ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
LƯU THỊ THANH
VẤN ĐỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
Ở TỈNH LÀO CAI HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
HÀ NỘI - 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn khoa học của TS. Phạm Công Nhất.
Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn đều trung thực và có
nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày
tháng
Tác giả luận văn
Lưu Thị Thanh
2
năm 2009
MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
2
Lời cam đoan
3
Mục lục
4
MỞ ĐẦU
5
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về bình đẳng dân tộc và thực hiện bình đẳng
dân tộc ở Việt Nam hiện nay
11
1.1. Khái niệm bình đẳng dân tộc và quan điểm mác xít về vấn đề bình
đẳng dân tộc
11
1.2. Thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay - đặc điểm, nội
dung và những yêu cầu mới đặt ra
30
Chương 2: Thực trạng thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai hiện
nay – Thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội tỉnh Lào Cai
45
45
2.2. Phân tích thực trạng thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào
Cai hiện nay
58
Chương 3: Một số giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục những hạn chế trong
việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai hiện nay
70
3.1. Những phương hướng chủ yếu
70
3.2. Một số giải pháp chủ yếu
82
KẾT LUẬN
93
TÀI LIỆU THAM KHẢO
95
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vấn đề dân tộc nói chung và bình đẳng dân tộc nói riêng là một
trong những nội dung quan trọng trong hệ thống các quan điểm của Chủ
nghĩa Mác - Lênin, đồng thời cũng là một nội dung quan trọng trong tư
tưởng Hồ Chí Minh.
Ngày nay, vấn đề dân tộc đang diễn ra vô cùng phức tạp. Những
xung đột dân tộc, tộc người, những mưu đồ đồng hoá dân tộc vấn tiếp tục
tồn tại dưới nhiều sắc thái tinh vi. Sự gia tăng của ý thức dân tộc ở nhiều
quốc gia đa tộc người, việc giải quyết những mâu thuẫn hay tranh chấp liên
quan đến dân tộc, tôn giáo đòi hỏi chúng ta phải nhận thức một cách đầy đủ
hơn, sâu sắc và vận dụng một cách sáng suốt, cụ thể những quan điểm của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, đặc biệt
là vạch ra và thực hiện đúng chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước trong
một quốc gia đa tộc người.
Thực hiện bình đẳng dân tộc là vấn đề cơ bản có ý nghĩa quyết định đến
sự ổn định và phát triển của các quốc gia dân tộc trên thế giới nói chung và
Việt Nam nói riêng. Nhận thức được tầm quan trọng đó, Đảng và Nhà nước ta
luôn quan tâm đến vấn đề này, đặc biệt là những năm gần đây trong công
cuộc đổi mới đất nước, thực hiện quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
Đảng và nhà nước ta đã có nhiều đổi mới trong các chính sách về dân tộc.
Trên thực tế chúng ta đã thu được nhiều kết quả tốt đẹp góp phần quan trọng
vào công cuộc ổn định và phát triển đất nước.
Lào Cai là một trong những tỉnh thuộc vùng núi phía Bắc nước ta,
cũng là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc cùng sinh sống. Trong những năm
đổi mới vừa qua đời sống vật chất và tinh thần của bà con đồng bào các
4
dân tộc trên địa bàn toàn tỉnh đã có bước cải thiện theo hướng tích cực
cùng với đà phát triển chung của cả nước. Tuy nhiên, chính trong quá trình
phát triển đó cũng đã bắt đầu bộc lộ những vấn đề bất cập, trong đó có vấn
đề bất bình đẳng giữa các dân tộc trên địa bàn tỉnh về mặt kinh tế, giáo dục,
chăm sóc sức khỏe mang tính khách quan trong xu thế phát triển của nền
kinh tế mở cửa hiện nay.
Vấn đề bất bình đẳng giữa các dân tộc vốn là một xu hướng tất yếu thể
hiện mặt trái của nền kinh tế thị trường trong quá trình phát triển của bất kỳ
một quốc gia nào. Ở nước ta việc khắc phục xu hướng bất bình đẳng giữa các
dân tộc trong nền kinh tế như là một trong những mục tiêu định hướng xã hội
chủ nghĩa, thể hiện rõ bản chất ưu việt của chế độ mới. Do đó việc nghiên cứu
và tìm ra các giải pháp nhằm khắc phục xu hướng bất bình đẳng giữa các dân
tộc đang diễn ra ngày càng gay gắt tại một số tỉnh ở nước ta hiện nay đã và
đang đặt ra như là những vấn đề cấp thiết không chỉ về mặt thực tiễn mà trước
hết là những vấn đề lý luận cần được bổ sung hoàn chỉnh cho phù hợp với
thực tiễn của quá trình đổi mới ở nước ta hiện nay. Với ý nghĩa như vậy,
chúng tôi chọn đề tài: “Vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai hiện nay”
làm luận văn thạc sĩ triết học với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc chỉ ra
nguyên nhân và tìm ra biện pháp khắc phục thực trạng bất bình đẳng giữa các
dân tộc về mặt kinh tế là chủ yếu đang diễn ra với xu hướng ngày càng gay
gắt ở Lào Cai hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây, trong các tác phẩm của mình, C.Mác và Ăngghen tuy chưa
đưa ra một định nghĩa đầy đủ về dân tộc, công bằng, bình đẳng xã hội từ góc
độ dân tộc, quan hệ dân tộc, song trong rất nhiều tác phẩm, những vấn đề xã
hội giữa các dân tộc được xem xét trong mối quan hệ dân tộc - quốc gia, dân
tộc - tộc người, quan hệ giữa các giai cấp, dân tộc và quốc tế.
5
Đối với C.Mác, ông đã đưa ra luận điểm về công bằng và bình đẳng
trong tác phẩm "Phê phán cương lĩnh Gôta", gợi mở các tư tưởng về bình
đẳng xã hội. Trong tác phẩm "Chống Đuyrinh", Ph.Ăngghen từng nêu lên
luận điểm nổi tiếng về quyền bình đẳng giữa các dân tộc, phải được tuyên bố
là những "quyền con người". Trong "Tuyên ngôn Đảng cộng sản", hai ông
cũng đã chỉ rõ quyền bình đẳng giữa các dân tộc chỉ có được khi giai cấp
công nhân nắm chính quyền.
Những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ăngghen đã được V.I.Lênin
chọn lọc, kế thừa, bổ sung và phát triển thành quan điểm chung của chủ nghĩa
Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và công bằng, bình đẳng xã
hội trong quan hệ dân tộc.
Đối với Lênin, ông đã nêu lên vấn đề dân tộc và bình đẳng dân tộc
trong các tác phẩm như: Ý kiến phê phán về vấn đề dân tộc, Quyền dân tộc tự
quyết, Cương lĩnh về vấn đề dân tộc, Tổng kết cuộc tranh luận về quyền dân
tộc tự quyết… Những quan điểm đó cho đến nay vẫn giữ nguyên giá trị và là
những chỉ dẫn quý báu đối với các Đảng cộng sản trong cuộc đấu tranh vì
công bằng và bình đẳng giữa các dân tộc.
Ở Việt Nam, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh hết sức quan tâm đến giải quyết vấn đề dân tộc, thực hiện nhất quán
chính sách dân tộc bình đẳng, công bằng, đoàn kết, giúp đỡ tương trợ nhau
giữa các dân tộc tạo nên sức mạnh vô địch của khối đại đoàn kết dân tộc.
Chính vì vậy, ngoài các chính sách của Đảng và Nhà nước về vấn đề
dân tộc, còn có rất nhiều đề tài, các công trình nghiên cứu về vấn đề dân tộc
và bình đẳng dân tộc như:
6
Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và
thực tiễn về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nhà xuất Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
Nhiều tác giả (1999), Chính sách dân tộc: Những vấn đề lý luận và
thực tiễn, Nhà xuất bản Sự thật, Hà Nội.
Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - vấn
đề và giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Hoàng Vi (2005), Các dân tộc bình đẳng đoàn kết giúp nhau cùng phát
triển, Nhà xuất bản Văn hóa các dân tộc, Hà Nội.
PGS,TS Nguyễn Quốc Phẩm (1999), Công bằng và bình đẳng xã hội
trong quan hệ tộc người ở các quốc gia đa tộc người, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội.
PGS, TSKH Phan Xuân Sơn, ThS Lưu Văn Quảng (2002), Những vấn
đề cơ bản về chính sách dân tộc ở nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị
Quốc gia, Hà Nội…
Tất cả những nghiên cứu trên rất có giá trị trong việc góp phần vạch ra
phương hướng, đường lối cụ thể đối với vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc
ở Việt Nam. Tuy nhiên, các nghiên cứu chưa đề cập đến vấn đề dân tộc và
bình đẳng dân tộc trên khía cạnh văn hoá, xã hội đối với một tỉnh cụ thể nào.
Vì vậy, đây chính là điều còn thiếu cần được bổ sung.
Đối với tỉnh Lào Cai, ngoài những nghiên cứu của Ban dân tộc tỉnh và
của Sở tư pháp về vấn đề văn hoá, xã hội, định hướng phát triển cho vùng cao
ở Lào Cai, thì từ trước đến nay chưa có một đề tài cụ thể nào về vấn đề bình
đẳng dân tộc giữa các dân tộc trong tỉnh. Có thể thấy, nghiên cứu vấn đề bình
đẳng dân tộc ở một tỉnh miền núi với những nét đặc thù như ở tỉnh Lào Cai
7
còn là một nội dung mới mẻ trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy, chúng
tôi chọn vấn đề này làm luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích của luận văn là trên cơ sở nghiên cứu thực trạng thực hiện
vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai những năm qua, luận văn bước
đầu đề xuất một số giải pháp nhằm góp phần khắc phục thực trạng bất bình
đẳng giữa các dân tộc về kinh tế, văn hoá, giáo dục.. trên địa bàn tỉnh Lào
Cai hiện nay. Luận văn có các nhiệm vụ sau đây:
- Khái quát những vấn đề lý luận chung về vấn đề bình đẳng dân tộc
dựa trên những quan điểm mácxít, trình bày đặc điểm và những yêu cầu đặt ra
đối với việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích thực trạng thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào
Cai hiện nay: những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập
trong việc thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở Lào Cai hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những vấn đề lý luận và thực
tiễn liên quan đến việc thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào
Cai hiện nay.
Về phạm vi nghiên cứu của luận văn chủ yếu đề cập tới các vấn đề về
thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai từ năm 1991 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn dựa trên những quan điểm, lý luận cơ bản của Chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu những vấn lý luận và luận giải
những vấn đề thực tiễn có liên quan đến đề tài.
8
Luận văn sử dụng các phương pháp chung, phân tích - tổng hợp, diễn
dịch - quy nạp cùng một số phương pháp đặc thù có liên quan đến đề tài của
luận văn
6. Đóng góp của luận văn
Về lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ và sâu
sắc thêm lý luận về vấn đề bình đẳng dân tộc và giải quyết bình đẳng dân
tộc trong điều kiện và hoàn cảnh mới hiện nay. Trên cơ sở đó góp phần vào
việc hoạch định chính sách và đề ra những nhiệm vụ cụ thể đối với chính
sách dân tộc ở miền núi, vùng cao nói chung, với tỉnh Lào Cai nói riêng
trong giai đoạn tới.
Về thực tiễn: Luận văn được bảo vệ thành công có thể sử dụng làm tài
liệu tham khảo cho công tác giảng dạy và nghiên cứu khoa học về môn lý
luận Mác – Lênin ở trường Cao đẳng Cộng đồng tỉnh Lai Châu.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, luận
văn bao gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Một số vấn đề lý luận vấn đề bình đẳng dân tộc và thực hiện
bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào
Cai hiện nay - thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra.
Chương 3: Một số phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm khắc phục
những hạn chế trong việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Lào Cai trong
giai đoạn cách mạng mới.
9
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC VÀ THỰC
HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Khái niệm bình đẳng dân tộc và quan điểm mác xít về vấn đề
bình đẳng dân tộc
1.1.1. Khái niệm về bình đẳng dân tộc
C.Mác đã từng viết: Lịch sử phát triển của xã hội loài người là lịch sử
của các cuộc đấu tranh giai cấp… Như vậy, ngay từ khi xã hội loài người có
sự phân chia giai cấp, con người đã luôn đấu tranh nhằm vươn tới sự giải
phóng. Trong những mục tiêu của sự nghiệp giải phóng ấy, bình đẳng và công
bằng xã hội vừa là vấn đề cơ bản vừa là vấn đề lâu dài. Đối với chủ nghĩa xã
hội, bình đẳng và công bằng xã hội là nguyện vọng tha thiết của nhân dân
đồng thời là một trong những mục tiêu và động lực quan trọng của sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Công bằng có thể hiểu là nguyên tắc ứng xử xã hội nhằm tạo các điều
kiện cho con người tìm kiếm những cơ hội sinh tồn và phúc lợi, không phụ
thuộc vào những định kiến có sẵn và vị trí xã hội của họ, giải phóng con
người khỏi những trở ngại cách biệt do tình trạng đặc quyền, đặc lợi mang lại.
Với tư cách là một nguyên tắc luân lý, công bằng luôn luôn có thước
đo xã hội và luôn luôn gắn với các khái niệm “bình đẳng”, “pháp lý” và
“pháp quyền”.
Sự công bằng được xem xét trong hai mối quan hệ chủ yếu: (1) Công
bằng trong “phân chia” lợi ích (trong các hành vi hoạt động kinh tế như mua –
bán, sản xuất, kinh doanh, tìm kiếm lợi nhuận… ). Nói cách khác đó là sự
công bằng trong mối quan hệ dân sự. Công bằng trong quan hệ này phải tính
tới mọi sự khác biệt như tài năng, lợi thế, tuổi tác… Đảm bảo công bằng ở
10
đây phải theo một tỷ lệ hợp lý. (2) “Công bằng điều chỉnh”, nghĩa là đảm bảo
sự ngang bằng, ngang giá trị mà không tính tới bất kỳ một sự khác biệt nào
khác. Nói tới bình quân, đồng đều. Để đạt được sự công bằng này, trong đời
sống xã hội cần có sự điều chỉnh, điều tiết. Sự điều chỉnh điều tiết này chủ
yếu nằm trong tay nhà nước, trong sự thống trị chính trị, hay nói cách khác,
nó được thực hiện trong xã hội chính trị.
Sự công bằng chỉ đạt được thực sự nếu giải quyết được hai nội dung
trên và luôn gắn với đời sống chính trị.
Sự công bằng giữa các tộc người trong một quốc gia cũng đặt trong yêu
cầu trên. Nếu chỉ giải quyết công bằng theo quan hệ thứ nhất thì mặc dù rất
xác đáng nhưng sẽ có tộc người bị tụt hậu vĩnh viễn, thậm chí bị tuyệt chủng.
Vì vậy cần thực hiện công bằng trong cả quan hệ thứ hai. Đó là nguyên tắc
công bằng bình đẳng, giúp đỡ nhau cùng phát triển mà Đảng và Nhà nước ta
đã chủ trương và thực hiện trong chính sách dân tộc ở nước ta.
Vậy bình đẳng là gì, thế nào là bình đẳng xã hội là và bình đẳng dân
tộc? Cần làm rõ một số khái niệm để hiểu cụ thể hơn như sau:
- Bình đẳng: Có nghĩa là sự ngang bằng nhau về một phương diện nào
đó giữa hai hay một số sự vật cùng tham gia một quan hệ nhất định. Trong
cuốn “Từ điển chủ nghĩa cộng sản khoa học” Nhà xuất bản Sự thật – 1986 thì
khái niệm “Bình đẳng – là những điều kiện và khả năng như nhau đối với việc
tự do phát triển các năng lực và thỏa mãn các nhu cầu của tất cả các thành
viên trong xã hội, địa vị như nhau của mọi người trong xã hội… ”.
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” – Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội
– Việt Nam xuất bản năm 1992 thì khái niệm “bình đẳng – ngang bằng nhau
về địa vị và quyền lợi”, ví như mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật,
nam nữ bình đẳng.
11
Khái niệm bình đẳng ngày nay là một giá trị xã hội, là thành quả của
nhân loại trong quá trình phát triển nhằm tạo ra các điều kiện, cơ hội ngang
nhau, không phân biệt dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, giới, địa vị xã hội… trong
các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, nhằm mưu cầu
hạnh phúc.
Từ những khái niệm trên ta có thể thấy rằng: Bình đẳng xã hội là sự
ngang bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm cộng đồng xã hội về một
phương diện hay những phương diện xã hội nhất định nào đó, chẳng hạn như
bình đẳng (sự ngang bằng nhau) về quyền và nghĩa vụ công dân, về địa vị xã
hội, về khả năng, về cơ hội, về mức độ thỏa mãn những nhu cầu cụ thể nhất
định trong các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội… Từ lôgíc đó ta có
thể nói rằng sự ngang bằng nhau giữa người với người (hoặc giữa các nhóm
cộng đồng với nhau) về mọi phương diện, là nói tới một sự bình đẳng xã hội
toàn diện, hoàn toàn. Bình đẳng xã hội chỉ đặt ra trong sự so sánh về phương
diện xã hội. Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác biệt về mặt tự nhiên,
sinh vật chứ không phải chỉ là sự khác nhau về mặt xã hội. Trong tác phẩm
“Phê phán cương lĩnh Gôta” Mác đã đấu tranh chống lại quan điểm rất trừu
tượng của Lát-Xan về vấn đề bình đẳng xã hội. Ông cho rằng công bằng và
bình đẳng xã hội trong chủ nghĩa xã hội phải gắn liền với việc xóa bỏ giai cấp
bóc lột, điều đó không có nghĩa là xã hội sẽ có bình đẳng hoàn toàn.
C.Mác đã chỉ rõ: “Quyền ngang nhau ấy là một quyền không ngang
nhau đối với một lao động không ngang nhau, nó không thừa nhận một sự
phân biệt giai cấp nào cả vì bất cứ người nào cũng chỉ là một người lao động
như những ngưới khác, nhưng nó lại mặc nhiên thừa nhận sự không ngang
nhau về mặt năng khiếu cá nhân và do đó về năng lực lao động, coi đó là
những đặc quyền tự nhiên. Vậy theo nội dung của nó, đó là một thứ quyền
không ngang nhau cũng như bất cứ quyền nào” [4, tr. 479]
12
Những luận cứ ở trên đã cho thấy nó thể hiện quan điểm của các nhà
Mácxít về tiêu chí, chuẩn mực của bình đẳng xã hội (tức là những tiêu chuẩn
về sự phù hợp giữa cái mà cá nhân hay nhóm xã hội được hưởng) là do xã hội
đặt ra. Những tiêu chí, chuẩn mực đó có sự biến đổi, phát triển theo điều kiện
của lịch sử cụ thể. Do đó, có thể xem bình đẳng xã hội là một giá trị có tính
chất định hướng để con người thỏa mãn những nhu cầu cơ bản về nhu cầu đời
sống vật chất và tinh thần trong mối quan hệ tương đối hợp lý giữa các cá
nhân và nhóm xã hội, phù hợp với khả năng, hiện thực của những điều kiện
kinh tế - xã hội nhất định.
Từ sự phân tích trên cũng cho thấy vấn đề bình đẳng xã hội trong tư
tưởng của Mác giúp chúng ta hiểu rõ khái niệm bình đẳng xã hội và mối liên
hệ của nó với các khái niệm khác, đặc biệt là khái niệm bình đẳng dân tộc –
một trong những nguyên lí quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin, một nội
dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh và là một quan điểm cơ bản trong quá
trình lãnh đạo cách mạng của Đảng ta.
Bình đẳng dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân
biệt dân tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hoá, dân trí cao hay thấp,
không phân biệt chủng tộc màu da. Nội dung của quyền bình đẳng giữa các
dân tộc được thể hiện ở chỗ: các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa
vụ trên tất cả các lĩnh vực trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và
mọi người có cơ hội phát triển, được bảo đảm bằng pháp luật.
Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước,
quyền tham chính của các dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế là sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các dân tộc
và các vùng.
13
Bình đẳng về văn hoá là các dân tộc có sự phát triển hài hoà trong một
nền văn hoá đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc mà
trái lại bản sắc văn hoá của các dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát
triển; các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói và chữ viết của mình, sự hưởng
thụ văn hoá và dân trí của các dân tộc đều được nâng cao.
Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước ta. Do quy luật phát triển không đồng đều, hơn nữa, do
hậu quả của chính sách cai trị của thực dân trước đây, nên các dân tộc ở nước
ta còn chênh lệch về trình độ phát triển. Mục tiêu của chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nước là giải quyết hài hoà sự chênh lệch đó. Bởi vậy, thực hiện
bình đẳng giữa các dân tộc ở nước ta chính là cơ sở cho việc xoá bỏ sự nô
dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác, là tạo điều kiện để khắc phục sự
chênh lệch về trình độ phát triển trên mọi lĩnh vực giữa các dân tộc.
1.1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh
và của Đảng ta về vấn đề bình đẳng dân tộc.
- Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề bình đẳng dân tộc.
Học thuyết Mác – Lênin về vấn đề dân tộc được thể hiện trên nhiều lĩnh
vực của đời sống xã hội như vấn đề dân tộc bình đẳng, dân tộc tự quyết, liên
hiệp công nhân các dân tộc, dân tộc tư bản chủ nghĩa, dân tộc xã hội chủ
nghĩa… Trong đó vấn đề bình đẳng dân tộc là một trong những nguyên lý rất
quan trọng của chủ nghĩa Mác – Lênin.
Trong nhiều tác phẩm bàn về vấn đề dân tộc, các nhà kinh điển của chủ
nghĩa Mác – Lênin đã gắn vấn đề dân tộc với vấn đề giai cấp, gắn mục tiêu
đấu tranh cho bình đẳng dân tộc với mục tiêu đấu tranh cho bình đẳng xã hội,
coi mục tiêu đấu tranh cho bình đẳng dân tộc như là một bộ phận không tách
rời của mục tiêu đấu tranh cho bình đẳng xã hội. Trong “Tuyên ngôn của
14
Đảng cộng sản” C.Mác và Ăngghen viết: “Hãy xoá bỏ nạn người bóc lột
người thì nạn dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng bị xoá bỏ” [3, tr. 565].
Lênin trong tác phẩm “Về quyền dân tộc tự quyết” đã nêu: Các dân tộc có
quyền bình đẳng… là một trong những nội dung cơ bản của cương lĩnh dân
tộc. Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác –
Lênin, bình đẳng dân tộc thực chất là xoá bỏ tình trạng người bóc lột người,
để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này có đặc quyền, đặc lợi so với dân tộc
khác, dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Đó là lý do ông xem việc giải quyết
vấn đề bình đẳng dân tộc như là một bộ phận không thể thiếu trong cương
lĩnh cách mạng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Việc thực hiện
bình đẳng xã hội nói chung là là mục tiêu bao trùm, do đó, có ý nghĩa quyết
định việc thực hiện bình đẳng dân tộc; ngược lại việc thực hiện bình đẳng dân
tộc sẽ góp phần thực hiện bình đẳng xã hội, là một trong những nhân tố thúc
đẩy bình đẳng xã hội. Không xoá bỏ bất bình đẳng giữa người với người thì
bất bình đẳng về dân tộc không bao giờ xoá bỏ được; ngược lại không xoá bỏ
bất bình đẳng về dân tộc thì việc xoá bỏ bất bình đẳng xã hội không bao giờ
được thực hiện triệt để, đầy đủ. Một xã hội xây dựng trên nền tảng chế độ
người bóc lột người sẽ không thể nào giải quyết được triệt để vấn đề bình
đẳng dân tộc. Bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực hiện từng bước trong tiến
trình cách mang xã hội chủ nghĩa trong mỗi quốc gia dân tộc dưới sự lãnh đạo
của giai cấp công nhân nhằm cải tạo xã hội một cách toàn diện, triệt để.
Xét về nội dung, bình đẳng dân tộc theo quan niệm của chủ nghĩa Mác
– Lênin là bình đẳng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong đó trước hết là bình đẳng về kinh tế. Ở phương diện này, bình đẳng dân
tộc phụ thuộc vào sự đồng đều của trình độ phát triển kinh tế của các dân tộc,
trong đó chủ yếu là sự đồng đều về lực lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng
Đức” C.Mác viết: “Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều
15
phụ thuộc vào trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản
xuất, phân công lao động và sự giao tiếp nội bộ” [5. tr. 30].
Điều C.Mác nói trên đây có thể hiểu là không ngừng phát triển lực
lượng sản xuất, vượt qua tình trạng lạc hậu về kinh tế, vươn lên trình độ sản
xuất tiên tiến của thời đại là con đường đưa dân tộc lên địa vị bình đẳng với
các dân tộc khác.
Những quan điểm của C.Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc được
Lênin phát triển hơn nữa, xây dựng nên một lí luận toàn diện và sâu sắc về
dân tộc và những quan hệ dân tộc, từ đó làm cơ sở cho chính sách của Đảng
Bôn – Sê – vích trong vấn đề dân tộc. Khi phê phán những quan điểm xã hội
học của những người dân tuý Nga, Lênin đã chứng minh cho mối liên hệ
khăng khít giữa hình thái tư bản chủ nghĩa và dân tộc. Lênin đã chỉ ra rằng,
những mối liên hệ dân tộc, đoàn kết mọi người lại thành những liên hiệp xã
hội to lớn, trên những lãnh thổ tương đối khép kín, về sau đã không còn là
những mối liên hệ thân thuộc hay những cộng đồng huyết thống nữa, mà trở
thành trước hết là những mối liên hệ kinh tế của nền sản xuất hàng hoá và trao
đổi hàng hoá. Nghiên cứu vấn đề dân tộc, Lênin ngay từ đầu đã tập trung sự
chú ý của mình vào cơ sở kinh tế và bản chất xã hội của dân tộc.
Như vậy, những luận điểm của các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
– Lênin đã trình bày ở trên đều đi tới một điểm chung là sự phát triển của
kinh tế là yếu tố quyết định tới sự ổn định, phát triển của các dân tộc,
đồng thời cũng là yếu tố quyết định đưa dân tộc đó lên địa vị bình đẳng
với các dân tộc khác.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của sự bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực kinh
tế, chủ nghĩa Mác – Lênin còn nhận thấy ý nghĩa của sự bình đẳng dân tộc
trên các lĩnh khác trước hết là trên lĩnh vực văn hoá. Văn hoá là biểu hiện của
16
kết tinh những giá trị nổi bật của dân tộc. Mỗi dân tộc có một nền văn hoá
mang đậm bản sắc dân tộc của mình - yếu tố mà nhờ đó phân biệt được dân
tộc này với dân tộc khác - được biểu hiện đậm nét nhất. Văn hoá của mỗi dân
tộc tạo thành sức sống bền vững của mỗi dân tộc. Nền văn hoá với các bản
sắc dân tộc riêng mất đi thì dân tộc cũng tan biến với tính cách một cộng đồng
riêng độc lập. Nền văn hoá theo nhận thức của nhân loại hiện nay không chỉ
là kết quả của sự phát triển kinh tế - xã hội mà còn là động lực của sự phát
triển kinh tế - xã hội. Các dân tộc đều có trách nhiệm tham gia xây dựng nền
văn hoá mới, xây dựng đời sống văn hoá tinh thần mới trên cơ sở chủ nghĩa
Mác – Lênin. Các dân tộc đều có quyền giữ bản sắc văn hoá của dân tộc
mình, đồng thời tôn trọng văn hoá dân tộc bạn, được hưởng thụ các giá trị văn
hoá, đồng thời động viên tham gia sáng tạo những giá trị văn hoá mới. Có
quyền có tiếng nói chữ viết riêng đồng thời phải tôn trọng ngôn ngữ chung.
Các dân tộc mà văn hoá chậm phát triển được giúp đỡ tạo điều kiện phát triển
đồng đều với trình độ dân tộc chung, cùng tích cực tham gia đấu tranh với
những biểu hiện phản văn hoá qua đó xây dựng nền văn hoá mới xã hội chủ
nghĩa. Các dân tộc đều được học tập không hạn chế về thời gian và cấp học,
có quyền học tập tiếng nói và chữ viết riêng của dân tộc mình hoặc dân tộc
khác hoặc tiếng phổ thông. Đều được chăm sóc sức khoẻ, chữa bệnh, tiếp cận
điều kiện phát triển thân thể cải thiện giống nòi. Các dân tộc đều được khuyến
khích giúp đỡ giữ gìn môi sinh môi trường khu dân cư văn minh. Các dân tộc
mà dân trí thấp, sức khoẻ kém, môi trường bị phá huỷ được các dân tộc khác
giúp đỡ phát triển đồng đều hơn.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, bình đẳng dân tộc còn là
kết quả của sự nỗ lực tự thân vươn lên trình độ tiến bộ của từng dân tộc. Đồng
thời một phần không kém quan trọng, đó là kết quả của sự giải quyết đúng
đắn mối quan hệ giữa các dân tộc theo tinh thần xích lại gần nhau, hoà hợp
17
với nhau hơn nữa. Sự kết hợp những yếu tố bên trong và bên ngoài tạo điều
kiện cho mỗi dân tộc phát huy tối đa mọi tiềm lực của dân tộc mình cộng với
sự giúp đỡ, tương trợ lẫn nhau của các dân tộc anh em để tiến lên với tốc độ
nhanh. Chỉ bằng con đường ấy mới có thể thực hiện có hiệu quả việc xoá bỏ
sự chênh lệch về trình độ phát triển mọi mặt, một nguyên nhân sâu xa duy trì
tình trạng bất bình đẳng dân tộc.
Những luận điểm quan trọng mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác
– Lênin đã nêu ở trên, một lần nữa khẳng định nội dung của bình đẳng dân tộc
là bình đẳng toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội: kinh tế,
văn hoá, xã hội… trong đó thực hiện bình đẳng về kinh tế là nội dung cơ bản
nhất. Để có được bình đẳng dân tộc thực sự, hoàn toàn phải có sự nỗ lực phấn
đấu vươn lên của các quốc gia, dân tộc nói riêng và sự giúp đỡ tương trợ lẫn
nhau giữa các quốc gia dân tộc nói chung.
Như vậy các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin đã đặt bình đẳng dân
tộc vào khuôn khổ của bình đẳng xã hội, đưa tiến trình của cuộc đấu tranh
giành quyền bình đẳng dân tộc hoà nhập vào tiến trình chung của cuộc đấu
tranh cách mạng nhằm giải phóng con người.
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề bình đẳng dân tộc.
Truyền thống yêu nước, tự chủ, bất khuất, kiên cường, đoàn kết kết hợp
với chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc là nhân tố quan trọng nhất quyết
định hình thành tư tưởng bình đẳng giữa các dân tộc – Một trong những tư
tưởng lớn về vấn đề dân tộc của Hồ Chí Minh.
Tư tưởng bình đẳng dân tộc của Hồ Chí Minh được hình thành ngay
trong quá trình Người đi tìm đường cứu nước. Khi người nghiên cứu xem xét
thực trạng những xã hội được coi là thành quả của những cuộc cách mạng tư
18
sản tiến bộ nhất như xã hội Mỹ, xã hội Pháp… Người rút ra kết luận: “Tư bản
nó dùng chữ tự do, bình đẳng, đồng bào để lừa dân… ” [21, tr. 274].
Từ thực tế đó, cùng với mong muốn tìm ra và thiết lập cho được một
chế độ thực sự dân chủ, để trong đó mối quan hệ bình đẳng giữa các dân tộc
được tồn tại, phát triển trên cơ sở của chính nó đã dẫn Người đến với chủ
nghĩa Mác – Lênin, Người nghiên cứu cách mạng tháng Mười Nga và rút ra
kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật” [21, tr. 280].
Hồ Chí Minh vận dụng lí luận Mác – Lênin một cách sáng tạo và kế
thừa truyền thống dân tộc để đề ra chiến lược và sách lược cho cách mạng
Việt Nam.
Vấn đề bình đẳng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở
hai nội dung cơ bản:
Một là: Bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực hiện khi dân ta được độc lập,
nhân dân ta được tự do, đất nước ta thống nhất, có chủ quyền. Nghĩa là ở đây
bình đẳng dân tộc gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng và giữ vững nền
độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ của dân tộc. Bình đẳng dân tộc là quyền
thiêng liêng, bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc. Mở đầu bản Tuyên ngôn độc
lập của Việt Nam năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời của bản Tuyên
ngôn độc lập của Mĩ và bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
để khẳng định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bình đẳng dân
tộc trong quan niệm của Hồ Chí Minh khác xa bình đẳng của giai cấp tư sản.
Những gì mà giai cấp tư sản đã làm đối với các dân tộc thuộc địa và phụ
thuộc chỉ là lời nói chứ không hề có trong thực tế. Ngược lại Hồ Chí Minh
cho rằng bình đẳng dân tộc không chỉ được cụ thể hoá về mặt pháp lý mà
19
quan trọng hơn là phải được thực hiện trong thực tế. Và chính Người đã thực
hiện điều đó. Ngay sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ
Chí Minh thay mặt chính phủ Việt Nam khẳng định, các dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam đều bình đẳng và Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ
các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Ngay sau đó, trong Chính phủ, Nha dân tộc
thiểu số đã được thành lập “để săn sóc cho tất cả đồng bào”.
Hai là: Bình đẳng dân tộc gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng
con người, gắn với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân. Quyền
bình đẳng dân tộc thực chất là quyền bình đẳng của con người trên mọi lĩnh
vực của đời sống xã hội, và mục tiêu lớn lao đó chỉ có thể bắt đầu bằng cuộc
cách mạng tư sản dân quyền. Trong cuộc cách mạng đó, Người đặt quyền lợi
quốc gia cao hơn hết, mục tiêu độc lập dân tộc của cả dân tộc Việt Nam phải
được thực hiện trước tiên, trong lúc các nhiệm vụ, các mục tiêu khác phải
phục tùng và thực hiện từng bước, tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc
dọn đường cho cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Người chỉ ra rằng, độc lập dân tộc trở thành mục tiêu hàng đầu của
cách mạng Việt Nam, là điều kiện tiên quyết cho dân tộc ta được quyền sống
bình đẳng với các dân tộc khác trên thế giới, đồng thời các dân tộc khác trong
nước ta được chung sống bên nhau một cách bình đẳng. Khi quốc gia dân tộc
bị thống trị bởi đế quốc ngoại bang thì các quyền của mỗi dân tộc cũng bị chà
đạp. Do đó, không giành được độc lập dân tộc thì cũng không thể nói tới việc
thực hiện bình đẳng dân tộc.
Một trong những tư tưởng lớn của Hồ Chí Minh là: “Không có gì quý
hơn độc lập tự do” được thể hiện nổi bật trong những thời điểm có tính bước
ngoặt của lịch sử.
20
- Xem thêm -