Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay...

Tài liệu Vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay

.PDF
161
444
55

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN DIỆU LINH VẤN ĐỀ KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY Ngành : Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số : 9 22 90 02 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. PHẠM VĂN ĐỨC HÀ NỘI - 2018 1 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan, luận án tiến sĩ triết học với đề tài “Vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” là công trình nghiên cứu của cá nhân dưới sự hướng dẫn nghiên cứu của GS.TS. Phạm Văn Đức. Các số liệu, tài liệu trích dẫn và tài liệu tham khảo trong luận văn là hoàn toàn trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Diệu Linh 2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .........................................................................................................................1 Chƣơng 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ..................................................................................................................................5 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận về khai thác nội lực và khai thác ngoại lực..............................................................................5 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay .......................................................................................................16 1.3. Những công trình nghiên cứu về các giải pháp khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam .............................................................................................................21 1.4. Nhận định chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến lĩnh vực đề tài ............26 Chƣơng 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC .........29 2.1. Khái niệm và mối quan hệ biện chứng giữa nội lực và ngoại lực.........................29 2.2. Vai trò của nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển của một quốc gia................46 2.3. Kinh nghiệm khai thác nội lực, ngoại lực của một số nước trên thế giới...............59 Chƣơng 3: THỰC TRẠNG KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY .........................................................................................................72 3.1. Một số yếu tố ảnh hưởng đến quá trình khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay.........................................................................................................................72 3.2. Thực trạng khai thác nội lực ở Việt Nam hiện nay................................................80 3.3. Thực trạng khai thác ngoại lực ở Việt Nam hiện nay...........................................100 Chƣơng 4: PHƢƠNG HƢỚNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP KHAI THÁC NỘI LỰC VÀ NGOẠI LỰC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY ...............................................124 4.1. Phương hướng cơ bản trong khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay...............................................................................................................................124 4.2. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn nội lực.........................126 4.3. Một số giải pháp nhằm khai thác có hiệu quả các nguồn ngoại lực.....................138 KẾT LUẬN ................................................................................................................148 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................151 3 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tự lực, tự cường là một trong những đức tính quý báu của con người Việt Nam. Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, dựa vào sức mình là chính, khai thác sức mạnh nội lực luôn luôn là yếu tố quyết định mọi thắng lợi của dân tộc. Tuy nhiên bên cạnh đó, chúng ta cũng không thể phủ nhận được vai trò quan trọng của yếu tố ngoại lực - những tinh hoa về văn hóa, khoa học công nghệ hiện đại, trình độ quản lý của thế giới, nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài những yếu tố vô cùng cần thiết cho quá trình phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong giai đoạn hiện nay. Bởi vậy, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước là bài học mà chúng ta luôn coi trọng. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, trải qua hơn 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được nhiều thành tựu to lớn trên tất cả các lĩnh vực. Chính sách đổi mới toàn diện là một bước đột phá tạo đà phát huy các nguồn nội lực, khơi thông ngoại lực, làm cho sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên rất nhiều. Đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng lên, tạo tiền đề quan trọng để đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Tuy nhiên, những thành tựu đạt được chưa tương xứng với tiềm năng. Kinh tế phát triển chưa bền vững. Bởi vì, chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, các cân đối kinh tế vĩ mô chưa vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng, khai thác các nguồn lực (nội lực và ngoại lực) còn hạn chế, kém hiệu quả, đầu tư còn dàn trải. Tăng trưởng kinh tế vẫn dựa nhiều vào các yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp gây bức xúc trong xã hội. Văn hóa phát triển chưa tương xứng với tăng trưởng kinh tế. Môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả, chính sách đất đai có mặt chưa phù hợp. Thể chế kinh tế thị trường, chất lượng nguồn nhân lực, kết cấu hạ tầng 1 vẫn là những điểm nghẽn cản trở sự phát triển. Việc khai thác, tiếp nhận những nguồn lực từ bên ngoài vào để "đi tắt đón đầu" như vốn, khoa học công nghệ... chưa thực sự hiệu quả. Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn những yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia. Con đường đổi mới đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cần giải quyết trên tất cả các lĩnh vực. Đổi mới là cần thiết, hội nhập là tất yếu, nhưng đổi mới làm sao để khai thác tối đa các nguồn nội lực của quốc gia và hội nhập phải trên cơ sở khai thác hiệu quả các nguồn ngoại lực. Bởi vậy vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực như thế nào, mối quan hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực ra sao đang là mảng lý luận mở cho các nhà khoa học tập trung nghiên cứu để bổ sung vào lý luận phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và nhiều biến động của thế giới hiện nay. Trong bối cảnh toàn cầu hoá mà trước hết là toàn cầu hoá về kinh tế đang tác động mạnh mẽ đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi quốc gia, dân tộc, thì không một quốc gia, dân tộc nào có thể phát triển được mà lại tách biệt, cô lập với thế giới. Mở cửa, hội nhập, chủ động gia nhập vào quá trình toàn cầu hoá là đòi hỏi tất yếu, nhưng cũng chính là điều kiện thuận lợi để kết hợp và phát huy sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong phát triển. Nhận thức sâu sắc tính tất yếu và cơ hội đó, Đảng ta luôn coi việc kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnh tổng hợp là một trong những bài học kinh nghiệm lớn trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng ta đã đưa ra một trong các quan điểm phát triển quan trọng là: “Phát huy cao nhất các nguồn lực trong nước, đồng thời chủ động hội nhập quốc tế, huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực bên ngoài để phát triển nhanh, bền vững. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để phát triển mạnh doanh nghiệp Việt Nam, nhất là doanh nghiệp tư nhân, làm động lực nâng cao sức cạnh tranh và tính tự chủ của nền kinh tế” [34, tr.270, 271]. Với tất cả những lý do trên, tác giả luận án đã chọn “Vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2 - Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ các khái niệm về nội lực và ngoại lực cũng như những đặc điểm của đất nước trong giai đoạn hiện nay, luận án tập trung phân tích, đánh giá những mặt thành tựu cũng như hạn chế của quá trình khai thác các nguồn nội lực và ngoại lực, từ đó đề xuất những giải pháp khai thác, sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực ấy. - Nhiệm vụ nghiên cứu: Để đạt được mục đích trên, luận án phải giải quyết một số nhiệm vụ sau: Một là, khái quát tổng quan chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến nội lực và ngoại lực, vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực hiện nay. Hai là, phân tích làm rõ một số vấn đề lý luận về nội lực và ngoại lực. Ba là, phân tích làm rõ thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay. Bốn là, đề xuất những giải pháp nhằm thúc đẩy việc khai thác có hiệu quả hơn các nguồn nội lực và ngoại lực của đất nước. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận án - Về đối tượng nghiên cứu: đề tài xác định đối tượng nghiên cứu là vấn đề khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay. - Về phạm vi nghiên cứu: đề tài xác định khảo sát ở góc độ triết học dựa trên các mối liên hệ bên trong và mối liên hệ bên ngoài, về vai trò của con người đối với xã hội, với lịch sử, về vị trí, vai trò của việc khai thác các nguồn nội lực và ngoại lực tạo động lực phát triển đất nước. Để định hướng cho quá trình nghiên cứu, đề tài xác định nghiên cứu trong lãnh thổ Việt Nam, với các nguồn nội lực sẵn có và các nguồn ngoại lực đã và đang tác động đến Việt Nam trong giai đoạn đổi mới, từ năm 1986 đến nay. Cụ thể là các nguồn nội lực và ngoại lực như: nguồn lực con người, văn hóa, tài nguyên thiên nhiên, vị thế địa chính trị, khoa học - công nghệ, vốn đầu tư vào Việt Nam. 4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận án Ngoài phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, đề tài còn sử dụng một số phương pháp sau: phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp lôgíc, phương pháp so sánh, đối chiếu, phương pháp quy nạp và diễn dịch. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án 3 - Trên cơ sở kế thừa những thành quả nghiên cứu của những người đi trước, luận án sẽ đi sâu phân tích làm rõ về mặt lý luận khái niệm nội lực và ngoại lực cũng như mối quan hệ giữa khai thác nội lực và ngoại lực. - Từ việc phân tích, đánh giá thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực của đất nước hiện nay, tác giả sẽ tập trung chỉ ra những tiềm năng chưa khai thác được ở các nguồn lực, đồng thời đưa ra một số giải pháp tăng cường việc khai thác có hiệu quả hơn các nguồn lực này. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án - Thực hiện chức năng nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội, cung cấp các luận cứ khoa học cho Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định đường lối, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách phát triển nhanh và bền vững của đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, với những kết quả nghiên cứu như trên, luận án sẽ góp phần làm phong phú hơn những lý luận về quan điểm, đường lối của Đảng và Nhà nước trong việc hoạch định các chủ chương, chính sách liên quan tới việc khai thác các nguồn nội lực và ngoại lực để phát triển đất nước trong tình hình mới. - Luận án có thể làm tài liệu tham khảo cho những người làm công tác nghiên cứu về vấn đề khai thác các nguồn lực trong nước, là tài liệu tham khảo bổ ích cho các giờ giảng của giáo viên khi dạy về phần chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, và là tài liệu bổ ích cho những bạn đọc quan tâm về vấn đề này. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương 13 tiết. 4 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI Ở bất cứ một quốc gia nào, vấn đề sử dụng, khai thác và phát huy sức mạnh nội lực và ngoại lực để phát triển kinh tế - xã hội luôn thu hút được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu. 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến một số vấn đề lý luận về khai thác nội lực và khai thác ngoại lực 1.1.1. Về khái niệm nội lực và ngoại lực - Khái niệm nội lực: Định nghĩa về nguồn lực trong nước, nhà nghiên cứu Trần Văn Chử nhấn mạnh giới hạn xác định các nguồn lực, cho rằng: “Nguồn lực trong nước là các nguồn lực chỉ có khả năng khai thác, sử dụng nhằm thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế trong phạm vi lãnh thổ của một quốc gia. Các nguồn lực đó bao gồm: lao động, khoa học và công nghệ, vốn và tài nguyên thiên nhiên, cùng với các yếu tố nguồn lực mang tính chính trị xã hội thể chế chính trị, cơ chế chính sách, truyền thống và tính cộng đồng, kinh nghiệm quản lý” [14, tr.32]. Trong bài “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay” của tác giả Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học, Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam đăng trên Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7-5-2012, tác giả đã phân tích khá sâu sắc khái niệm sức mạnh dân tộc. Tác giả cho rằng khái niệm sức mạnh dân tộc đồng nhất với khái niệm nội lực: “Sức mạnh dân tộc hay nội lực của một dân tộc, một quốc gia chính là tổng hợp những lợi thế, những nguồn lực nội sinh của dân tộc, quốc gia đó. Những lợi thế, những nguồn lực này bao hàm trong toàn bộ các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội; chúng là tài nguyên thiên nhiên, nguồn lực con người, là tổng thể những giá trị vật chất, tinh thần, truyền thống văn hoá,... Sức mạnh dân tộc, vì thế là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của một dân tộc. Như vậy, sức mạnh dân tộc, nội lực 5 của chúng ta bao gồm cả những nguồn lực, những tiềm lực tự nhiên và xã hội” [83]. Từ đó, tác giả Nguyễn Văn Phúc xác định nguồn nội lực có thể xác định trên hai bình diện là nguồn lực tự nhiên và nguồn lực xã hội. Trên bình diện nguồn lực tự nhiên, Việt Nam có lợi thế về vị trí địa lí, giao thông, có bờ biển dài rất thuận lợi cho phát triển kinh tế biển; lâm sản, hải sản, khoáng sản tuy không thật nhiều nhưng khá đa dạng và phong phú. Tuy nhiên, những nguồn lực tự nhiên, tự nó, chỉ tồn tại như là tiềm năng. Vấn đề là làm sao khơi dậy, huy động được những nguồn lực, những lợi thế đó trong phát triển. Trên bình diện nguồn lực xã hội, Việt Nam cũng có những ưu thế về mặt văn hoá và con người. Có thể nói, đó là những nguồn lực nội sinh giữ vị trí trung tâm của phát triển; bởi con người với những sức mạnh về văn hoá, chính là chủ thể của sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước, là chủ thể của sự khai thác, huy động và hợp nhất các lợi thế, các nguồn nội lực khác. Nguyễn Văn Hoà trong bài viết “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực” đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008 đã phân tích quan điểm của Phan Bội Châu về những yếu tố cấu thành nội lực của đất nước: Thiên thời, địa lợi, nhân hoà là các yếu tố cấu thành nội lực. Các yếu tố đó có quan hệ mật thiết với nhau, trong đó nhân hòa là yếu tố đóng vai trò quyết định. Bên cạnh đó, tri thức cũng là thành tố quan trọng của nội lực [49]. Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay" của nhà nghiên cứu Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010) đã nêu lên các yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc “là kết quả tổng hợp của các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá… của một dân tộc, của một quốc gia, được biểu hiện ở năng lực huy động, kết quả khai thác và sử dụng hiệu quả các tiềm lực ấy vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước”. Tuy nhiên, tác giả phân tích tiếp, "các tiềm lực kinh tế, chính trị, tinh thần, văn hoá…, tự bản thân nó chưa bao hàm hết sức mạnh dân tộc; bởi dân tộc vừa được hiểu theo nghĩa "chỉ cộng đồng người có mối liên hệ chặt chẽ và bền vững, có chung sinh hoạt kinh tế, có ngôn ngữ riêng, văn hoá có những đặc thù”, vừa được hiểu theo nghĩa "chỉ một cộng đồng người ổn định làm thành nhân dân một nước, có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất, quốc ngữ chung và có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi quyền lợi chính trị, kinh tế, truyền thống văn hoá và truyền thống đấu tranh chung trong quá trình lịch sử lâu dài dựng nước 6 và giữ nước”. Dù được hiểu theo nghĩa nào thì dân tộc và quốc gia cũng không tách rời nhau, sức mạnh quốc gia có cội nguồn từ sức mạnh dân tộc, đồng thời hun đúc, liên kết sức mạnh dân tộc, tạo nên sự bền vững của sức mạnh quốc gia. Vì vậy, phát huy sức mạnh dân tộc ở nước ta hiện nay là phát huy nguồn nội lực của quốc gia, từ sức mạnh vật chất đến sức mạnh tinh thần, văn hoá, khoa học công nghệ…, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, tăng cường, củng cố quốc phòng, an ninh, xây dựng và kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng và thế trận quốc phòng với thế trận và lực lượng an ninh, làm thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa" [91]. Trong bài “Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam”, tác giả Trần Văn Thọ (Đại học Waseda, Tokyo) đưa ra một yếu tố cấu thành nội lực của đất nước: “Nội lực, nếu hiểu theo nghĩa rộng, có thể bao gồm khả năng của chính phủ trong việc hoạch định kế hoạch, chính sách phát triển và khả năng quản lý, sử dụng vốn nước ngoài” [104]. Trong cuốn Những nguồn lực (Sách tham khảo) của tác giả E.F. Schumacher, Anh Quế dịch, Nhà xuất bản Lao động ấn hành năm 1994, tác giả đã phân tích các nguồn lực trong một đất nước và nhấn mạnh cần sử dụng tốt các nguồn lực trong xã hội để đẩy mạnh phát triển kinh tế. Nguồn lực đầu tiên là nền giáo dục, sử dụng đất đai hợp lý, nguồn lực cho nền công nghiệp, năng lượng hạt nhân, sử dụng công nghệ mới [40]. Bên cạnh đó, có một số bài nghiên cứu cũng đề cập đến khái niệm nội lực như: Suy nghĩ thêm một số yếu tố trong các nguồn nội lực của tác giả Nguyễn Quang Luyện thuộc Viện Kinh tế học, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, đăng trên Tạp chí Hoạt động khoa học, số 4, năm 1999; Nguồn nội lực của dân tộc, Văn Hùng, Tạp chí Thương mại, số 17, 2006. - Khái niệm ngoại lực: Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay" của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010) cho rằng: “Sức mạnh thời đại là khái niệm chỉ các thành tựu do con người sáng tạo ra theo các quy luật vận động và phát triển của xã hội loài người, theo đó thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội” [91]. Trong bài viết Nội lực và ngoại lực trong quá trình phát triển kinh tế ở Việt Nam của tác giả Trần Văn Thọ (Giáo sư kinh tế, Đại học Waseda, Tokyo) trên 7 cơ sở tập trung vào các nguồn lực như vốn, công nghệ và tri thức quản lý, kinh doanh, tác giả đưa ra cái nhìn biện chứng giữa nội lực và ngoại lực trong các nguồn lực: Tri thức quản lý và năng lực kinh doanh có thể gọi chung là nguồn lực kinh doanh (managerial resources). Nguồn vốn (capital resources), công nghệ và nguồn lực kinh doanh là những biểu hiện cụ thể của từ lực trong nội lực và ngoại lực. Các nguồn lực này được vận dụng qua hoạt động của các doanh nghiệp. Do đó, nội lực và ngoại lực vừa có thể được đánh giá trên bình diện vĩ mô (vị trí của hai nguồn lực trong nền kinh tế quốc dân) vừa có thể được đánh giá qua kết quả hoạt động của doanh nghiệp có vốn trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư của nước ngoài. Đặc biệt, bàn sâu về nội lực và ngoại lực, trong bài "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" của Nguyễn Ngọc Hồi trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5 - 2014), tác giả đã phân biệt cho chúng ta thấy sự giống và khác nhau giữa các khái niệm: nội lực, sức mạnh bên trong, sức mạnh dân tộc và ngoại lực, sức mạnh bên ngoài, sức mạnh thời đại. Trong Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX), vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để bảo vệ Tổ quốc chưa đứng riêng thành một quan điểm độc lập, mà được xem xét trong mối quan hệ giữa nội lực với ngoại lực, giữa sức mạnh trong nước với sức mạnh bên ngoài (điều kiện quốc tế). Tại quan điểm thứ năm, Nghị quyết Trung ương 8 (khóa IX) xác định: “ra sức phát huy nội lực, đồng thời tranh thủ tối đa và khai thác mọi thuận lợi ở bên ngoài”; đồng thời nhấn mạnh ở quan điểm thứ ba: “Sức mạnh bên trong là nhân tố quyết định”. Ở đây, dường như “nội lực” - yếu tố bên trong của đất nước, được xem là “sức mạnh dân tộc”; và “thuận lợi ở bên ngoài”, hay là yếu tố bên ngoài - ngoại lực, được xem là “sức mạnh thời đại”. Điều đó đúng, nhưng chưa đủ, chưa toàn diện. Với nhận thức biện chứng hơn, sâu sắc hơn nội hàm “sức mạnh của dân tộc” và “sức mạnh của thời đại” trong so sánh với yếu tố nội lực - bên trong và yếu tố ngoại lực - bên ngoài, Nghị quyết số 28-NQ/TW (khóa XI) không chỉ đặt vấn đề “phát huy nội lực” và “kết hợp phát huy nội lực với tranh thủ tối đa mọi thuận lợi từ bên ngoài”, mà còn bổ sung thêm mệnh đề “Phát huy sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”. Rõ ràng ở đây, sức mạnh của dân tộc không chỉ là sức mạnh nội lực và không chỉ bó hẹp ở sức mạnh bên trong, bởi nó còn bao gồm cả một phần ngoại lực cần được huy động cho sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc. Đó chính là nguồn lực to lớn về vật chất và tinh thần, chất xám cùng nguồn lực tài chính và tấm lòng hướng về cội nguồn của hơn 4,5 triệu 8 người Việt Nam ở nước ngoài, vốn đã được coi “là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam”. Do vậy, “sức mạnh của dân tộc” có nội hàm rộng hơn “nội lực” và “sức mạnh bên trong”; nó “thể hiện ở sức mạnh tổng hợp cả về vật chất và tinh thần. Đó là sự phát triển kinh tế nhanh, hiệu quả và bền vững; sức mạnh quốc phòng toàn dân ngày càng hiện đại; sự ổn định chính trị xã hội vững chắc; bản sắc văn hóa dân tộc không ngừng được phát huy; sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc; sự gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân”. Còn sức mạnh của thời đại cần phát huy cũng không hoàn toàn chỉ là các yếu tố bên ngoài - ngoại lực, mà còn bao gồm cả một phần yếu tố bên trong - nội lực. Sự kiên định của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân với mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội - mục tiêu được hình thành do có yếu tố thời đại - trong đường lối chung xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đâu phải là ngoại lực, mà đó chính là nội lực, là sức mạnh bên trong, nhưng lại được gắn kết nhuần nhuyễn với yếu tố thời đại, yếu tố bên ngoài. Tương tự khi chúng ta kiên định thực hiện đường lối phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài - thành phần kinh tế do yếu tố thời đại đem lại - được coi là một bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân, được khuyến khích phát triển. Đó chính là sức mạnh bên trong, sức mạnh nội lực, nhưng lại chứa đựng ở đó những yếu tố ngoại lực, của thời đại. Trên tầm tư duy biện chứng như vậy, Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) không đồng nhất “sức mạnh dân tộc” với “sức mạnh nội lực, sức mạnh bên trong”; không đồng nhất “sức mạnh thời đại” với các yếu tố “từ bên ngoài”, mà tiếp cận vấn đề một cách toàn diện hơn và khoa học hơn, khi vừa khẳng định “Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc kết hợp với sức mạnh của thời đại”, vừa nhấn mạnh bộ phận căn bản nhất, nòng cốt nhất của sức mạnh dân tộc là nhân tố nội lực giữ vai trò quyết định. Như vậy, về khái niệm nội lực và ngoại lực, còn có cách hiểu khác nhau, chủ yếu đồng nhất nội lực với sức mạnh dân tộc, ngoại lực với sức mạnh thời đại. Tác giả đồng tình với quan điểm của Nguyễn Ngọc Hồi trong bài "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc" khi có sự phân biệt giữa các khái niệm: nội lực với sức mạnh dân tộc, sức mạnh bên trong; ngoại lực với sức mạnh thời đại, sức mạnh bên ngoài. Tuy nhiên nội dung bài viết trên chỉ xoay quanh vấn đề kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc. 9 1.1.2. Về vai trò của khai thác nội lực và ngoại lực đối với sự phát triển của đất nước Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: "Phát huy nội lực và sức mạnh dân tộc là yếu tố quyết định, đồng thời tranh thủ ngoại lực và sức mạnh thời đại là yếu tố quan trọng để phát triển nhanh, bền vững và xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ. Phải không ngừng tăng cường tiềm lực kinh tế và sức mạnh tổng hợp của đất nước để chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng và có hiệu quả" [33, tr.102]. Trong cuốn sách “Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh” Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2012, các tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên), Ngô Xuân Dương, Lê Thị Hằng đã trình bày tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân. Phân tích thực trạng và đưa ra các giải pháp chủ yếu vận dụng, phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh về phát huy các nguồn lực của dân làm lợi cho dân trong công cuộc đổi mới. Với quan điểm cho rằng sự đồng lòng, chung sức của nhân dân là một yếu tố quan trọng tạo nên sức mạnh nội lực của dân tộc, Phan Bội Châu cho rằng, lòng người có quyền nắm tất cả thiên thời địa lợi. Vận thời sẽ trở về và thành công sẽ đến, khi mọi người đồng lòng chung sức. Nội dung này được tác giả Nguyễn Văn Hoà phân tích trong bài “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực” đăng trên Tạp chí Triết học, số 3, 2008. Trong bài "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong Chiến lược bảo vệ Tổ quốc” trên Tạp chí Quốc phòng toàn dân (tháng 5-2014), tác giả Nguyễn Ngọc Hồi đã chỉ ra: sự kết hợp giữa nội lực và ngoại lực phải theo tinh thần “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, lấy việc “phát huy nội lực là nhân tố quyết định” trong khi tận dụng tối đa những thuận lợi từ bên ngoài. Đây chính là sự quán triệt và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, mà theo đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn yêu cầu phải nêu cao tinh thần “tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi phải chăm lo xây dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Điểm mới mà Nghị quyết 28-NQ/TW (khóa XI) nhấn mạnh không chỉ là phát huy sức mạnh dân tộc nói chung, mà là “phát huy cao nhất” sức mạnh đó. Điều này là cần thiết và khả thi, khi mà thế và lực của đất nước được nâng lên rất nhiều so với trước đây; 10 đồng thời, tiềm năng sức mạnh dân tộc còn lớn, chưa được phát huy có hiệu quả cao. Thêm nữa, trong bối cảnh quốc tế đầy biến động, tiềm ẩn nhiều yếu tố bất trắc, khó lường, yêu cầu “phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc”, “phát huy nội lực là nhân tố quyết định” không chỉ thể hiện tinh thần tích cực, chủ động, không trông chờ, ỷ lại vào bên ngoài của chúng ta, mà còn là điều kiện để chúng ta tiếp nhận có hiệu quả các yếu tố ngoại lực do xu thế thời đại đem lại. Hơn thế, có phát huy cao nhất sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực, chúng ta mới giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại,… để trên cơ sở đó chủ động chuyển hóa sức mạnh ngoại lực thành sức mạnh nội lực. Phát huy cao nhất sức mạnh của dân tộc, coi phát huy nội lực là nhân tố quyết định, đòi hỏi phải chăm lo xây dựng và phát huy cao độ các yếu tố tạo thành sức mạnh dân tộc, sức mạnh nội lực. Cuốn sách Dân chủ hóa và phát huy nội lực của tác giả Hồ Bá Thâm do Nhà xuất bản Phương Đông ấn hành. Nội dung cuốn sách phân tích dân chủ ở Việt Nam; tiến trình, tính chất và trình độ phát triển; vấn đề phát huy vai trò động lực dân chủ; vấn đề dân chủ hóa và phát huy nội lực. Đó là cái nhìn triết học chính trị trong dòng chảy triết học nhân văn và triết học phát triển mà tác giả đã bàn tới. Biến động kinh tế Đông Á và con đường công nghiệp hoá Việt Nam của tác giả Trần Văn Thọ, do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2006 nêu ra quan điểm Đông Á là khu vực năng động nhất trên địa cầu hiện nay. Cuốn sách này trả lời các câu hỏi trên và tập trung phân tích hầu hết các vấn đề liên quan đến công nghiệp hoá, đề khởi các chiến lược, chính sách, biện pháp nhằm tăng sức cạnh tranh của kinh tế Việt Nam để đối phó hữu hiệu với các thách thức và tận dụng các cơ hội