần thiết cho xuất khẩu, chỉ khi ký được hợp đồng xuất khẩu mới tổ chức mua lúa gạo của dân, dẫn đến tình trạng tới mùa thu hoạch, nông dân phải chờ doanh nghiệp ký hợp đồng xuất khẩu, thương lái mới đến mua. Nếu giữ cơ chế cũ, Việt Nam mỗi năm xuất tới 6 triệu tấn gạo, nếu chia cho hàng trăm doanh nghiệp thì sẽ tăng thêm chi phí. Hơn nữa, từ 2011, Việt Nam cho phép doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào lĩnh vực sản xuất và xuất khẩu gạo, kéo theo khả năng dư thừa các nhà máy xay xát, kho chứa... 1.3 Giải pháp: Thứ nhất, giữ giá để ổn định thị trường. Theo dự báo mới nhất của Bộ Nông nghiệp Mỹ, sản lượng gạo toàn cầu năm 2010 đạt khoảng 436,3 triệu tấn, giảm 2,5% so với năm 2009. Trong khi đó, dự báo tiêu thụ gạo toàn cầu năm 2010 sẽ ở mức kỷ lục 437,1 triệu tấn, cao hơn 2,2 triệu tấn so với năm 2009. Theo các chuyên gia, mặc dù dự báo sản lượng gạo toàn cầu năm 2010 sụt giảm, sức tiêu thụ tăng và thương mại tăng nhưng do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế vẫn còn, tất yếu sẽ tác động đến sức mua nên tình hình thị trường vẫn diễn biến phức tạp: giá gạo có thể tăng do nhu cầu tăng; nhu cầu tăng nhưng sức mua có thể giảm (do thu nhập giảm); sự cạnh tranh của các loại lương thực có thể thay thế khác (đặc biệt là lúa mì, giá lại thấp hơn nhiều so với gạo). Căn cứ dự báo sản lượng lúa gạo năm 2010 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn báo cáo Thủ tướng theo văn bản số 457/BNN-KH ngày 11/2/2010, lượng lúa hàng hoá cần tiêu thụ trong năm 2010 là 11,54 triệu tấn, chưa kể tồn kho năm 2009 chuyển sang, Hiệp hội Lương thực Việt Nam đã đưa ra kế hoạch xuất khẩu năm 2010: quý 1 xuất khẩu 1,2 triệu tấn, quý 2 xuất khẩu 2 triệu tấn, quý 3 xuất 1,5 triệu tấn và quý 4 là 1,3 triệu ĐH Kinh tế Quốc dân 13 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học tấn. Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Philippinnes, Malaysia, Cuba, châu Phi… (không thay đổi nhiều so với năm 2009). Để công tác xuất khẩu gạo đạt hiệu quả cao hơn, Hiệp hội lương thực Việt Nam cần phát huy hơn nữa vai trò đại diện cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo Việt Nam tham vấn cho Chính phủ chỉ đạo, điều hành công tác xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả; tăng cường công tác thông tin thị trường trực tiếp đến nông dân; các doanh nghiệp cần xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu hàng hoá nâng cao giá trị hàng hoá. Cần tổ chức lại hệ thống thương lái và xay xát gắn kết với các doanh nghiệp xuất khẩu để mua lúa gạo theo giá thị trường, không dưới mức giá tối thiểu của Chính phủ phê duyệt. Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, bằng các đa dạng sản phẩm, tăng cường mối quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết lập khách hàng mới. Để đạt được các mục tiêu xuất khẩu đề ra như trên, các doanh nghiệp xuất khẩu trước hết cần thống nhất, đoàn kết dưới sự điều phối của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, theo sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ, kiên quyết đấu tranh với hiện tượng tiêu cực, bán phá giá, gây thiệt hại đến quyền lợi của người sản xuất, của doanh nghiệp. Và trước những biến động khó lường trong năm 2010, các doanh nghiệp xuất khẩu gạo cần giữ giá gạo ổn định, có thể chấp nhận được để cạnh tranh với các quốc gia xuất khẩu khác. Thứ hai, nâng cao sức cạnh tranh của lúa gạo Việt Nam. Trước mắt, Việt Nam cần nâng cao năng lực điều phối điều hành giữa Bộ Công Thương, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, Ngân hàng Nhà nước và Ủy ban Nhân dân các tỉnh, thành phố vùng sản xuất lúa gạo cũng như VFA trong công tác chỉ đạo, điều phối hoạt động xuất khẩu. Việc tổ chức lại các doanh nghiệp xuất khẩu gạo, loại bỏ bớt thành phần tham gia xuất khẩu tự phát và chạy theo lợi nhuận thương mại; tạo cơ chế tích tụ quy mô hoạt động xay xát, chế biến và dự trữ thông qua việc quy định cấp phép kinh doanh có điều kiện cũng rất cần thiết. Việc liên kết chặt chẽ giữa sản xuất, kinh doanh, nâng cao giá trị, chất lượng và xây dựng thương hiệu hạt gạo Việt Nam đang trở nên cấp thiết trong xu thế hội nhập, công tác marketing là hết sức cần thiết trong việc đưa hạt gạo Việt Nam ra thị trường thế giới. Cũng như bao loại hàng hóa khác, gạo Việt Nam cũng cần phải định vị thương hiệu và nếu không có chiến lược rõ ràng thì việc bán gạo cũng chi phối bởi quy luật cung cầu như bao loại hàng hóa thông thường khác; phương phải nhanh chóng tổ chức lại sản xuất theo hướng cánh đồng một giống ở những tổ hợp tác, trang trại, hợp tác xã. Điều này sẽ thuận ĐH Kinh tế Quốc dân 14 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học lợi cho việc gieo sạ đồng loạt, khống chế dịch bệnh và thực hiện quy trình cơ giới hóa một cách đồng bộ. Bên cạnh đó, Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ hợp lý cho nông dân và doanh nghiệp trong việc bao tiêu, tiêu thụ sản phẩm. Có như vậy, hạt gạo Việt Nam mới có thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế./. Thứ ba, Cần xây dựng thương hiệu cho gạo Việt Nam, tăng giá trị hạt gạo Việt Nam. Việt Nam xuất khẩu lượng gạo lớn nhưng giá luôn thấp hơn gạo của Thái Lan vài chục USD/tấn, nguyên do là gạo Việt Nam chưa có thương hiệu và chất lượng chưa ổn định. Trong khi đó, trên thị trường nội địa, gạo đóng gói có nhãn hiệu bày bán ở các siêu thị cũng có giá cao hơn gạo cùng loại ở các sạp khoảng 20%. Do đó, điều cần làm là xây dựng thương hiệu lúa gạo trên cơ sở chuẩn hóa chất lượng lúa gạo theo tiêu chuẩn quốc tế. Điều kiện là doanh nghiệp có chiến lược xây dựng thương hiệu gạo chất lượng cao tham gia “Liên kết bốn nhà”, cụ thể là tham gia chuỗi giá trị, liên kết xây dựng vùng nguyên liệu thông qua hợp đồng tiêu thụ sản phẩm, để bảo đảm chất lượng nguồn nguyên liệu chế biến.Theo ông Richard Moore, chuyên gia Thương hiệu thế giới: "Giá gạo liên quan đến chất lượng gạo và phương cách giao hàng. Nâng cao giá trị hạt gạo cần sự đầu tư lớn về tiếp thị, bao bì và bán hàng. Xây dựng thương hiệu hạt gạo từ sản phẩm thông thường khi gắn lên bao bì một thương hiệu là gắn với tạo dựng uy tín và liên hệ với khách hàng trên thị trường. Thái Lan làm thương hiệu rất tốt nên họ vẫn là nước xuất khẩu gạo đứng đầu thế giới và giá trị luôn cao hơn Việt Nam". Còn Chủ tịch Hiệp hội Makerting thế giới, ông Hermawan Kartajaya, khi nói về vấn đề này đã cho rằng do chúng ta chưa khám phá ra tính đặc trưng của hạt gạo Việt Nam, làm cho nó trở nên nổi trội lên và giúp cho người tiêu dùng có thể phân biệt đâu là gạo Việt Nam, đâu là gạo Thái Lan hay Trung Quốc... Có như thế, chúng ta mới đánh đúng vào tâm lý của người tiêu dùng. Một khi đã được nhận biết và ưa chuộng một thương hiệu, vấn đề giá cả sẽ trở thành thứ yếu và người ta sẵn sàng bỏ tiền ra để mua vì sự hài lòng, thay vì phải phân vân hay mặc cả về giá cả. Vì vậy, vấn đề tạo mối liên hệ chặt chẽ với nông dân, nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu sản phẩm, duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu. Phải xem đây là những vấn đề cốt tử, mang tính vĩ mô của nền kinh tế khi vẫn còn dựa vào thế mạnh nông nghiệp. Bộ Công Thương cho biết, theo cam kết gia nhập WTO của Việt Nam, kể từ năm 2011, các công ty nước ngoài được quyền tham gia xuất khẩu gạo của Việt Nam. Nắm bắt ĐH Kinh tế Quốc dân 15 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học lộ trình này, hiện nay các công ty kinh doanh gạo nước ngoài cũng đã thiết lập đại diện tại Việt Nam, mặc dù không tham gia trực tiếp xuất khẩu gạo, nhưng họ đã cung cấp dịch vụ, làm đại lý cho công ty lương thực tỉnh, hoặc ký hợp đồng với các công ty xuất khẩu. Đây cũng là điều đáng lo cho các doanh nghiệp xuất khẩu gạo trong nước nếu không có sự chuẩn bị kịp thời. Theo Hiệp hội Lương thực Việt Nam, năm 2010 xuất gạo sẽ có nhiều thách thức, đòi hỏi phải có sự liên kết chặt chẽ giữa sản xuất và kinh doanh, vì thương mại có tác dụng hướng dẫn sản xuất và xác định kết quả sản xuất bằng cách tiêu thụ hợp lý sản phẩm làm ra. Vì vậy, muốn nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm và xác lập thị phần..., các doanh nghiệp cần liên kết với nông dân xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu riêng. Thứ tư, đẩy mạnh công tác điều hành xuất khẩu gạo. Trên cơ sở phương hướng và nhiệm vụ đề ra, Hiệp hội Lương thực Việt Nam tiếp tục phát huy vai trò đại diện cho doanh nghiệp tham gia xuất khẩu gạo Việt Nam, tham vấn cho Chính phủ chỉ đạo điều hành công tác xuất khẩu gạo đạt được hiệu quả cao nhất. Trước mắt cần tập trung các nhiệm vụ chính sau đây: Liên kết chặt chẽ giữa sản xuất kinh doanh thương mại có tác dụng hướng dẫn sản xuất và xác định kết quả sản xuất bằng cách tiêu thụ hợp lý sản phẩm làm ra. Do đó cần có biện pháp tăng cường thông tin thị trường trực tiếp đến nông dân. Nâng cao chất lượng và xây dựng thương hiệu để nâng cao giá trị sản phẩm và xác lập thị phần. Doanh nghiệp cần xây dựng vùng nguyên liệu chuyên canh để bảo đảm sản xuất đáp ứng yêu cầu chất lượng và xây dựng thương hiệu riêng. Có thể nghiên cứu mô hình liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trên cơ sở thành lập tổ hợp tác hoặc công ty cổ phần sản xuất và tiêu thụ lúa gạo, trong đó nông dân có thể góp vốn bằng quyền sử dụng đất và lao động, doanh nghiệp đầu tư giống, vật tư đầu vào và tiêu thụ sản phẩm, bảo đảm lợi ích hài hòa giữa doanh nghiệp và người sản xuất. Phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành, chính quyền địa phương và hội nông dân các cấp triển khai các biện pháp hỗ trợ nông dân trong sản xuất, thu hoạch và đầu tư cải thiện công nghệ sau thu hoạch, để hạn chế thất thoát và nâng cao chất lượng sản phẩm. Tổ chức lại hệ thống thương lái và xay sát gắn kết với các doanh nghiệp xuất khẩu. Thương lái, cơ sở xay xát và cung ứng gạo xuất khẩu phải đăng ký và mua lúa gạo theo giá thị trường, nhưng không dưới mức giá tối thiểu được Chính phủ hướng dẫn, để bảo đảm mức lãi hợp lý cho nông dân, có sự giám sát và quản lý của chính quyền địa phương. ĐH Kinh tế Quốc dân 16 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học Duy trì và mở rộng thị trường xuất khẩu, trên cơ sở đa dạng sản phẩm, tăng cường quan hệ với các khách hàng truyền thống và thiết lập quan hệ khách hàng mới. Nâng cao hiệu quả sản xuất và kinh doanh trên cơ sở bảo đảm giá bán phù hợp với giá thị trường, không để bị ép giá và đặc biệt là cạnh tranh phá giá. Phát huy nội lực, tăng cường sức cạnh tranh để đáp ứng yêu cầu hội nhập ngày càng sâu rộng đối với ngành hàng trong thời gian tới. Các doanh nghiệp Việt Nam phải khẩn trương chuẩn bị các điều kiện để cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài được kinh doanh lúa gạo tại Việt Nam theo cam kết với WTO vào năm 2011, trên cơ sở kiện toàn cơ sở vật chất, tăng cường năng lực mua vào dự trữ, chế biến, bảo quản, nâng cao chất lượng, nâng cao tay nghề và khả năng tiếp thị, ổng định và mở rộng thị trường xuất khẩu. Những thách thức đặt ra đối với xuất khẩu gạo Việt Nam trong thời gian tới là rất lớn và khó khăn, nhưng cần vượt qua để đáp ứng yêu cầu xuất khẩu, đưa ngành lương thực Việt Nam lên tầm cao mới. Để thực hiện có kết quả các mục tiêu đề ra, các doanh nghiệp trước hết cần thống nhất, đoàn kết với sự điều phối của Hiệp hội Lương thực Việt Nam, theo sự chỉ đạo và điều hành của Chính phủ vì lợi ích chung, tạo sức mạnh để cạnh tranh trên thị trường thế giới trong điều kiện hội nhập ngày càng sâu rộng. Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, gian lận, bán phá giá, gây thiệt hại đến quyền lợi của người sản xuất và lợi ích quốc gia./. 2. Cao su Trong số các mặt hàng nông sản chủ lực thì cao su là mặt hàng tương đối quan trọng tham gia vào xuất khẩu thu lại ngoại tệ cho đất nước. Việt Nam là một nước có điều kiện thuận lợi để sản xuất và xuất khẩu cao su, tuy nhiên bên cạnh đó còn nhiều khó khăn trong các giai đoạn để sản xuất và xuất khẩu mặt hàng này. Sau đây là điển hình cho những thành tựu và khó khăn mà ngành cao su gặp phải: 2.1 Thành tựu Những thành tựu đạt được của ngành cao su Việt Nam sau khi gia nhập WTO: Sau khi gia nhập WTO thị trường của Việt Nam đã được mở rộng rất nhiều. Sau 2 năm tham gia tổ chức thương mại thế giới cao su Việt Nam đã xuất khẩu sang hơn 45 thị trường, có mặt tại Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, và mở rộng sang Đông Âu, Trung Đông, Nam Mỹ và Châu Phi. Do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính thế giới năm 2008, 2009 sản xuất và xuất khẩu cao su có dấu hiệu ngừng trệ tuy nhiên hiện tại ngành cao su đã có dấu hiệu phục hồi và đạt được thành tựu đáng kể: Cùng thời điểm này năm 2009, do suy thoái kinh tế, các ngành sản xuất nguyên liệu cao su đình đốn, giá mủ cao su xuất khẩu chỉ ở mức 1.200 USD/tấn. Sang đầu năm 2010, ĐH Kinh tế Quốc dân 17 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học giá tăng lên 3.000 USD/tấn và hiện nay tăng lên mức 3.300 USD/tấn, tăng gần 300% so với năm 2009. Do giá tăng nên hai tháng đầu năm 2010, tuy xuất khẩu cao su của Việt Nam mới đạt hơn 76.300 tấn, giảm 0,1% về lượng nhưng lại tăng 87% (xấp xỉ 192,7 triệu USD) về trị giá so với cùng kỳ. Sau đây là bảng tổng kết và dự tính hoạt động và khai thác cao su Việt Nam **2010 *2009 Diện tích (hécta) 715.000 674.200 Sản lượng mủ khô (tấn) 770.000 723.700 Nhập khẩu (tấn) 130.000 144.200 Mục tiêu xuất khẩu (tấn) 750.000 726.000 Tiêu thụ nội địa (tấn) 140.000 120.000 2 tháng đầu năm 2010 2 tháng đầu năm 2009 Khối lượng xuất khẩu (tấn) 67.800 76.400 Kim ngạch xuất khẩu (triệu USD) 169.5 103 ( nguồn Tổng cục thống kê, các bộ ngành, các thương nhân) Hiện Việt Nam có trên 500 nhà xuất khẩu cao su, xuất khẩu trên 80% sản lượng. Nước ta cũng nhập cao su từ Thái Lan, Campuchia và Indonesia. Geruco là công ty xuất khẩu cà phê lớn nhất cả nước. 70% lượng cao su xuất khẩu của nước ta là sang Trung Quốc, các thị trường xuất khẩu quan trọng khác bao gồm Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Nga, Đài Loan, Mỹ, Nhật và EU. Hiện Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 4 thế giới sau Thái Lan, Indonesia và Malaysia. Ngoài những thành tựu đạt được như trên là nhờ một phần lớn bởi khả năng của chúng ta nhưng không thể phủ nhận những điều kiện thuận lợi trong việc xuất khẩu cao su sau khi gia nhập WTO. Ví dụ như chúng ta được hưởng lợi từ đãi ngộ của Tối huệ quốc( MFN- qui chế đối xử bình đẳng với các nước khác), thị trường tiêu thị mở rộng do quan hệ ngoại giao,… Đặc biệt sau khi gia nhập WTO thì ngành cao su Việt Nam đã có những bước chuyển mạnh từ khâu sản xuất đến xuất khẩu, từ giải quyết việc làm đến vấn đề bảo vệ môi trường, nâng cao đời sống nhân dân,…Ví dụ điển hình là trong năm 2009 hàng vạn công nhân của Tập đoàn công nghiệp cao su Việt Nam đã vượt khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn giữ được những thành quả đáng tự hào. Phong trào thi ĐH Kinh tế Quốc dân 18 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học đua của Công nhân đã giúp đẩy nhanh sản xuất và nâng cao trình độ người lao động. Nếu như năm 2003 có 42 sáng kiến làm lợi khoảng 7 tỷ đồng thì năm 2008 đã có gần 100 sáng kiến với giá trị làm lợi lên tới 55 tỷ đồng. Tiền lương của công nhân được cải thiện rõ rệt năm 2008 mức lương công nghân đã lên tới 5 triệu đồng/tháng/người. Ngoài các phong trào thi đua lao động giỏi, phát huy sáng kiến, luyện tay nghề, thì nhiều phong trào thi đua khác cũng được nhân rộng từ mọi cấp, đơn vị trên cả nước. Đơn cử với việc thành lập Câu lạc bộ 2 tấn, ngành CSVN đã thúc đẩy hàng loạt đơn vị một cuộc “chạy đua” về năng suất sản phẩm. Ban đầu, chỉ có 11 nông trường tham gia đạt 2 tấn/ha; nhưng về sau, có tới 10 Cty đạt 2 tấn/ha ở miền Đông Nam Bộ. Tiếp theo, một số Cty ở duyên hải miền Trung đạt 1,8 tấn/ha, có 52 nông trường ở Tây Nguyên đạt trên 2 tấn/ha. Đặc biệt, có 11 nông trường liên tục duy trì năng suất 2 tấn/ha từ những ngày chưa thành lập Câu lạc bộ 2 tấn; thậm chí, có nông trường đạt tới con số kỷ lục 2,4 - 2,8 tấn/ha... Theo công đoàn Cao su Việt Nam, điều quan trọng nhất trong hàng loạt giải pháp “vượt khó” kể trên, là tập đoàn cố gắng giữ mức tiền lương, thu nhập của trên 86.000 CN không bị giảm. Thậm chí, một số Cty có mức lương cao trên 6 triệu đồng/người/tháng như: Tân Biên (6,4 triệu đồng), Dầu Tiếng (6,04 triệu đồng). Một số Cty đạt trên 5 triệu đồng/tháng/người như: Tây Ninh (5,7 triệu đồng), Chư Sê (5,18 triệu đồng), Đồng Phú (5,14 triệu đồng)... Theo thống kê mới nhất thực trạng xuất nhập khẩu sản phẩm của cao su Việt Nam 4 tháng đầu năm có sự chuyển biến rõ rệt. Xuất khẩu Nhập khẩu ngàn USD So 2009 (%) ngàn USD So 2009 (%) 1 19.040 155,2 24.380 103,0 2 12.654 28,2 17.999 22,7 3 23.457 117,4 22.466 18,1 4 22.880 103,7 22.479 0,9 Tổng cộng 78.031 98,3 87.325 28,5 4T 2009 39.353 62.973 Nguồn: Tổng cục Hải quan, Hiệp hội Cao su Việt Nam tổng hợp Tháng Vỏ xe là mặt hàng chủ lực trong các sản phẩm cao su xuất cũng như nhập. Kim ngạch xuất khẩu vỏ xe trong 4 tháng đầu năm đạt 64,6 triệu USD, chiếm khoảng 82,9 % tổng kim ngạch xuất khẩu sản phẩm cao su. Xuất khẩu vỏ xe có mức tăng trưởng khá, tăng 43,1 % về trị giá, tăng 19,9% về số lượng và tăng 19,3% về giá so với cùng kỳ năm trước. Chiếm tỷ lệ cao nhất về giá trị xuất khẩu là vỏ xe tải (62,5%), kế đến là vỏ xe máy 2 bánh ĐH Kinh tế Quốc dân 19 Khoa BĐS & KTTN Đề tài nghiên cứu khoa học (20,2%), vỏ xe đạp (8,1%), vỏ xe công nghiệp (6,3%). Đặc biệt vỏ xe ô-tô tuy giá trị xuất khẩu còn ít nhưng đáng khích lệ vì cùng kỳ năm 2009 không xuất khẩu được. Trong 4 tháng đầu năm 2010, vỏ xe Việt Nam được xuất trên 102 thị trường. Hoa Kỳ có thị phần dẫn đầu, chiếm 25,7% với những sản phẩm chính là vỏ xe tải,vỏ xe công nghiệp, vỏ xe đặc ruột, kế đến là Malaysia (7 %), Ai Cập (6,6%), Brazil (4,8%) và Cambodia (4,4%). Những công ty dẫn đầu về kim ngạch xuất khẩu lốp xe là Cty TNHH Lốp xe Kumho Việt Nam (45,1%), Casumina (11,9%), Cty Cao su Kenda Việt Nam (11,8%), Cty TNHH Công nghiệp Cao su Chính Tân (4,9%), Cty CP Cao su Đà Nẵng (4,7%), Cty TNHH Săm lốp Liên Phúc (4,6%). Thị trường của vỏ xe Việt Nam xuất khẩu trong 4 tháng đầu năm 2010 Hoa Kỳ Ngàn USD 16.640 Thị phần % 25,7 Malaysia Ai Cập Brazil 4.523 4.261 3.130 7,0 6,6 4,8 Cambodia Đài Loan Singapore Vương quốc Á Rập 2.859 2.049 1.990 4,4 3,2 3,1 1.851 2,9 Thị trường Úc Việt Nam Nhật Bản Các sản phẩm chính được xuất khẩu Vỏ xe tải, xe công nghiệp, vỏ xe đặc ruột Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe con, xe công nghiệp, OTR Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, ruột vỏ xe Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe đạp Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe đạp, xe nông nghiệp, OTR Vỏ xe máy 2 bánh, xe công nghiệp, OTR, xe đạp Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh Vỏ xe tải, xe máy 2 bánh, xe công nghiệp, ruột vỏ xe Vỏ xe tải, công nghiệp, xe máy 2 bánh, xe nông 1.418 2,2 nghiệp Vỏ xe máy 2 bánh, xe tải, ruột vỏ xe, xe công nghiệp, 1.352 2,1 OTR Vỏ xe công nghiệp, ruột vỏ xe, xe con, xe nông 1.260 1,9 nghiệp Nguồn: Tổng cục hải quan, Hiệp hội cao su Việt Nam tổng hợp. 2.2 Khó khăn Bên cạnh những thành tựu đạt được thì ngành Cao su Việt Nam gặp không ít khó khăn thách thức khi tham gia hội nhập. Đầu tiên là vấn đề về vốn cung cấp để sản xuất cao su Việt Nam gặp nhiều khó khăn. Việt Nam là nước xuất khẩu cao su lớn thứ 5 thế giới vì thế việc đầu tư vốn để sản xuất cao su rất cần thiết. Trong những năm vừa qua nhà nước đã đâu tư cho nông nghiệp nói chung và ngành cao su nói riêng rất nhiều ưu đãi lớn tuy nhiên sự đầu tư đó vẫn chưa cân xứng với những gì mà ngành cao su đóng góp cho nền kinh tế đất nước. Việc đẩy ĐH Kinh tế Quốc dân 20 Khoa BĐS & KTTN
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan