Lời mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hoá và quốc tế nền kinh tế, hội nhập
và tham gia các tổ chức kinh tế quốc tế là xu thế không thể đảo ngợc
đối với mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế của mình.
Cùng với việc thực hiện đờng lối chủ động hội nhập kinh tế
quốc tế, Việt nam đã đạt đợc thành tựu khá ngoạn mục trong việc
đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá. Trong khi những mặt hàng xuất khẩu
của Việt nam ngày càng có uy tín trên thị trờng thế giới đã xuất hiện
một số trờng hợp hàng xuất khẩu của nóc ta bị nớc nhập khẩu điều
tra và áp dụng thuế chống bán phá giá để tạo ra hàng rào bảo hộ,
ngăn cản hàng hoá của ta không cho xuất khẩu vào thị trờng của nớc
họ. Việt nam tham gia vào ASEAN, APEC và đàm phán xin gia
nhập WTO đồng nghĩa với sự thay đổi sâu sắc các chính sách thơng
mại liên quan tới việc mở cửa thị trờng. Hiện tợng bán phá giá hàng
nớc ngoài chắc chắn sẽ ngày càng tăng trên thị trờng nớc ta, có thể
gây ra những tổn thất lớn cho các nhà sản xuất tơng tự trong nớc do
hàng rào bảo hộ bằng các biện pháp hạn chế định lợng có thể biến
mất, đồng thời thuế suất thuế nhập khẩu cũng giảm xuống.
Đứng trớc thực tế đó, đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu và sớm
áp dụng các công cụ bảo hộ mới phù hợp với các quy định của Tổ
chức Thơng mại Thế giới (WTO) trong đó có thuế chống bán phá
giá. Đây là việc làm mang tính cấp bách và cần thiết vì lợi ích và
yêu cầu của đất nớc. Đạt đợc điều này, đòi hỏi nớc ta phải hoàn
thiện hệ thống pháp lý thơng mại trớc khi đợc kết nạp là thành viên
của WTO nhằm bảo vệ công nghiệp sản xuất nội địa và bảo vệ thị
-1-
trờng hàng hoá trong nớc chống lại việc bán phá giá hoặc chống lại
các trợ cấp mang tính chất kỳ thị đối với hàng hoá xuất khẩu của
Việt nam.
Do mức độ rộng lớn của vấn đề đòi hỏi phải có sự nghiên cứu
của nhiều ngành, nhiều cấp nên khoá luận tốt nghiệp này chỉ đề cập
tới một số nét khái quát về lý luận của việc bán phá giá, thuế chống
bán phá giá và thực trạng áp dụng thuế chống bán phá giá tại một số
nớc đại diện cho những khu vực kinh tế điển hình, cũng nh thực
trạng và giải pháp của Việt nam trớc việc hàng hoá nớc ngoài nhập
khẩu vào bán phá giá ở thị trờng nớc ta và việc hàng xuất khẩu của
Việt nam ra nớc ngoài bị kiện bán phá giá qua vụ việc Hiệp hội các
chủ trại nuôi cá Nheo Mỹ(CFA) kiện các doanh nghiệp xuất khẩu
Việt nam bán phá giá sản phẩm fillet cá Tra và cá Basa trên thị trờng Mỹ.
Nhân đây tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành tới Thầy giáo Tiến sĩ Vũ Sỹ Tuấn - Chủ nhiệm Khoa Kinh tế Ngoại thơng đã tận
tình giúp đỡ và chỉ bảo để tôi hoàn thành khoá luận tốt nghiệp này.
Hà nội, tháng 5 năm 2003
-2-
CHƯƠNG I
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA VIỆC ÁP DỤNG THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
I.
KHÁI NIỆM VÀ Ý NGHĨA KINH TẾ CỦA THUẾ
CHỐNG BÁN PHÁ GIÁ
1. Lịch sử và nguồn gốc của bán phá giá
Khái niệm “bán phá giá” trong thương mại quốc tế có một lịch
sử lâu đời. Trong những cuộc tranh luận tại Mỹ năm 1791,
Alexander Halinton đã cảnh báo về các thủ pháp của các đối thủ
cạnh tranh bán hạ giá tại các nước khác để nhằm mục tiêu chiếm
lĩnh thị trường. Những trường hợp bán phá giá của các nhà sản xuất
Anh tại thị trường mới mẻ ở nước Mỹ đã được báo cáo. Cuộc tranh
luận của công chúng về vấn đề này, cùng nhiều nỗ lực của ngành
lập pháp nhằm đối phó với nó cũng được ghi nhận trong gần hết thế
kỷ 19. Đầu thế kỷ XX, Đạo luật chống bán phá giá cụ thể đầu tiên
được ban hành ở Canada năm 1904. Sau đó Luật chống bán phá giá
được ban hành tại Newzealand năm 1905, Australia năm 1906 và
Nam phi năm 1914. Nước Mỹ có Đạo luật chống bán phá giá năm
1916 và nước Anh có vào năm 1921.
-3-
Khi xây dựng Hiệp định chung về Buôn bán và Thuế quan
(GATT) năm 1947, một điều khoản đặc biệt về các trường hợp
chống bán phá giá đã được soạn thảo. Điều VI của GATT cho phép
các bên ký kết được sử dụng các sắc thuế chống bán phá giá để bù
trừ mức phá giá của các hàng nhập khẩu, miễn là chứng minh được
việc bán phá giá đang gây ra, hoặc đe doạ gây ra thiệt hại vật chất
cho các ngành công nghiệp nội địa có cạnh tranh. Cho đến nay, đây
vẫn là luật quốc tế cốt lõi về việc bán phá giá.
Tuy nhiên, một số quốc gia trong GATT nhận thấy rằng có
một số nước đã áp dụng Luật chống phá giá để dựng lên những
hàng rào thương mại mới, các thủ tục chống bán phá giá, những
cách tính toán mức phá giá đã gây thiệt hại làm hạn chế và lệch lạc
các dòng thương mại quốc tế. Tại vòng đàm phán Kennedy của
GATT (1962 - 1967) các bên ký kết GATT đã thảo luận bộ luật
chống bán phá giá, đặt ra một loạt các quy tắc về thủ tục và nguyên
lý cho việc áp dụng những sắc thuế chống bán phá giá nhằm hạn
chế các thủ tục và phương thức đánh thuế của những Chính phủ có
thể gây tổn hại đến thương mại quốc tế.
Tại vòng đàm phán Tokyo 1973, các bên ký kết GATT đã xây
dựng một Luật chống bán phá giá mới, có hiệu lực từ năm 1979
thay thế cho Luật chống bán phá giá năm 1967, có 26 nước thành
viên ký kết có hiệu lực hơn mọi Hiệp định trước đó về bán phá giá.
Đến vòng đàm phán Urugoay 1994 về bán phá giá, dựa trên Luật
chống bán phá giá trước đó các thành viên xây dựng “ Hiệp định về
việc thi hành điều VI của GATT năm 1994 ”điều chỉnh kỹ hơn các
quy tắc chống bán phá giá và có hiệu lực hơn đối với mọi thành viên
-4-
của Tổ chức thương mại Thế giới ( WTO ) và là Hiệp định cưỡng
bức thi hành.
Hiệp định nêu cụ thể ba loại nghĩa vụ khống chế việc áp dụng
các sắc thuế:
Các quy tắc chi tiết về các sự kiện cấu thành việc “
bán phá giá”.
Các quy tắc chi tiết “ yêu cầu về thiệt hại ”
Các quy tắc chi tiết về những thủ tục theo đó các
Chính phủ xác định và áp dụng các sắc thuế chống
bán phá giá.
2. Khái niệm bán phá giá và thuế chống bán phá giá:
2.1 Bán phá giá: Trong ngôn ngữ tiếng Việt, “Bán phá giá” thường
được hiểu là hành động bán một mặt hàng với giá thấp hơn giá
hiện hành của mặt hàng đó trên thị trường, làm cho những
người bán hàng khác hạ giá bán. Như vậy ở đây có sự so sánh
về giá ở hai thị trường khác nhau: thị trường nước nhập khẩu và
thị trường nước xuất khẩu, mặc dù giá bán ở thị trường tiêu thụ
(nước nhập khẩu) có thể không khác nhau, thậm chí có thể xảy
ra trường hợp giá bán cáo hơn giá hiện hành. Nhìn chung, các
tài liệu quốc tế đều thống nhất hiện tượng “bán phá giá” xảy ra
khi hàng hoá xuất khẩu được bán sang một nước khác với giá
thấp hơn giá bán tại thị trường nội địa (của nước xuất khẩu).
Nếu đọc lướt qua, định nghĩa này thật là đơn giản, chỉ việc so
sánh giữa giá xuất khẩu với giá bán tại nội địa, nếu giá xuất
khẩu thấp hơn giá nội địa tức là có sự bán phá giá. Tuy nhiên,
sự việc lại không đơn giản chút nào khi một loạt câu hỏi được
-5-
đặt ra cần giải quyết khi so sánh giá để đảm bảo sự chính xác
và công bằng: giá nội địa là giá nào? Là giá bán buôn hay giá
bán lẻ? Giá xuất khẩu là giá nào? ...
2.2 Thuế chống bán phá giá: là một sắc thuế mà nước nhập khẩu
đánh vào một mặt hàng nhập khẩu được bán phá giá với mục
đích ngăn cản sự tiếp diễn của việc bán phá giá đó để tránh gây
thiệt hại cho ngành sản xuất mặt hàng tương tự ở trong nước.
3. Ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
Tác động của việc bán giá được đánh giá một cách đơn giản
theo hình dưới đây. Trước khi có việc hàng của nước được bán vào
thị truờng một nước với giá thấp hơn giá hiện hành, cung và cầu mặt
hàng đó cân bằng ở điểm E, với giá P1 và lượng tiêu thụ Q1, hoàn
toàn là hàng sản xuất trong nước. Tuy nhiên, khi có nguồn hàng
nước ngoài bán với giá thấp hơn là P2, lượng tiêu thụ tăng lên Q2,
trong khi đó lượng hàng sản xuất trong nước giảm xuống chỉ còn
Q’2, lượng hàng nhập khẩu là Q2 - Q’2.
P
S
P1
A
P2
B
E
D
C
Q’2
Q1
Q2
SF
D
Q
-6-
Từ hình này cho thấy thặng dư của người tiêu dùng tăng
thêm một lượng bằng diện tích hình thang ABDE, trong khi đó
thặng dư của nhà sản xuất trong nước giảm một lượng bằng diện
tích hình thang ABCE.
Như vậy có thể thấy tác động của việc bán phá giá là: gây
thiệt hại cho ngành sản xuất nội địa nhưng lại mang lại lợi ích cho
người tiêu dùng. Về tổng thể, toàn xã hội được lợi bằng diện tích
tam giác CDE.
Xuất phát từ thành kiến cố hữu, việc “bán phá giá” thường
được coi là có tác động tiêu cực, thường vì lý do làm giảm lợi nhuận
của những người bán hàng khác hoặc gây thiệt hại cho các nhà sản
xuất cùng một mặt hàng của nước nhập khẩu, cho nên người ta
thường tìm biện pháp để chống lại hành động này. Tuy nhiên, cần
phải có sự phân tích thấu đáo bản chất của mọi trường hợp bán phá
giá để xem có phải tất cả mọi hành động bán phá gía đều có hại hay
không để từ đó có biện pháp đối phó thích ứng.
Có thể hình dung các trường hợp bán phá giá sau đây:
Thứ nhất, giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa nước
xuất khẩu nhưng vẫn cao hơn chi phí sản xuất;
Thứ hai, giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất và tất nhiên là
thấp hơn giá thị trường trong nước. Trong trường hợp này còn có
thể xảy ra một số tình huống khác nhau, tuỳ thuộc vào định nghĩa
chi phí sản xuất: chi phí bình quân hay “chi phí lề”.
Trường hợp thứ nhất: Giá xuất khẩu thấp hơn giá thị trường nội địa
nhưng cao hơn chi phí sản xuất.
-7-
Trường hợp này có thể xảy ra khi một hãng chiếm vị thế độc
quyền hoặc gần như độc quyền ở thị trường nội địa xuất phát từ điều
kiện tự nhiên hoặc do được hưởng lợi thế từ hàng rào thương mại,
nhưng phải cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu. Trong trường
hợp này, vì mục đích tối đa hoá lợi nhuận, hãng đó sẽ lợi dụng vị
thế độc quyền của mình để ấn định giá bán trong nước cao hơn,
chừng nào thị trường đó còn chấp nhận được. Trong khi đó, do phải
cạnh tranh ở thị trường nước xuất khẩu, hãng đó chỉ có thể bán với
giá đang tồn tại ở thị trường đó. Như vậy đã xảy ra việc bán phá giá
như định nghĩa ở trên.
Nếu việc bán phá giá này không làm giá ở thị trường nước
nhập khẩu thay đổi (do cạnh trạnh ở đây hoàn hảo), sẽ không làm
ảnh hưởng đến lợi ích của nước nhập khẩu, và vì thế sẽ không cần
thiết phải có biện pháp chống đối lại.
Tuy nhiên, nếu việc bán phá giá này xảy ra với một lượng lớn
và trong thời gian dài, làm giảm giá ở thị trường nước nhập khẩu sẽ
gây tác động đến lợi ích của nước nhập khẩu. Người tiêu dùng sẽ
được lợi từ giá thấp nhưng ngược lại các nhà sản xuất và công nhân
trong ngành công nghiệp đó sẽ bị thiệt hại vì lợi nhuận và lương bị
giảm. Lợi ích cuối cùng của nước nhập khẩu phụ thuộc vào việc lợi
ích của người tiêu dùng có lớn hơn thiệt hại của người sản xuất và
công nhân hay không.
Ngay cả trong trường hợp về tổng thể nước nhập khẩu bị thiệt
hại cũng khó có lý do để áp dụng biện pháp chống bán phá giá đối
với hàng hoá của hãng đó nhằm khắc phục thiệt hại bởi vì hãng đó
có thể lập luận rằng do điều kiện thị trường của nước nhập khẩu là
-8-
cạnh tranh, bất kỳ hãng nào cũng có thể tham gia thị trường đó và
làm cho giá giảm xuống. Tuy nhiên, để khắc phục thiệt hại, nước
nhập khẩu có thể áp dụng các biện pháp được phép khác như tự vệ.
Trường hợp thứ hai: Giá xuất khẩu thấp hơn chi phí sản xuất
Trước hết, để hiểu được ý nghĩa kinh tế của việc bán phá giá
thấp hơn chi phí, cần phân biệt các loại chi phí.
Thông thường, chi phí sản xuất được phân biệt theo 2 loại: chi
phí bình quân (average cost) và chi phí lề (marginal cost).
Chi phí bình quân được tính bằng tổng tất cả các chi phí một
hãng phải chịu chia cho lượng sản phẩm sản xuất ra.
Chi phí lề là chi phí phải bỏ ra để sản xuất thêm một đơn vị
sản phẩm.
Sự phân biệt này có ý nghĩa quan trọng trong ngắn hạn khi
nhiều loại chi phí sản xuất là cố định, không phụ thuộc vào số lượng
sản xuất, chỉ có một phần nhỏ chi phí sản xuất là thay đổi khi lượng
sản xuất thay đổi. Chính chi phí lề là yếu tố quyết định trong việc
định giá của một hãng trong thời gian ngắn hạn khi phải chịu chi phí
nhất định để thâm nhập vào một thị trường
Khi nhu cầu của thị trường bị giảm, kéo theo giá thị trường
giảm và các hãng theo đó cũng phải giảm giá bán. Nếu giá bán thấp
hơn chi phí bình quân, hãng đó sẽ bị lỗ. Tuy nhiên, khi một phần
chi phí là cố định không phụ thộc vào lượng sản xuất, mức độ lỗ sẽ
phụ thuộc vào lượng hàng bán ra và vào mức chi phí lề. Nếu giá
bán vẫn cao hơn chi phí lề, hãng vẫn tiếp tục bán với hy vọng sau
một thời gian ngắn thị trường sẽ phục hồi hoặc chỉ để giảm thiệt hại
trước khi rút lui khỏi thị trường đó. Đây là sự phản ứng rất bình
-9-
thường của các hãng đối với sự thay đổi của thị trường, kể cả các
hãng nước ngoài và hãng nội địa.
Trong trường hợp này, việc áp dụng một biện pháp chống
hàng nhập khẩu là bất hợp lý vì như vậy sẽ đối xử không công bằng
giữa hãng nội địa và hãng nước ngoài. Tuy nhiên, một nước vẫn có
thể áp dụng các chính sách hỗ trợ cho các hãng nội địa giảm nhẹ
thiệt hại dưới hình thức các biện pháp tự vệ.
4. Tại sao bán phá giá chiếm thị trường ở nước ngoài lại vẫn
gia tăng được lợi nhuận?
Trong thực tế, có những lý do khiến một công ty bán phá giá
hàng sản xuất ra thị trường nước ngoài mà vẫn thu được lợi nhuận.
Giả dụ một công ty sản xuất một triệu chiếc radio một năm bằng
một nhà máy duy nhất và chỉ làm ca ban ngày. Giả sử nhà máy đó
định giá mặt hàng radio này trong thị trường nội địa là 20USD/chiếc
và lãi được 4USD/chiếc. Ta giả dụ tiếp là những chi phí biến động
của mặt hàng radio (nguyên vật liệu, lương công nhân...) vào
khoảng 10USD/chiếc; Vậy chi phí cố định (nhà xưởng, trang thiết
bị...) khoảng 6USD/chiếc.Nếu nhà máy bán hết một triệu chiếc
radio mỗi năm với lãi 4USD/chiếc thì nó đã bù đắp xong mọi chi
phí cố định và có thể bán thêm radio với bất cứ mức giá nào cao
hơn chi phí biến động 10USD/chiếc để kiếm thêm tiền lãi.
Giả sử nhà máy có thể chạy thêm ca đêm và sản xuất một triệu
chiếc radio nữa mỗi năm. Các chi phí cố định, theo giả định, đã
được trang trải xong với một triệu chiếc radio đầu tiền. Nếu nó có
thể xoay xở bán được một triệu chiếc radio thứ hai này mà không
ảnh hưởng gì tới giá bán một triệu chiếc radio đầu tiên, vậy thì bất
-10-
cứ mức giá nào cao hơn mức chi phí biến động 10 USD/ chiếc cũng
làm tăng thêm lợi nhuận cho công ty. Thí dụ nó bán radio làm ca
đêm với giá 14 USD, thì nó lãi thêm 4 triệu USD (ngoài số lãi 4
triệu USD từ một triệu chiếc radio đầu tiên làm ca ngày), tức là tăng
gấp đôi lợi nhuận. Dĩ nhiên, việc bán sản phẩm ca đêm không được
ảnh hưởng tới giá trị bán của một triệu radio đầu tiên làm ca ngày.
Điều này dẫn đến việc phải tìm kiếm một thị trường khác hẳn cho
sản lượng của ca đêm. Thị trường mới này phải đảm bảo không dễ
gì chuyển ngược hàng trở lại thị trường thứ nhất, nếu không thì giá
bán của radio làm ca ban ngày sẽ bị cắt xuống tới mức thấp hơn giá
thành.
Một phương cách để thực hiện việc trên là tính giá bán khác
nhau ở những khu vực khác nhau, với điều kiện chi phí vận chuyển
hàng theo chiều ngược lại phải đủ cao để ngăn không cho người
mua ở thị trường giá rẻ đem bán lại ở thị trường giá đắt. Trong
trường hợp xuất khẩu sản phẩm, các Chính phủ có thể dựng hàng
rào thuế quan ngăn cản việc chở hàng hoá ngược về thị trường gốc.
Như thế, nếu có một mức thuế quan 40% đánh lên radio nhập khẩu,
thì sản lượng của ca đêm có thể bán sang nước ngoài sẽ chở radio
ngược về thị trường
giá gốc để làm giảm giá bán tại thị trường nội
PUSD(giá)
1.400
địa.
Có1.200
thể chứng1minh những
2 lập luận3trên bằng trường hợp điển
N
hình về bán
1.000 phá giá đã xẩy ra trên thương trường quốc tế sau đây:
Từ những
năm 1960, sáu công ty điện tử hàng đầu của Nhật
800
T
PT =700
Bản là HITACHI,
MISUBISHI, MASUSHITA, SANYO, SHARP
600
C1
C2
B
P =500
và TOSHIBA
đã cạnhD tranh gayCgắt
với Cnhau. Nhưng ngày
3
P =450
B
C
PN =400
10/09/1964, họ đã thoả thuận thống nhất nâng giá bán, quy định sản
200
0
qA 4
-11-
8 qT
12
qC 16
q(100.000)
Sản lượng
lượng của mỗi công ty. Kết quả của việc thoả thuận này là trong
nhiều năm trời, người tiêu dùng ở Nhật phải trả 700 USD cho một
tivi màu, trong khi các công ty đó ở Mỹ chỉ với giá 400 USD cho
một tivi mầu cùng loại. Việc bán phá giá tivi Nhật ở Mỹ làm cho
các công ty Mỹ không chịu nổi quá trình cạnh tranh. Cho đến năm
1989, sáu hãng tivi lớn và nhiều hãng nhỏ của Mỹ bị phá sản, công
nghiệp sản xuất tivi của Mỹ bị suy yếu mạnh. Chúng ta có thể lý
giải quá trình bán phá giá, chiếm thị trường, gia tăng lợi nhuận nói
trên bằng mô hình sau đây:
Hiệu ứng bán phá giá - chiếm thị trường - tăng lợi nhuận
Giả sử có 3 doanh nghiệp Nhật Bản 1,2,3 cạnh tranh trên thị
trường tivi. Nhu cầu là đường NC, chi phí bình quân (C1, C2, C3)
và công suất thiết kế của ba doanh nghiệp là như nhau (500.000
tivi/năm).
Nếu ba doanh nghiệp cạnh tranh bằng giá với nhau, thị trường
sẽ cân bằng ở điểm C, giá bán là P c=450 USD và bằng chi phí bình
quân thấp nhất của mỗi doanh nghiệp ở điểm D. Như vậy, cả ba
doanh nghiệp đều chỉ hoà vốn.
Giả sử ba doanh nghiệp thoả thuận giảm 40% sản lượng từ
qc=1,5 triệu còn qT= 0,9 triệu tivi. Lúc này, giá mà thị trường chấp
nhận là PT= 700 USD, thị trường cân bằng ở điểm T. Do sản lượng
giảm, chi phí bình quân tăng từ 450 USD ở điểm D, lên 500 USD ở
điểm B. Tuy nhiên, do giá tăng rất mạnh, từ 450 USD lên 700 USD,
nên mặc dù sản lượng giảm, chi phí tăng, các doanh nghiệp vẫn có
lãi. Đối với doanh nghiệp 1, điểm bán lúc cạnh tranh là D, song khi
-12-
thoả thuận là A, với qA= 300.000 tivi. Lợi nhuận của doanh nghiệp
này là:
Lợi nhuận thực tế = 300.000 x (700 USD-500 USD) = 60
triệu USD
Như vậy lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên 60 triệu USD. Ở tình
trạng thoả thuận bán ở trong nước như vậy, cả ba doanh nghiệp đều
có lợi nhuận cao, song họ không bán thêm vào thị trường trong
nước mà xuất khẩu, thì sẽ không làm giảm giá trị trường trong nước.
Và nếu bán ra nước ngoài với giá thấp, thì có thể chiếm được thị
trường mới. Vấn đề là bây giờ lợi nhuận của họ thế nào?
Giả sử doanh nghiệp sản xuất hết 100% năng lực, song xuất
khẩu 40% sản phẩm. Tức là mỗi doanh nghiệp sản xuất 500.000
tivi/năm, xuất khẩu 200.000 tivi. Lúc này chi phí mỗi tivi là 450
USD ở điểm D. Giả sử ba doanh nghiệp quyết định bán phá giá ở
nước ngoài, với giá PN= 400 USD < PC= 450 USD = chi phí bình
quân. Như vậy, mỗi doanh nghiệp sẽ lỗ xuất khẩu là:
Lỗ = 200.000 x (450 USD - 400 USD) = 10 triệu USD.
Tuy nhiên do tăng được 40% sản lượng, chi phí bình quân mỗi tivi
lại giảm, từ 500 USD ở điểm B xuống còn 450 USD ở điểm D. Do
vậy, mặc dù giá bán tivi trong nước không tăng, song lợi nhuận do
bán trong nước lại tăng:
Lợi nhuận trong nước= 300 x (700 USD - 450 USD) =
75 triệu.
Như vậy lợi nhuận thực tế của mỗi doanh nghiệp khi vừa thoả
thuận, vừa bán phá giá ở nước ngoài là:
-13-
Lợi nhuận= 75 triệu USD - 10 triệu USD = 65 triệu
USD.
Mặc dù chịu lỗ ở nước ngoài, lợi nhuận của mỗi doanh nghiệp
đã tăng từ 60 triệu USD (khi thoả thuận mà không xuất khẩu) lên
đến 65 triệu USD (khi vừa có thoả thuận vừa có xuất khẩu). Còn
nếu so sánh khi các doanh nghiệp cạnh tranh với nhau trong nước,
lợi nhuận đã tăng từ 0 triệu lên đến 65 triệu USD. Nếu chi phí sản
xuất tivi ở Mỹ là 400USD, tức là thấp hơn của Nhật bản là 450USD,
thì để có lãi, giá bán tivi của Mỹ phải trên 400USD. Nếu các doanh
nghiệp Nhật bản xuất khẩu sang Mỹ với giá 400USD thì rõ rằng là
các doanh nghiệp Mỹ không chịu đựng nổi. Và như đã nêu ở trên,
sau 30 năm bán phá giá, Nhật bản đã đánh bại công nghiệp tivi của
Mỹ, mặc dù chi phí sản xuất của các công ty Nhật bản có thể cao
hơn các công ty Mỹ.
Mô hình nêu trên đã chứng minh một khả năng là: Một nước có
trình độ công nghệ không cao hơn, có chi phí sản xuất cao hơn vẫn
có thể xuất khẩu sang nước có chi phí sản xuất thấp hơn, với một
giá thấp hơn chi phí của nước chủ nhà, vừa chiếm được thị trường
mà vẫn gia tăng được lợi nhuận.
Bản chất kinh tế của chiến lược này là: Hạn chế tối đa nhập
khẩu, thoả thuận trong nước về giá và xuất khẩu với giá tiêu diệt
địch thủ:
Bằng cách hạn chế nhập khẩu và thoả thuận giữa các
doanh nghiệp, các doanh nghiệp đẩy được giá trong nước
lên cao làm tăng lợi nhuận (điều này làm thiệt hại người
tiêu dùng trong nước).
-14-
Bằng cách xuất khẩu để sử dụng tối đa công suất, các
doanh nghiệp lại giảm được chi phí, từ đó lại tăng thêm
được lợi nhuận của phần sản phẩm bán trong nước. Chính
phần lợi nhuận tăng thêm này là nguồn tài chính để bù lỗi
việc bán phá giá ở nước ngoài.
Như vậy, trong một cơ chế thị trường có sự hỗ trợ của Nhà
nước như trên (khuyến khích thoả thuận, bảo hộ mậu dịch và trợ cấp
sản xuất xuất khẩu), chính người dân Nhật bản là người gánh chịu
cái giá của sự mở rộng thị trường quốc tế của Nhật. Họ phải mua
hàng với giá cao ở trong nước để tài trợ cho các doanh nghiệp bán
phá giá ở nước ngoài, còn bản thân các chủ doanh nghiệp vẫn thu
được lợi nhuận cao dù phải bán phá giá để chiếm thị trường mới.
Cũng có những trường hợp các hãng bán với giá thấp hơn chi
phí lề. Trong các trường hợp này không thể xem xét nguyên nhân
hành động của các hãng với mục tiêu là nhằm tối đa hoá lợi nhuận
mà vì các mục tiêu khác.
5. Những nguyên nhân của hành động bán phá giá
Mỗi một hành động bán phá giá đều nhằm đạt được một số mục
tiêu cụ thể và có một số nguyên nhân dẫn đến hành động đó. Chúng
ta có thể phân tích và tổng hợp thành một số nhóm nguyên nhân như
sau:
5.1 Bán phá giá nhằm đạt mục tiêu chính trị thao túng các nước
khác
Chính phủ Mỹ đặc biệt quan tâm đến xuất khẩu gạo bởi vì cạnh
tranh giá gạo bây giờ ảnh hưởng lớn đến việc đạt các mục tiêu quan
trọng khác. Mỹ sẵn sàng bỏ ngân sách mua phần lớn số gạo trên thị
-15-
trường thế giới rồi bán phá giá. Điều này làm cho nhiều nước xuất
khẩu gạo phải lao đao và sẽ phải chịu vòng phong toả của Mỹ.
Chẳng hạn, giá xuất khẩu gạo của Mỹ khoảng 400USD/ tấn, nhưng
các nhà xuất khẩu gạo Mỹ sẵn sàng mua với giá 500USD/ tấn, thậm
chí cao hơn đến 800USD/tấn, và họ cũng sẵn sàng bán ra thị trường
thế giới chỉ bằng 60 - 70%, thậm chí đến 40% giá mua. Mức giá này
thấp hơn nhiều so với giá thành của chính nông dân Mỹ sản xuất ra.
Như vậy, Mỹ có thể sẵn sàng bỏ ra 700 - 800 triệu USD/ năm để tài
trợ giá xuất khẩu gạo nhằm thực hiện mục tiêu của mình. Chính vì
điều này mà mặc dù sản lượng gạo của Mỹ hàng năm thấp nhưng
Mỹ lại thao túng giá gạo trên thị trường thế giới.
5.2 Do có các khoản tài trợ của Chính phủ
Chính phủ các nước phương Tây coi tài trợ là con đường ngắn
nhất để đạt đuợc sự cân bằng kinh tế và đảm bảo cho thị trường hoạt
động một cách tối ưu. Chính sách tài trợ nhằm đạt được hai mục
đích sau:
Duy trì và tăng cường mức sản xuất xuất khẩu
Duy trì mức sử dụng nhất định đối với các yếu tố sản xuất
như lao động và tiền vốn trong nền kinh tế. Các khoản tài
trợ có thể được cấp cho người sản xuất cũng như cho người
tiêu dùng, nhưng về mặt tác động kinh tế thì chúng đều như
nhau vì đều đưa đến những hệ quả tương tự
Những hình thức tài trợ chủ yếu là: Trợ cấp, ưu đãi về thuế, tín
dụng ưu đãi, sự tham gia của Chính phủ vào các chi phí kinh doanh
cũng như hỗ trợ xuất khẩu.
-16-
- Trợ cấp: Đặc điểm cơ bản của trợ cấp là hướng vào giúp đỡ
phát triển sản xuất. Ở các nước công nghiệp phát triển, các
khoản trợ cấp chiếm một nửa toàn bộ khối lượng tài trợ. Tỷ
trọng của các khoản trợ cấp cho từng ngành trong tổng số
giúp đỡ của Chính phủ có sự khác nhau đáng kể giữa các
nước. Như ở Anh, Ý, Hà Lan thì trợ cấp chiếm phần lớn.
- Ưu đãi về thuế: Những ưu đãi về thuế nhằm tạo điều kiện
thuận lợi cho một số ngành trong một số loại hoạt động riêng
biệt. Chúng được áp dụng rộng rãi ở nhiều nước, mặc dù ít
khi được phản ánh trong các chỉ tiêu của Chính phủ vì chúng
là ngoại lệ khi áp dụng các thuế suất chuẩn. Ở Anh, Bỉ, Đan
Mạch, giá trị của chúng không lớn, còn ở Mỹ thì tổng số ưu
đãi về thuế cho công nghiệp lớn gấp 3 lần khối lượng trợ
cấp.
- Ưu đãi về tín dụng: Những ưu đãi về tín dụng là sự cho vay
của Chính phủ với điều kiện hấp dẫn hơn là tìm kiếm trên thị
trường vốn. ở các nước thuộc Cộng đồng Kinh tế Châu Âu
khoảng 14% tổng khối lượng giúp đỡ cho công nghiệp được
thực hiện dưới hình thức tín dụng ưu đãi. Phần lớn khối
lượng tín dụng của Chính phủ Nhật bản cấp cho các hãng
vừa và nhỏ với lãi suất thấp hơn ở lãi suất thị trường vốn
0,5%.
Các Chính phủ cũng thường xuyên bảo đảm các khoản tín
dụng, tức là bảo lãnh cho các công ty vay mà không trả nợ được.
Phương pháp tài trợ này thường dùng cho các hợp đồng xuất khẩu
để đảm bảo cho các công ty xuất khẩu của nước mình. Theo đánh
-17-
gái, quy mô của tài trợ này chiếm vào khoản từ 2% đến 8% tổng tài
trợ công nghiệp ở các nước công nghiệp phát triển.
- Tham gia của Chính phủ vào chi phí kinh doanh: Sự tham
gia của Chính phủ vào chi phí kinhdoanh thường là 15%
tổng tài trợ trở xuống. Từ thập kỷ 80 đến nay, phần sở hữu
Nhà nước trong hoạt động kinh doanh có xu hướng giảm.
Phương pháp này được sử dụng để bù đắp những tổn thất
trong những lĩnh vực kinh tế riêng đang suy thoái.
Hiện nay, tài trợ công nghiệp vẫn được Chính phủ các nước
phương Tây duy trì ở mức khá cao. Trên thực tế, các khoản tài trợ
giúp các ngành thực hiện công nghệ mới, trang bị máy và thiết bị
hiện đại, nghĩa là giúp các ngành mới gia nhập thị trường và đẩy
mạnh phát triển những ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước,
tăng cường xuất khẩu.
5.3 Bán phá giá cũng có thể xảy ra trong trường hợp một nước
có quá nhiều hàng tồn kho không thể giải quyết theo cơ chế
giá bình thường
Trong nền kinh tế hàng hóa trước đây, khi gặp khủng hoảng
thừa, các chủ doanh nghiệp thường chất đống hàng hoá của mình,
châm lửa đốt, hoặc đổ xuống biển để giữ giá, nhất định không bán
phá giá. Còn hiện nay, ở các nước kinh tế phát triển, gặp trường hợp
này, nhà buôn có thể chọn một trong hai giải pháp thường dùng.
Trước hết là lưu kho chờ ngày giá lên. Nhưng lưu kho đòi hỏi phải
có chỗ chứa, và chỉ áp dụng được với những mặt hành không bị hư
hỏng. Giải pháp thứ hai là bán xôn. Nhiều khi đây là giải pháp duy
nhất đối với một số mặt hàng: thực phẩm sắp hết thời hạn sử dụng,
-18-
máy vi tính đời cũ, một số kiểu giầy, quần áo hết mốt ... Nhiều cửa
hàng lớn ở Pháp (Paris) ngay từ khi vào mùa đã có số hàng tồn đọng
lên tới 50% số dự trù bán ra. Hàng tồn kho này sẽ nhanh chóng
được mang bán với giá khuyến mãi thấp hơn 30% giá bán thông
thường. Đến cuối mùa, số hàng tụt xuống còn vài phần trăm, được
nhượng lại cho dân bán xôn chuyên nghiệp với giá chỉ bằng 1/10 giá
cũ. Dân chuyên nghiệp sẽ đẩy hết hàng ra nước ngoài, chủ yếu là
sang Châu Phi, Châu Á và Đông Âu.
5.4 Bán phá giá được sử dụng như công cụ cạnh tranh
Các hãng nước ngoài sử dụng công cụ bán phá giá để loại bỏ
các đối thủ cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường của các nước nhập
khẩu. Sau khi đã giành được vị trí khống chế thị trường, triệt tiêu
được sự cạnh tranh của hàng hoá nội địa thì các hãng nước ngoài sẽ
thực hiện mục tiêu cuối cùng của mình là tăng giá, tìm cách thao
túng thị trường để thu được lợi nhuận tối đa.
5.5 Một nước có thể do nhập siêu lớn, cần phải có ngoại tệ để bù
đắp cho thiếu hụt này
Khi đó họ có thể áp dụng công cụ bán phá giá để giải quyết vấn
đề thiếu hụt ngoại tệ.
5.6 Một số nước làm ra được một số sản phẩm với giá thành rất
thấp là nhờ sử dụng lao động trẻ em tiền lương thấp và sử
dụng lao động của tù nhân làm hàng xuất khẩu
Theo số liệu của Văn phòng Quốc tế về lao động trẻ em (BIT)
thì trên toàn thế giới hiện có tới 250 triệu trẻ em từ 5 - 14 tuổi đang
tham gia một hoạt động kinh tế. Còn theo Quỹ Nhi đồng Liên Hợp
-19-
quốc (UNICEF) thì tại các nước nghèo, cứ 4 trẻ em thì có một trẻ
em làm việc như người lớn.
Việc sử dụng lao động trẻ em và sử dụng lao động tù nhân
ngoài việc mang lại siêu lợi nhuận, nó còn là cách để cạnh tranh đối
với các đối thủ làm ăn. Nhờ giá nhân công rẻ mạt, người ta có thể
hạ giá thành sản phẩm, xuất khẩu hàng hoá bán phá giá ở nước
ngoài.
5.7 Ở Việt Nam có hiện tượng một số công ty kinh doanh hàng
nhập khẩu trả chậm, đã bán phá giá nhằm dùng nguồn vốn
nước ngoài để kinh doanh mặt hàng khác và hàng nhập lậu
với khối lượng lớn
Để làm được việc đó, họ tìm cách bán phá giá trên thị trường,
có lúc bán ồ ạt chịu lỗ từ 10 -20% so với giá vốn nhập khẩu để
nhanh chóng thu hồi vốn, đi buôn mặt hàng khác có lãi suất cao
hơn, không những đủ bù lỗ số hàng nhập trả chậm, mà còn có lãi
lớn.
Năm 1995, ba mặt hàng quan trọng đã bị bán phá giá theo
cách tính toán trên là xăng dầu, thép xây dựng và phân bón. Cuối
năm 1995, giá phân Urê Indonesia nhập vào Việt nam đang ở mức
cao (260-265USD/ tấn CIF Cảng Sài gòn), nhưng giá bán buôn cả
tàu tại Tân Quy, Nhà Bè, Thành phố Hồ Chí Minh liên tục giảm
xuống chỉ còn 245đồng/kg.
Ngoài ra, hàng ngoại nhập lậu với khối lượng lớn trong những
năm vừa qua thu được lợi nhuận siêu ngạch từ việc trốn thuế nhập
khẩu đã chiếm lĩnh thị trường với giá cạnh tranh so với hàng sản
-20-
- Xem thêm -