phát triển ở vùng Đông Á. Công nghiệp hoá và công bằng xã hội trong bối cảnh toàn cầu hoá và thời đại công nghệ thông tin, lợi thế so sánh động, công nghiệp phụ trợ, nội lực và ngoại lực, liên kết hàng dọc và hàng ngang giữa doanh nghiệp trong nước với các công ty đa quốc gia, chiến lược khám phá và tiếp cận thị trường, tinh thần doanh nghiệp, đạo đức kinh doanh,... là những chủ đề được bàn đến trong tầm nhìn về con đường công nghiệp hoá Việt Nam. Giáo sư Phan Huy Lê đã nhấn mạnh vai trò của yếu tố ngoại lực: “Đóng góp thêm vào nội lực tiềm tàng đó, trong cuộc đấu tranh chính nghĩa của mình, Việt Nam còn tranh thủ được sức mạnh của thời đại, sự ủng hộ của dư luận quốc tế, của nhân dân các nước kể cả nhân dân nước đi xâm lược”, bài viết "Sức 11 mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại sẽ làm nên thắng lợi", Báo Công lý online cơ quan ngôn luận của Tòa án nhân dân tối cao, ngày 19-5-2014. Bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong phòng, chống "diễn biến hòa bình" của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay" của tác giả Phạm Thanh Sơn in trên Tạp chí Khoa học quân sự (tháng 8-2010) đã phân tích sức mạnh của thời đại mà chúng ta đang sống hiện nay gắn liền với cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, tạo ra những tiền đề vật chất, tinh thần trong đấu tranh vì hoà bình dân tộc, tiến bộ xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong đấu tranh phòng, chống "diễn biến hoà bình” của các thế lực thù địch đối với nước ta hiện nay là quá trình tận dụng thời cơ, vượt qua thử thách, huy động và sử dụng tốt nhất các nguồn nội lực và ngoại lực, tạo nên sức mạnh tổng hợp, chủ động đối phó và làm phá sản âm mưu, thủ đoạn "diễn biến hoà bình” trên các lĩnh vực chính trị tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, đối ngoại, quốc phòng an ninh... của các thế lực thù địch, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Phân tích về vai trò của sức mạnh thời đại, nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phúc viết: Mặc dù có vai trò quyết định, nhưng sức mạnh dân tộc hay nội lực không phải là tất cả. Sẽ là hạn chế và khiếm khuyết nếu không biết đến những nguồn lực bên ngoài, những sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển, bài viết "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay", Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7-5-2012. Tác giả Nguyễn Nam Thắng đã phân tích trong bài "Tư tưởng Hồ Chí Minh về thi đua yêu nước và việc phát huy nội lực bảo vệ Tổ quốc hiện nay": Thực tiễn phát triển của dân tộc ta qua mấy nghìn năm lịch sử đã chứng tỏ sức mạnh to lớn về tinh thần yêu nước nồng nàn của dân tộc ta, giúp dân tộc ta vượt lên mọi khó khăn, thách thức giành những thành tựu vẻ vang trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Chủ nghĩa yêu nước là giá trị tốt đẹp đã khẳng định tầm cao nhân cách, chiều sâu văn hóa của mỗi công dân đối với Tổ quốc; đồng thời là sức mạnh tiềm tàng, nội sinh thường trực trong lòng dân tộc; là nguồn lực không bao giờ cạn trong suốt chiều dài lịch sử của đất nước. Đây còn là đặc trưng tiêu biểu về nhân cách của con người Việt Nam, là một trong những động lực quan trọng nhất góp phần gắn kết cộng đồng, giữ vững độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và thúc đẩy đất nước phát triển. "Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc hiện nay" của tác giả Trần Quang 12 Cơ, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, tháng 4 - 2005 nêu: Từ tính chất thời đại sâu sắc và ý nghĩa quốc tế to lớn của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng ta xác định rõ tầm quan trọng to lớn của những nhân tố bên ngoài đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta và ta có khả năng tranh thủ được các nhân tố đó để gia tăng sức mạnh của dân tộc lớn gấp bội. Không tận dụng được các nhân tố bên ngoài, không vận dụng được sức mạnh của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới ủng hộ ta thì có thể nói, kháng chiến khó giành được thắng lợi, hoặc phải đấu tranh rất trầy trật và không thể thắng lợi hoàn toàn. Tất nhiên, cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của ta giành được thắng lợi hay không chủ yếu là do quyết tâm của nhân dân ta, do sức mạnh của quân đội ta, của dân tộc ta, nhưng yếu tố quốc tế cũng quyết định một phần lớn. Đảng ta đã đề ra đường lối đối ngoại đúng đắn và hết sức sáng tạo, nên đã vận dụng được tối đa các nhân tố quốc tế, phát huy được sức mạnh thời đại ủng hộ nhân dân ta chống Mỹ thắng lợi. Ngoài ra, có nhiều bài viết, sách báo nêu lên vai trò của nội lực đối với sự phát triển của đất nước như: "Malayxia trông cậy vào sức mạnh và nguồn lực của chính mình" của Phương Ly đăng trên Tạp chí Đông Nam Á, số 3, 2005; "Nội lực Việt Nam" của Trần Thanh Đạm, Tạp chí Xưa và nay, số 236, 2005; "Vốn hóa các tài sản trong dân - Vấn đề quan trọng để huy động các nguồn lực cho đầu tư" của Đan Đức Hiệp, Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 149, 2009; "Quản lý ODA trong giáo dục ở Việt Nam: Nâng tầm ngoại lực" của Nguyễn Hữu Hiếu, Tạp chí Tài chính, số 4, 2007; "Nội lực vẫn là yếu tố quyết định" của Lê Hải, Tạp chí Đầu tư chứng khoán, số 286, 2005. 1.1.3. Về mối quan hệ giữa khai thác nội lực và khai thác ngoại lực Bài viết "Kết hợp sức mạnh với sức mạnh thời đại trong xây dựng và phát triển đất nước hiện nay", nhà nghiên cứu Nguyễn Văn Phúc - Viện Triết học, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam ngày 7-5-2012, phân tích mối quan hệ giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại: Với tư cách là nguồn lực của phát triển, sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại là thống nhất. Tuy nhiên, việc huy động và kết hợp hai nguồn lực này trong thực tế là có một vấn đề mà nếu không giải quyết hợp lý thì hiệu quả sẽ không cao. Đó là cách tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, xem nhẹ sức mạnh thời đại hay ngược lại, tuyệt đối hoá sức mạnh thời đại, xem nhẹ sức mạnh dân tộc đều là cách nhìn nhận phiến diện và bất lợi cho phát triển. 13 Khi tuyệt đối hoá sức mạnh dân tộc, người ta cho rằng, chỉ những nhân tố bên trong là trực tiếp quyết định sự phát triển của sự vật. Bởi vậy, nếu quá chú ý đến sức mạnh thời đại có nghĩa là hạn chế việc phát huy các yếu tố nội lực; là lệ thuộc vào nước ngoài, dễ dẫn tới mất độc lập và mất bản sắc trong phát triển. Ngược lại, quan điểm tuyệt đối hoá sức mạnh bên ngoài lại được biện minh bằng tính quy định của thời đại đối với phát triển. Một dân tộc khó có thể phát triển mạnh nếu đứng ngoài những tác động của yếu tố thời đại. Những giá trị thời đại là những giá trị hình thành trong quá trình hiện đại hoá đã dẫn đến những thành công, đặc biệt là những thành công về kinh tế, công nghệ ở các nước phát triển. Chúng mang ý nghĩa phổ quát và đặc trưng cho thời đại. Hiện đại hoá xã hội, do vậy, không thể xem nhẹ tính quy luật này; không thể không coi trọng và tiếp nhận những nguồn lực, những giá trị mang tính quốc tế, tính thời đại. Nếu chỉ chú ý đến nội lực, tuyệt đối hóa nội lực, thì sẽ rơi vào bảo thủ, biệt lập, trì trệ, tụt hậu. Từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về quan hệ giữa cái chung và cái riêng, giữa cái giai cấp, cái dân tộc và cái nhân loại phổ biến, có thể khẳng định rằng, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại có mối quan hệ biện chứng. Trong quan hệ này, việc phát huy sức mạnh dân tộc là có ý nghĩa quyết định, là cơ sở để mở rộng và tăng cường việc tranh thủ một cách có hiệu quả sức mạnh thời đại, và ngược lại, việc tận dụng sức mạnh thời đại là nhân tố không thể thiếu để phát triển và khơi dậy tiềm năng, sức mạnh dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh không khi nào xem nhẹ ngoại lực, sức mạnh thời đại, nhưng Người luôn nêu cao tinh thần "tự lực cánh sinh, dựa vào sức mình là chính”. Dựa vào sức mình là chính đòi hỏi phải đẩy mạnh việc tạo dựng nội lực, phát huy sức mạnh dân tộc. Sức mạnh dân tộc bao gồm cả những nguồn lực tự nhiên, kinh tế, văn hoá, con người,... Do vậy, việc phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi không chỉ đẩy mạnh tạo dựng, phát triển từng nguồn lực với tư cách là yếu tố cấu thành sức mạnh dân tộc, mà còn đòi hỏi kết hợp các yếu tố đó thành một hợp lực. Nói cách khác, yêu cầu phát huy sức mạnh dân tộc đòi hỏi phát triển đồng bộ các thành phần, các yếu tố của nội lực, sức mạnh dân tộc. Chủ động và tích cực xây dựng nội lực không chỉ có nghĩa là làm gia tăng bản thân nội lực, mà còn có nghĩa là tạo ra điều kiện để tiếp nhận ngoại lực. Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định rằng, muốn người ta giúp mình thì trước hết mình phải tự giúp mình đã. Phải đẩy mạnh xây dựng lực lượng bản thân mới tạo ra được "thế" và "lực" để tiếp nhận sự giúp đỡ từ bên ngoài. Hơn thế, từ bình diện chính trị có thể thấy, có xây dựng 14 và phát huy được sức mạnh dân tộc hay nội lực mới bảo đảm giữ vững được độc lập, tự chủ trên mọi lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh,... Đại hội Đảng lần thứ XI khẳng định: "Trong bất kỳ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ và nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế”. Độc lập, tự chủ chính là yêu cầu sống còn, là bản sắc, lẽ sống của dân tộc ta. Trong điều kiện hiện nay, những thành quả mà nhân loại đạt được trong thế giới hiện đại là những yếu tố vô cùng quan trọng đối với sự phát triển đất nước ta. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (2011) và Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011- 2020 đã khẳng định rằng, mục tiêu của chúng ta là làm sao đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, đến giữa thế kỷ XXI trở thành nước công nghiệp hiện đại theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Mục tiêu đó, một mặt, đòi hỏi phải hiện đại hoá các yếu tố thuộc sức mạnh dân tộc hay nội lực, mặt khác, đòi hỏi phải chủ động tích cực tiếp như các yếu tố sức mạnh thời đại hay ngoại lực, hiện đại tiêu biểu cho thời đại. Vốn nước ngoài, công nghệ hiện đại cùng những giá trị văn hoá tinh thần gắn liền với công nghệ hiện đại là nguồn ngoại lực, sức mạnh thời đại cần thiết cho sự phát triển đất nước hiện nay. Các yếu tố ngoại lực đó chính là tác nhân quan trọng không thể thiếu để hiện đại hoá đất nước. Nhưng, như đã phân tích, những vấn đề ngoại lực chỉ có thể phát huy tác dụng khi được tiếp nhận và chuyển hóa thành sức mạnh bên trong, thành nội lực. Về vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh từng viết: "Các nước bạn giúp ta cũng như thêm vốn cho ta, ta khéo dùng cái vốn ấy để bồi bổ lực lượng của ta, phát triển khả năng của ta”. Đó chính là biện chứng của quan hệ giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Như vậy, biện chứng của quan hệ giữa nội lực và ngoại lực, giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại dẫn đến yêu cầu là: tăng cường và phát huy những sức mạnh dân tộc cho phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để tiếp nhận những sức mạnh của thời đại. Đồng thời chủ động và tích cực tiếp sức thời đại, dân tộc hoá chúng, biến chúng thành sức mạnh bên trong cho phát triển. Thực hiện đồng bộ và hiệu quả hai yêu cầu đó sẽ tạo ra hợp lực, sức mạnh tổng hợp cho sự phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Bài “Tư tưởng của Phan Bội Châu về nội lực” của Nguyễn Văn Hoà đăng trên Tạp chí Triết học số 3, 2008, đã phân tích quan điểm rất tiến bộ của cụ Phan Bội Châu: Tăng cường sức mạnh nội lực không có nghĩa là đóng kín, khước từ sự giúp đỡ ở bên ngoài; trái lại, phải biết mở rộng và tăng cường tận dụng các yếu tố của nguồn lực bên ngoài để nhân lên sức mạnh của mình - sức mạnh nội 15 lực. Nguồn lực trong nước không tách rời với nguồn lực nước ngoài và trong mối quan hệ giữa hai nguồn lực này, Phan Bội Châu khẳng định, nguồn lực trong nước - nội lực là cái giữ vai trò quyết định; còn ngoại viện, một trong những yếu tố của nguồn lực nước ngoài - ngoại lực chỉ làm thanh thế cho nội lực mà thôi; lực lượng bên ngoài phải thông qua lực lượng bên trong mới phát huy được tác dụng của nó. Như vậy, ở đây, Phan Bội Châu đã nhận thức được vị trí, vai trò và sức mạnh của nội lực, cũng như nhận thức được mối quan hệ giữa tự lực, tự cường và viện trợ của nước ngoài. Phát huy nội lực từ nguồn sức mạnh của tinh thần dân chủ và quyền lực nhân dân, của ý chí tự lực, tự cường và kết hợp với tranh thủ khai thác mọi nguồn lực bên ngoài là một trong những chủ trương lớn của Phan Bội Châu nhằm tăng cường thực lực để vũ trang bạo động, diệt trừ dị tộc, giành lấy chính quyền về tay nhân dân, xoá bỏ tận gốc chính thể quân chủ xấu xa, lập nên chính thể dân chủ cộng hoà tốt đẹp. Tư tưởng hướng đến một xã hội mới cao hơn xã hội phong kiến đương thời đã có tác dụng kích thích, khuyến khích mọi người phát huy sức mạnh vì sự sống còn và tương lai của đất nước. Ngoài ra còn có một số bài viết đề cập đến vấn đề này như: "Kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại trong tình hình mới" của Nguyễn Hùng Sơn in trên Tạp chí Nghiên cứu quốc tế, số 83 (tháng 12 - 2010); Phát huy nội lực, tranh thủ các nguồn lực quốc tế để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước của Hồ Văn Vĩnh, Tạp chí Lý luận chính trị, số 12, 2005; Tư tưởng Hồ Chí Minh về kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại của Lưu Ngọc Khải, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 6, 2013. 1.2. Những công trình nghiên cứu về thực trạng khai thác nội lực và ngoại lực ở Việt Nam hiện nay 1.2.1. Thực trạng khai thác nội lực Cuốn sách People resoursing (Nguồn lực con người) của tác giả Stephen Taylor, do Học viện Cán bộ và phát triển (Chartered Institute of Personnel and Development) ở Anh ấn hành năm 2006. Nguồn lực con người là sách giáo khoa hàng đầu cho các mô đun nguồn lực con người CIPD và được liên kết chặt chẽ với các tiêu chuẩn CIPD. Nó cung cấp một cái nhìn tổng quan toàn diện về vấn đề quản lý nguồn nhân lực như thu hút các ứng cử viên tốt nhất, giảm số lượng, tăng năng suất lao động của nhân viên thông qua hướng dẫn thực tế và nền tảng lý thuyết. Tác giả Stephen Taylor cũng có một cuốn sách hay là Resoursing and talent management (Nguồn lực và quản lý tài năng) xuất bản năm 2010. 16 Trong bài "Đổi mới tư duy về nguồn lực và động lực phát triển kinh tế" của nhà nghiên cứu Ngô Doãn Vịnh - Viện trưởng Viện Chiến lược phát triển đăng trên Tạp chí Kinh tế và Dự báo, số 11, 2008, tác giả đã phân tích những vấn đề đặt ra từ nhận thức đến phương cách tiếp cận mới trong quá trình khai thác và sử dụng nguồn lực và tạo dựng động lực ở Việt Nam: + Các nguồn lực chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Chính sách đối với bảo vệ, khai thác, sử dụng tài nguyên chưa thoả đáng. + Trong khi Việt Nam thiếu điện, phải nhập từ Trung Quốc thì chúng ta xuất khẩu than sang Trung Quốc mà không dành để phát triển nhiệt điện. + Việt Nam có tiềm năng lớn về năng lượng mặt trời và năng lượng sinh học nhưng những nguồn tài nguyên này chưa được nghiên cứu khai thác thoả đáng. + Việt Nam là quốc gia không nhiều đất nông nghiệp, nhưng tình trạng làm nhà xưởng chỉ có một tầng tràn lan khắp nơi, gây ra tình trạng tốn nhiều đất cho phát triển công nghiệp và dịch vụ. Trong khi quỹ đất để phát triển đô thị không nhiều, khó đến nỗi mà người ta đòi mở rộng Thủ đô Hà Nội, nhưng không có chủ trương xây dựng các nhà chung cư cao tầng một cách có kế hoạch hữu ích mà cứ để nhân dân tự xây dựng nhà ở cá nhân tràn lan, hoặc không có chủ trương bắt các doanh nghiệp phải xây dựng nhà cao tầng đối với những trường hợp có thể như các lĩnh vực sản xuất hàng điện tử, hàng may mặc... Việt Nam đang rất thiếu nhân tài, nhưng có rất nhiều người đi học ở nước ngoài xong không về nước phục vụ và cống hiến. Nhiều người chạy ra khỏi cơ quan nhà nước, đi làm cho các công ty nước ngoài hoặc công ty trong nước có chế độ đãi ngộ tốt hơn. Việc Việt Nam thu hút nhân tài từ nước ngoài không kèm theo cơ chế chính sách nên vẫn chỉ là ý tưởng. Trong cuốn Phát huy nhân tố con người trong phát triển lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia ấn hành năm 2007, nhà nghiên cứu Phạm Công Nhất đã phân tích thực trạng phát huy nhân tố con người ở nước ta hiện nay. Tác giả chỉ ra rằng Việt Nam là một trong những quốc gia có dân số đông, đó là một thuận lợi cho việc huy động nguồn nhân lực, song, thị trường lao động Việt Nam cũng đang đứng trước nghịch lý "dồi dào những vẫn khan hiếm", thiếu đội ngũ lao động có chuyên môn kỹ thuật cao, thiếu thợ giỏi đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế. Trong cuốn Vấn đề tạo nguồn lực tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Vũ Hy Chương, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, với cách nhìn hệ thống, tác giả đã phân tích, đánh giá từng nguồn lực theo nguồn 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan