ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------
NGUYỄN THỊ THANH HÕA
VAI TRÕ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
SỰ NGHIỆP CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Hà Nội - 2016
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
----------------------------------------------------NGUYỄN THỊ THANH HÕA
VAI TRÕ ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN
NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM TRONG
SỰ NGHIỆP CNH, HĐH NÔNG NGHIỆP
NÔNG THÔN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS. TS Nguyễn Anh Tuấn
Hà Nội - 2016
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU……………………………………………………………………..3
CHƢƠNG 1.................................................................................................... 10
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ............................. 10
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC ................. 10
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ................................... 10
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và
Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức.......... 10
1.1.1 Quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về trí thức và vai trò
của đội ngũ trí thức ................................................................................. 10
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức....................................... 12
1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay ... 18
1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay ............................ 18
1 2.2. Vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên hiện nay .......................... 21
1.3. Các tiêu chí đánh giá đội ngũ trí thức giảng viên .................................... 26
1.3.1. Về số lượng.................................................................................... 26
1.3.2. Về cơ cấu ....................................................................................... 27
1.3.3. Về chất lượng ................................................................................ 28
1.4. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở
nƣớc ta hiện nay ..................................................................................................... 30
1.4.1. Khái niệm công nghiệp hóa, hiện đại hóa .................................... 30
1.4.2. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .............. 36
Tiểu kết chƣơng 1……………………..……………………………………45
CHƢƠNG 2.................................................................................................... 46
THỰC TRẠNG ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP ... 46
1
VIỆT NAM, VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÕ 46
CỦA ĐỘI NGŨ NÀY ĐÁP ỨNG NHU CẦU CỦA SỰ NGHIỆP CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN ....... 46
2.1. Thực trạng đội ngũ trí thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt
Nam hiện nay.......................................................................................................... 46
2.1.1. Giới thiệu về Học viện Nông nghiệp Việt Nam ............................. 46
2.1.2. Thực trạng đội ngũ trí thức giảng viên Học viện.......................... 50
2.2. Một số vấn đề đặt ra từ thực trạng thực hiện vai trò của đội ngũ trí
thực Học viện Nông nghiệp Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay .......................... 60
2.2.1 Tình trạng không đảm bảo về số lượng giảng viên phục vụ công tác
giảng dạy và nghiên cứu khoa học.......................................................... 61
2.2.3. Chưa đảm bảo được về mặt chất lượng đáp ứng yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn hiện nay.
................................................................................................................. 69
2.3. Một số phƣơng hƣớng, giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao hơn
nữa vai trò của đội ngũ trí thức Học viện Nông nghiệp Việt Nam .............. 74
2.3.1. Những phương hướng cơ bản nhằm nâng cao vai trò đội ngũ trí
thức giảng viên của Học viện Nông nghiệp Việt Nam ............................ 74
2.3.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò đội ngũ trí
thức giảng viên Học viện Nông nghiệp Việt Nam ................................... 77
2.3.3. Một số khuyến nghị nhằm phát triển đội ngũ trí thức giảng viên
Học viện Nông nghiệp Việt Nam đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn .................................. 81
Tiểu kết chƣơng 2…………………………………………………………..83
KẾT LUẬN .................................................................................................... 84
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 87
2
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong thời đại ngày nay, khi mà khoa học, công nghệ đã trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp, khi mà nền kinh tế thế giới đang chuyển mình từ
kinh tế công nghiệp sang kinh tế tri thức, từ nền kinh tế chủ yếu dựa vào sức
lao động cơ bắp, vốn và tài nguyên thiên nhiên sang nền kinh tế chủ yếu dựa
vào tri thức của con người, vào khoa học - kỹ thuật và công nghệ thì vai trò
của đội ngũ trí thức ngày càng được đánh giá cao hơn nữa. Trí thức là lực
lượng cơ bản và nòng cốt trong lao động, sản xuất cũng như trong sáng tạo,
truyền bá và ứng dụng tri thức khoa học. Trí thức trở thành đại biểu cho trí tuệ
của nhân loại.
Nước ta là một quốc gia đi lên từ sản xuất nông nghiệp. Nước ta có
điều kiện tự nhiên khá thuận lợi cho phát triển nông nghiệp. Do đó trong quá
trình xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước ta luôn chú trọng
đến nông nghiệp. Trong những năm qua, cùng với sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp, nông thôn và công cuộc xây dựng
nông thôn mới, nhiều chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đã tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Những thành tựu trong
nông nghiệp đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển và đảm bảo an ninh
lương thực quốc gia. Nước ta đã trở thành nước xuất khẩu nhiều mặt hàng
nông nghiệp. Những thành tựu đó có sự đóng góp không nhỏ của đội ngũ trí
thức trong nông nghiệp.
Để thực hiện được các mục tiêu, chiến lược quốc gia về xây dựng nông
thôn và phát triển nông nghiệp, hoàn thành thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn nước ta cần phải có một đội ngũ trí thức nông nghiệp
đông đảo về số lượng, giỏi về chuyên môn, nắm bắt kịp thời các tiến bộ khoa
học - kỹ thuật và công nghệ để đưa vào quá trình sản xuất. Tuy nhiên, trong
3
giai đoạn hiện nay nguồn nhân lực cho lĩnh vực này còn hạn chế về mọi mặt.
Do đó, trong thời gian tới chúng ta phải sớm khắc phục được hạn chế này,
củng cố và xây dựng một đội ngũ trí thức trong lĩnh vực nông nghiệp có thể đi
đầu, tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở nước
ta hiện nay.
Học viện Nông nghiệp Việt Nam được thành lập vào năm 1956 với tên
gọi đầu tiên là Trường Đại học Nông Lâm. Ngày 28 tháng 02 năm 2014, Thủ
tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 441/QĐ-TTg về việc thành lập Học
viện Nông nghiệp Việt Nam trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn trên cơ sở tổ chức lại Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội. Việc thành
lập Học viện không đơn thuần chỉ là sự đổi tên mà thể hiện quyết tâm của
Chính phủ nhằm thay đổi về chất trong đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển
giao công nghệ, phục vụ xã hội và hội nhập quốc tế, đáp ứng nhu cầu của sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cũng như hoàn thành các nhiệm
vụ chính trị mà Đảng, Chính phủ và Nhà nước giao phó cho Học viện, cho
ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn trong giai đoạn phát triển mới
hiện nay. Là trường trọng điểm quốc gia, đầu ngành trong lĩnh vực nông
nghiệp, trong nhiều năm qua Học viện đã không ngừng phấn đấu, đạt nhiều
thành tựu to lớn trong giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực cho đất nước. Học
viện đã đóng góp một cách thiết thực cho sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp
và phát triển nông thôn, cung ứng cho lĩnh vực nông nghiệp hàng vạn người
lao động có trình độ từ cử nhân, kỹ sư đến các trình độ cao hơn như thạc sỹ,
tiến sỹ. Đội ngũ cán bộ do Học viện đào tạo vừa có trình độ chuyên môn, vừa
có phẩm chất chính trị vững vàng, đã và đang là lực lượng nòng cốt trên mặt
trận đưa tiến bộ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và xây dựng nông thôn mới
trên khắp cả nước.
Bước vào thời kỳ đổi mới đất nước, Học viện đã thực hiện đổi mới toàn
diện, phát triển để trở thành một trường đại học nghiên cứu đa ngành. Nhà
4
trường hiện có 15 khoa: Nông học, Chăn nuôi, Thuỷ sản, Thú y, Cơ điện nông
nghiệp, Kinh tế và phát triển nông thôn, Quản lý đất đai, Môi trường, Kế toán
và Quản trị kinh doanh, Công nghê thực phẩm, Công nghệ sinh học, Công
nghệ thông tin, Sư phạm - ngoại ngữ, Lý luận chính trị và xã hội, Giáo dục
quốc phòng; 77 bộ môn chuyên ngành; 17 phòng, ban chức năng cùng với 21
viện, trung tâm nghiên cứu và công ty trực thuộc; hơn 1.400 cán bộ viên chức
và hợp đồng trong đó có trên 700 cán bộ giảng dạy với gần 120 nghiên cứu
viên, 94 Giáo sư, phó Giáo sư, trên 35% cán bộ giảng dạy có học vị tiến sĩ,
trên 47% cán bộ giảng dạy có học vị thạc sĩ. Đội ngũ cán bộ do Học viện đào
tạo chiếm 65% số cán bộ khoa học - kỹ thuật và quản lý ngành nông nghiệp
và phát triển nông thôn của cả nước. Họ đã và đang là lực lượng nòng cốt, chủ
đạo trên mặt trận khoa học - kỹ thuật, quản lý kinh tế nông nghiệp, xây dựng
và phát triển nông thôn ở khắp mọi miền Tổ quốc.
Trong những năm qua được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, Bộ Giáo
dục và đào tạo và nay là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Học viện đã
có những bước đột phá trên nhiều lĩnh vực. Đội ngũ trí thức giảng viên của Học
viện đang ngay một lớn mạnh về số lượng và chuẩn hoá về chất lượng. Tuy
nhiên, để đáp ứng hơn nữa nhu cầu, đòi hỏi của việc đào tạo nguồn nhân lực,
cung ứng các dịch vụ, sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao, đưa khoa học - kỹ
thuật và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp, giữ vai trò là lực lượng nòng cốt
và tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì đội ngũ
này vẫn còn thiếu về số lượng và chưa đáp ứng được đầy đủ về mặt chất lượng.
Do đó nghiên cứu vai trò, thực trạng của đội ngũ trí thức của Học viện, giải
quyết những vấn đề đặt ra từ hoạt động của đội ngũ này nhằm đẩy mạnh và phát
huy hơn nữa vai trò của họ trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn
hiện nay là một vấn đề có ý nghĩa thực tiễn to lớn. Đó chính là lý do người
viết lựa chọn vấn đề "Vai trò của đội ngũ trí thức Học viện Nông nghiệp
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp,
nông thôn hiện nay" làm đề tài luận văn của mình.
5
2. Tình hình nghiên cứu
Đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí
thức ở những phạm vi và góc độ khác nhau, trong đó có một số công trình liên
quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Trong một số công trình, các tác giả
cung cấp cho người đọc những quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển Mác Lênin cũng như những chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước ta về vai trò, nhiệm vụ của đội ngũ trí thức ở Việt Nam như: Trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới đất nước của Đỗ Mười, Nxb CTQG, HN,
1995; Một số vấn đề về trí thức Việt Nam của Nguyễn Thanh Tuấn, Nxb
CTQG, HN, l998; Định hướng phát triển đội ngũ trí thức Việt Nam trong
công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Phạm Tất Dong, Nxb CTQG, HN, 2001;
Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, của Nguyễn Văn Sơn, Nxb CTQG, HN, 2002...
Số các công trình khác hướng đến việc làm rõ vai trò và đưa ra những
giải pháp nhằm nâng cao vai trò của đội ngũ trí thức như: Vai trò của đội ngũ
trí thức trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam của Phạm Viết
Dũng, Luận án Phó tiến sỹ triết học, HN, l988; Vai trò của tầng lớp trí thức
Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước của Ngô
Thị Phượng, Luận án Thạc sỹ triết học, HN, 1997; Vai trò của đội ngũ trí
thức khoa học xã hội và nhân văn trong sự nghiệp đổi mới - Luận án tiến sỹ
triết học của Ngô Thị Phượng, HN, 2006; Đội ngũ trí thức trong thời kỳ công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển kinh tế tri thức của Đặng Hữu, HN, 2008;
Vai trò của trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hóa đất
nước của Lê Hữu Ái, Huế, 2009…
Trong thời gian gần đây cũng có rất nhiều các công trình của các học
giả nghiên cứu về vai trò của đội ngũ trí thức nói chung và đội ngũ giảng viên
nói riêng, thực trạng và giải pháp xây dựng, nâng cao vai trò của đội ngũ này
trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc như Đề tài khoa học cấp nhà
6
nước (Mã số KX: 04.06-l0) Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam giai đoạn
2011 - 2020 của PGS.TS. Đàm Đức Vương; Thực trạng và giải pháp nâng
cao chất lượng đội ngũ giảng viên Đại học giai đoạn 2010-2015 - Đề tài
nghiên cứu khoa học của Lê Thị Phương Nam, HN, 2010; Phát huy lao động
sáng tạo của đội ngũ trí thức trong các trường đại học hiện nay - Đề tài
nghiên cứu khoa học của Vũ Hằng, Đại học Xây dựng Hà Nội, HN, 2014;
Thực trạng và giải pháp xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong sự nghiệp
đổi mới đất nước của Đàm Đức Vương, Nxb CTQG, HN, 2014…
Mặc dù đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu về vai trò của đội ngũ
trí thức ở những phạm vi khác nhau song chưa có công trình nào nghiên cứu
vai trò của đội ngũ trí thức của một đơn vị đào tạo trực tiếp, một trường đại
học chuyên ngành như Học viện nông nghiệp Việt Nam đối với sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy học viên
chọn nghiên cứu đề tài này nhằm góp phần làm rõ thực trạng vai trò của đội
ngũ trí thức giảng viên Học viên Nông nghiệp Việt Nam, từ đó đề xuất các
giải pháp phát huy hơn nữa hiệu quả lao động cũng như vai trò của đội ngũ
này, góp phần vào việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu trong phát triển nông
nghiệp và nông thôn mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích: Làm rõ những vấn đề lý luận về vai trò của đội ngũ trí thức
cũng như đội ngũ trí thức giảng viên, phân tích thực trạng thực hiện vai trò
của đội ngũ trí thức giảng viên của Học viên Nông nghiệp Việt Nam, từ đó
luận văn hướng tới đề xuất các phương hướng và giải pháp phát huy hơn nữa
vai trò to lớn của đội ngũ này trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông
thôn ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ: Làm rõ một số khái niệm cơ bản trong phạm vi nghiên cứu
của luận văn như đội ngũ trí thức giảng viên; vai trò của đội ngũ trí thức giảng
7
viên trong trường Đại học nói chung và Học viện nông nghiệp Việt Nam nói
riêng; CNH, HĐH trong nông nghiệp, nông thôn.
- Tìm hiểu, phân tích và đánh giá thực trạng thực hiện vai trò của đội
ngũ trí thức Học viện đối với sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp và nông
thôn (khảo sát về số lượng, chất lượng, cơ cấu; đánh giá những mặt tích cực,
hạn chế, những vấn đề đặt ra trong công tác đào tạo, nghiên cứu khoa học,
cung cấp các dịch vụ, sản phẩm, ứng dụng khoa hoc - kỹ thuật và công nghệ
trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn hiện nay…).
- Đề xuất các phương hướng, giải pháp và nêu các khuyến nghị nhằm
xây dựng đội ngũ trí thức giảng viên Học viện đảm bảo đầy đủ cả về mặt số
lượng cũng như chất lượng; hợp lý trong cơ cấu, hướng tới thực hiện tốt hơn
vai trò là đội ngũ cơ bản và tiên phong trong sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn ở nước ta hiện nay.
4. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận: Đề tài được thực hiện trên cơ sở những quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng Sản Việt Nam về
đội ngũ trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên đối với đào tạo
nguồn nhân lực và nghiên cứu khoa học phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH đất
nước nói chung và nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Đề tài có tiếp thu những kết quả của các công trình nghiên cứu có liên
quan trực tiếp đến đề tài trong thời gian gần đây.
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng các phương pháp nghiên cứu
biện chứng duy vật như thống nhất lịch sử - lôgic, phân tích - tổng hợp,
nghiên cứu tài liệu, khảo sát thực tế; các phương pháp thống kê, so sánh, khái
quát hóa…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vai trò của đội ngũ trí thức (chủ yếu
là bộ phận giảng viên) của Học viện Nông nghiệp Việt Nam trong việc đào
8
tạo nguồn nhân lực, nghiên cứu và ứng dụng khoa học - kỹ thuật cũng như
cung cấp các sản phẩm, dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp và phát triển nông
thôn ở nước ta hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu đội ngũ trí thức
giảng viên của Học viện hiện nay từ góc độ vị trí, vai trò của họ đối với sự
nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.
6. Đóng góp mới của luận văn
Làm rõ thực trạng vai trò của đội ngũ trí thức giảng viên Học viện
Nông nghiệp Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn; một số giải pháp phát huy hơn nữa vai trò của đội ngũ này.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài
- Đề tài góp phần vào việc nghiên cứu mang tính lý luận chung về đội
ngũ trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức trong các cơ sở giáo dục đại học
nói chung và ở Học viện Nông nghiệp Việt Nam nói riêng đối với nhiệm vụ
đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn - một lĩnh vực kinh tế trọng điểm, một địa bàn rộng lớn và
then chốt chiến lược của nước ta trong giai đoạn hiện nay.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dung làm tài liệu tham
khảo phục vụ cho công tác quản lý và lãnh đạo; công tác xây dựng đội ngũ trí
thức giảng viên; trong việc hoạch định các mục tiêu, chiến lược đào tạo của
Học viện nhằm đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH
nông nghiệp, nông thôn Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, và phụ lục
luận văn kết cấu thành 2 chương, 7 tiết.
9
CHƢƠNG 1.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ ĐỘI NGŨ
TRÍ THỨC VÀ VAI TRÕ CỦA ĐỘI NGŨ TRÍ THỨC CÁC
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA,
HIỆN ĐẠI HÓA NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN
1.1. Quan niệm của Chủ nghĩa Mác - Lênin, tƣ tƣởng Hồ Chí minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức
1.1.1 Quan niệm của các nhà kinh điển Mác - Lênin về trí thức và vai
trò của đội ngũ trí thức
Theo quan điểm của các nhà kinh điển Chủ nghĩa Mác - Lênin, trí thức
là một tầng lớp đặc biệt trong xã hội, là kết quả của sự phân công lao động xã
hội giữa lao động trí óc và lao động tay chân. Trong tác phẩm "Góp phần phê
phán khoa kinh tế chính trị học", Mác đã rất chú ý đến vấn đề trí thức, ông
cho rằng, đó là một trong những yếu tố quan trọng của lực lượng sản xuất và
do đó cũng là một trong những yếu tố quan trọng của quá trình phát triển lịch
sử. Lênin đã định nghĩa về trí thức như sau: "Trí thức bao hàm không chỉ
những nhà trước tác, mà còn bao hàm tất cả những người có học thức, các đại
biểu của những nghề tự do nói chung, các đại biểu của những người lao động
trí óc" [25, tr. 372]. Trí thức là một tầng lớp không có hệ tư tưởng độc lập do
chỗ như Lê nin nói "Trí thức không hợp thành một giai cấp độc lập về kinh
tế". Trong tất cả các chế độ xã hội trí thức đều cơ bản phục vu cho giai cấp
thống trị, chịu ảnh hưởng của giai cấp thống trị. Họ xuất thân tư nhiều tầng
lớp, thành phần xã hội khác nhau. Trí thức được gọi là trí thức chính như nó
phản ánh và thể hiện sự phát triển của các lợi ích giai cấp và các nhóm phản
chính trị trong toàn bộ xã hội một cách có ý thức hơn cả, kiên quyết hơn cả,
chính xác hơn cả do chỗ trí thức là tầng lớp đại biểu cho trí tuệ của thời đại.
10
Từ vị trí của mình trong sự phân công lao động xã hội, trí thức không
có quan hệ riêng với tư liệu sản xuất do đó họ không đại biểu cho một phương
thức sản xuất nào cả. Trí thức trong lịch sử luôn gắn với một giai cấp, tầng
lớp nhất định trong xã hội. Quá trình đấu tranh giai cấp cùng với sự tác động
về một lợi ích làm cho tầng lớp này có sự phân hoá thành những bộ phận khác
nhau. Ví như nếu phục vụ cho giai cấp tư sản thì họ đứng về phía đối lập với
giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Ngược lại nếu đứng về phía giai cấp
công nhân và nhân dân lao động thì họ thuộc về đội ngũ trí thức của công nông. Do đó tính giai cấp của tầng lớp trí thức phụ thuộc vào giai cấp mà nó
phục vụ.
Sự khác nhau căn bản giữa tầng lớp trí thức và giai cấp công nhân
chính là ở tính chất lao động. Trí thức là người lao động trí óc. Họ là chủ thể
của tri thức khoa học, phát minh và sáng tạo ra các loại công cụ lao động, trực
tiếp sản xuất và truyền bá, ứng dụng những tri thức khoa học vào đời sống.
Những tri thức khoa học khi đã tham gia vào đời sống sản xuất như một phần
thiết yếu của lực lượng sản xuất, như chính bản thân lực lượng sản xuất thì
lúc đó vai trò của tầng lớp trí thức càng trở nên vô cùng quan trọng.
Tóm lại, theo quan điểm của các nhà kinh điển của Chủ nghĩa Mác Lênin trí thức là một tầng lớp xã hội đặc biệt, không có mối liên hệ trực tiếp
với tư liệu sản xuất nên không có tiềm lực kinh tế, không phải một lực lượng
chính trị độc lập, tầng lớp này chỉ có thể phát huy năng lực của mình khi "hoà
nhập với một giai cấp khác trong xã hội". Tuy nhiên, trí thức lại có vai trò vô
cùng quan trọng trong đời sống xã hội nói chung và sản xuất nói riêng. Theo
Lênin nếu không có trí thức thì không thể có được nền sản xuất của chủ nghĩa
Tư bản hiện đại. Do đó Lênin cho rằng trong cuộc cách mạng Xã hội Chủ
nghĩa giai cấp vô sản phải lôi kéo trí thức về phía mình để phát huy được sức
mạnh của cả vô sản và trí thức. Những tư tưởng tiến bộ của tầng lớp trí thức
11
đóng vai trò cung cấp vũ khí lý luận cho giai cấp công nhân, giúp giai cấp
công nhân ý thức được sứ mệnh lịch sử của mình. Không những thế đội ngũ
trí thức còn có vai trò là người tiên phong trong sáng tạo khoa học - kỹ thuật,
phát minh ra các loại công cụ lao động mới, kiến tạo những giá trị tư tưởng,
tinh thần tiến bộ cho đời sống xã hội.
1.1.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức.
Hồ Chí Minh - lãnh tụ vĩ đại của dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới đã
định nghĩa về trí thức như sau: "Trí thức là hiểu biết. Trong thế giới chỉ có hai
thứ hiểu biết: một là hiểu biết về sự đấu tranh sinh sản. Khoa học tự nhiên do
đó mà ra. Hai là sự hiểu biết về tranh đấu dân tộc, tranh đấu xã hội. Khoa học
xã hội do đó mà ra. Ngoài hai cái đó không có trí thức nào khác. Một người
học xong đại học, có thể gọi là trí thức, Song y không biết cày ruộng, không
biết làm công, không biết đánh giặc, không biết làm nhiều việc khác. Nói tóm
lại công việc thực tế y không biết gì cả. Thế là y chỉ có trí thức một nửa. Trí
thức của y chỉ là trí thức học sách, chưa phải trí thức hoàn toàn. Y muốn trở
thành một người trí thức hoàn toàn, thì phải biết đem trí thức đó áp dụng vào
thực tế" [38, tr.235]. Có thể nói Người đề cao tính thực tiễn trong hoạt động
của một trí thức và vai trò của họ cũng thể hiện trong những hoạt động mang
tính thực tiễn đó. Một người được đào tạo, trang bị đầy đủ các tri thức chuyên
môn mà không có hoạt động thực tiễn thì cũng không phát huy được giá trị
những tri thức đó cũng như vai trò là một trí thức của chính anh ta.
Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu trọn vẹn những tư tưởng của Chủ
nghĩa Mác - Lênin về trí thức và vai trò của đội ngũ trí thức mà Người còn kế
thừa và phát huy những quan điểm truyền thống của dân tộc về trí thức, hiền
tài. "Hiền tài là nguyên khí quốc gia” hay “quốc gia hưng vong, thất phu hữu
trách”. Tất cả những tư tưởng đó được Người vận dụng triệt để trong quá
12
trình lãnh đạo nhân dân ta tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc và
xây dựng đất nước. Khi thành lập Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã đưa ra Công thư đăng báo "Tìm người tài đức". Bác viết "Không
thiếu người có tài, có đức. E vì Chính phủ nghe không đến, thấy không khắp,
đến nỗi những người tài đức không thể xuất thân". Người khẳng định một dân
tộc dốt là một dân tộc yếu. Do đó theo Người, Đảng ta phải nhận thức rõ vai
trò của đội ngũ trí thức đối với sự nghiệp Cách mạng của dân tộc "Những
người trí thức tham gia cách mạng, tham gia kháng chiến là rất quý báu cho
Đảng. Không có những người trí thức đó thì công việc cách mạng khó khăn
thêm nhiều", "cách mạng rất cần trí thức và chính ra chỉ có cách mạng mới
biết trọng trí thức, trí thức đáng trọng là trí thức hết lòng phục vụ cách mạng,
phục vụ nhân dân" [38, tr.32-33]. Với tinh thần đó Người đã thuyết phục và
cảm hoá được rất nhiều nhân sĩ, trí thức lớn tham gia cách mạng như Trần Đại
Nghĩa, Tạ Quang Bửu, Phan Anh, Tôn Thất Tùng, Trần Hữu Tước, Nguyễn
Hữu Thọ…. Những người đã từ bỏ cuộc sống nhung luạ, giàu sang, bất chấp
nguy hiểm lên chiến khu tham gia kháng chiến giành độc lập cho dân tộc và
gây dựng nền tảng khoa học mới cho nước nhà.
Trong phiên họp đầu tiên của Hội đồng Chính phủ Việt Nam dân chủ
cộng hoà ngay sau khi giành được độc lập (tháng 9/l945), Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã xác định "chống giặc dốt" và "giáo dục nhân dân trở nên một dân tộc
dũng cảm, yêu nước, yêu lao động… cần, kiệm, liêm, chính" là hai trong sáu
nhiệm vụ cấp bách của đất nước lúc bấy giờ.
Với tầm nhìn xa, trông rộng Người luôn nhấn mạnh: "trong sự nghiệp
xây dựng Chủ nghĩa Xã hội, lao động trí óc có một vai trò quan trọng và vẻ
vang". "…. Đảng ta luôn phải nắm vững khoa học kỹ thuật, do đó mỗi Đảng
viên đều phải cố gắng học tập văn hoá, học tập khoa học và kỹ thuật" [38,
tr.214]. Hồ Chí Minh cho rằng con đường để hình thành và phát triển đội ngũ
13
trí thức ở nước ta là đào tạo trí thức mới, cải tạo trí thức cũ, công nông trí thức
hoá, trí thức công nông hoá. Nghĩa là: công nông cần học tập và nâng cao
trình độ của mình, trí thức phải gần gũi với công nông truyền bá tư tưởng,
khoa học kỹ thuật cho công nông đồng thời học tập tinh thần, nghị lực trong
lao động của công nông. Có như vậy thì công - nông - trí đoàn kết với nhau
thành một khối thống nhất, cùng nhau tiến bộ và giúp cho đất nước thực hiện
thành công sự nghiệp cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên Chủ nghĩa Xã
hội.
Người cũng đặc biệt quan tâm đến đội ngũ trí thức hoạt động trong lĩnh
vực giáo dục. Bác luôn khẳng định vai trò, vị trí không thể thay thế được của
người trí thức trong việc tiếp thu, phát huy và truyền lại những giá trị văn hoá,
khoa học của dân tộc và nhân loại cho thế hệ mai sau; trong việc đào tạo cán
bộ cho tương lai, "đào tạo đội ngũ trí thức mới cho cách mạng". Người nói:
"Nhiệm vụ của giáo dục rất quan trọng và vẻ vang, vì nếu không có thầy giáo
thì không có giáo dục… kháng chiến cần một đội ngũ cán bộ. Không có giáo
dục, không có cán bộ thì cũng không nói gì đến kinh tế, văn hoá" [39, tr.184].
Thấm nhuần quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, ngay từ khi thành lập, dẫn dắt toàn dân đấu tranh giành độc lập dân tộc,
cho đến ngày hôm nay trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước Đảng
ta luôn coi trí thức là một bộ phận vô cùng quan trọng, không thể thiếu trong
quá trình cách mạng. Với những chủ trương, đường lối đúng đắn Đảng ta đã
xây dựng và phát triển đội ngũ trí thức lớn mạnh, đoàn kết với giai cấp công
nhân, nông dân, tạo thành một khối thống nhất, tạo thành một sức mạnh to lớn
trong cuộc cách mạng dân tộc trên mọi phương diện "Trong cách mạng dân
tộc, dân chủ, vai trò giới trí thức đã quan trọng, trong xây dựng xã hội chủ
nghĩa, vai trò giới trí thức càng quan trọng hơn. Giai cấp công nhân nếu
không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản thân công - nông không được
14
nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hoá thì không thể xây dựng
Chủ nghĩa Xã hội" [7, tr.133].
Tại Hội nghị lần thứ 7, Ban Chấp hành Trung ương khoá X về xây
dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH hoá đất nước Đảng
ta đã ra Nghị quyết, trong đó chỉ rõ: Trí thức là những người lao động trí óc,
có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư
duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm
tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội. Trong định nghĩa này, trí thức
cơ bản là những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao. Tuy nhiên nếu
chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ. Trí thức còn phải là những người lao động có
sự sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức. Do đó không thể tạo ra những sản
phẩm vật chất và tinh thần có giá trị thực tiễn thì cũng không được gọi là trí
thức. Trong xã hội ta ngày hôm nay, để tạo ra được những sản phẩm có giá trị
như thế người trí thức không chỉ có năng lực chuyên môn, khả năng sáng tạo
mà còn phải có đạo đức và nhân cách tốt. Đây là biểu hiện cho mối quan hệ
giữa tài và đức trong mỗi con người, nó hoàn toàn phù hợp với quan điểm của
Chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về trí thức.
Cũng trong Hội nghị này Nghị quyết số 27-NQ/TW đã khẳng định:
Trong mọi thời đại, trí thức luôn là nền tảng tiến bộ xã hội, đội ngũ trí thức là
lực lượng nòng cốt sáng tạo và truyền bá tri thức. Ngày nay, cùng với sự phát
triển nhanh chóng của cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, đội ngũ trí
thức trở thành nguồn lực đặc biệt quan trọng trong sự hình thành và phát triển
nền kinh tế tri thức phục vụ phát triển kinh tế xã hội và tạo nên sức mạnh của
mỗi quốc gia trong chiến lược phát triển. Mục tiêu sớm đưa nước ta ra khỏi
tình trạng kém phát triển, cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020 đòi hỏi phải lựa chọn con đường rút ngắn, phát huy
15
đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là
năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức.
Đối với người trí thức xã hội chủ nghĩa, nếu tài năng, trí tuệ đóng vai
trò quan trọng trong sự sáng tạo thì phẩm chất, đạo đức lại đóng vai trò định
hướng cho người trí thức mang những tri thức, những giá trị mà mình sáng
tạo ra phục vụ cho sự tiến bộ và phát triển chung của cộng đồng và xã hội. Có
thể nói những quan điểm của Đảng ta về đội ngũ trí thức là cơ sở lý luận vững
chắc cho việc nhìn nhận, đánh giá về vai trò cũng như phương hướng xây
dựng đội ngũ trí thức của nước ta hiện nay.
Từ một số những quan điểm nói trên có thể rút ra những đặc điểm cơ
bản của đội ngũ trí thức như sau:
Thứ nhất: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, là sự sáng
tạo ra những tri thức mới, những giá trị mới. Đây cũng chính là đặc trưng nổi
bật nhất của trí thức để có thể phân biệt với các giai cấp và tầng lớp khác
trong xã hội. Tuy nhiên lao động trí óc cũng có nhiều dạng khác nhau. Tiêu
chí cơ bản để phân biệt là sự hao tổn trí tuệ, hàm lượng chất xám ít hay nhiều
trong quá trình lao động. Đối với người lao động trí óc một cách giản đơn, sự
hao tổn năng lượng trí tuệ không phải là cơ bản thì họ chưa được gọi là trí
thức. Ngay cả những người có trình độ cao, tốt nghiệp đại học nhưng không
làm việc đúng chuyên môn, tham gia lao động phổ thông hoặc thất nghiệp thì
cũng không được coi là trí thức Như vậy người lao động với sự chi phí hàm
lượng chất xám cao, trí tuệ lớn, luôn có sự tìm tòi, nghiên cứu, đặc biệt là có
sự sáng tạo, dùng tri thức để tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần mới cho
đời sống mới thực sự là trí thức.
Thứ hai: Trí thức là người có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên
môn nhất định: Lao động của trí thức là lao động trí óc phức tạp, đòi hỏi sự
sáng tạo cao nên người trí thức phải có trình độ học vấn. Do đó người trí thức
16
luôn phải trải qua quá trình được giáo dục và đào tạo một chuyên môn nhất
định. Để đảm bảo cho hoạt động lao động trí óc phức tạp, sáng tạo người trí
thức cần phải có trình độ tối thiểu từ đại học trở lên. Tiêu chí này cũng chỉ
mang tính tương đối bởi trong thực tế có những người không hề tốt nghiệp đại
học, không có bằng cấp nào tương ứng nhưng những sản phẩm họ tạo ra lại
mang một hàm lượng chất xám cao, là một sự sáng tạo đặc biệt, ứng dụng một
cách hiệu quả vào thực tiễn…
Thứ ba: Trí thức tham gia vào các hoạt động lãnh đạo, quản lý xã hội.
Hầu hết các xã hội luôn cần đến sự tham gia của trí thức trong hoạt động lãnh
đạo cũng như quản lý xã hội. Bởi hoạt động này luôn cần đến một năng lực
hơn người, một phẩm chất đặc biệt. Người làm công tác quản lý, lãnh đạo
phải là người có tri thức sâu rộng về lĩnh vực mà mình quản lý và lãnh đạo.
Không những thế họ còn phải có những năng lực khác như tổ chức, tập hợp,
giáo dục, thuyết phục, lôi kéo quần chúng tham gia thực hiện những nhiệm vụ
đã vạch ra.
Thứ tư: Trí thức không phải là một giai cấp mà là một tầng lớp xã hội
đặc biệt, tuy không có hệ tư tưởng độc lập nhưng trí thức lại đại diện cho trí
tuệ của thời đại trong từng giai đoạn lịch sử nhất định. Khi đã gắn bó với một
giai cấp nhất định trong xã hội trí thức sẽ phát huy vai trò của mình. Do đặc
thù quá trình lao động của mình luôn đòi hỏi tính trí tuệ, tính sáng tạo nên trí
thức có khả năng tổng kết, khái quát thực tiễn thành lý luận, xây dựng hệ tư
tưởng cho giai cấp thống trị. Trong lịch sử bất cứ giai cấp cầm quyền nào
cũng cần đến trí thức. Họ luôn tìm cách thu hút, tập hợp và lôi kéo lực lượng
trí thức về phía mình.
Thứ năm: Sự ra đời của trí thức là kết quả của sự phát triển lực lượng
sản xuất của sự phân công lao động. Như sự tổng kết của Ăngghen trong tác
phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và nhà nước" thì lịch sử
17
loài người đã trải qua 3 lần phân công lao động lớn: Lần thứ nhất là sự tách ra
giữa chăn nuôi và trồng trọt; Lần thứ hai là thủ công nghiệp tách ra khỏi nông
nghiệp; Lần thứ ba là sự tách biệt lao động trí óc ra khỏi lao động chân tay.
Có thể nói lao động trí óc không thể thiếu và ngày càng trở nên quan trọng đối
với sự phát triển của xã hội.
Ở Việt Nam, đội ngũ trí thức hiện đại chủ yếu xuất thân là con em nông
dân, công nhân hoặc được hình thành trong quá trình trí thức hóa công nhân
và nông dân. Đây là một đặc điểm riêng của đội ngũ trí thức Việt Nam so với
giới trí thức của các quốc gia đã trải qua giai đoạn Tư bản Chủ nghĩa. Nhìn
chung, chỉ có một số rất ít trong số trí thức Việt Nam hiện nay được thừa
hưởng truyền thống của các gia đình trí thức lâu đời. Đặc điểm đó tạo ra cho
giới trí thức nước ta một sự gắn bó sâu sắc với nhân dân lao động, với hoàn
cảnh nghèo nàn, lạc hậu của đất nước, cùng chung một mong muốn xây dựng
đất nước trở thành một quốc gia dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công
bằng, văn minh.
Với những đặc điểm cơ bản như trên, trí thức ngày càng trở nên có vị
trí, vai trò vô cùng quan trọng trong đời sống xã hội, đặc biệt trong xu thế
chung của thế giới hướng tới xây dựng nền kinh tế tri thức, trong công cuộc
đổi mới toàn diện đất nước cũng như trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH
hiện nay.
1.2. Vai trò đội ngũ trí thức và trí thức giảng viên ở Việt Nam hiện nay
1.2.1. Vai trò của đội ngũ trí thức Việt Nam hiện nay
Xã hội càng phát triển thì cơ cấu ngành nghề của đội ngũ trí thức ngày
càng trở nên đa dạng. Do đó có thể phân loại (một cách tương đối) đội ngũ trí
thức ở nước ta hiện nay dựa trên những căn cứ như sau:
Thứ nhất: Căn cứ vào nguồn, trình độ đào tạo và dạng thức lao động
- Theo nguồn đào tạo: trí thức đào tạo trong nước và ngoài nước
18
- Xem thêm -