Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân từ...

Tài liệu Vai trò của viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh cao bằng

.DOC
72
6
105

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NÔNG QUỐC TOẢN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính Mã số: 8.38.01.02 LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. Hoàng Thị Quỳnh Chi Hà Nội, 2020 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có nguồn gốc trích dẫn rõ ràng. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào. Tác giả luận văn NÔNG QUỐC TOẢN MỤC LỤC MỞ ĐẦU................................................................................................................................................................1 CHƯƠNG 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XẾT XỬ CUAT TÒA ÁN NHÂN DÂN ...........................................................................................................................................10 1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân ......................................................................................10 1.2. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động động xét xử của Tòa án nhân dân ........................................................................................................19 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG...............................................................................33 2.1. Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Cao Bằng....................................................................................................................................33 2.2. Những kết quả đạt được trong việc thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng........................................................................................................................................................................38 2.3. Những hạn chế và nguyên nhân hạn chế................................................................................45 CHƯƠNG 3. YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG......................................51 3.1. Yêu cầu trong việc nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân .............................................................................................51 3.2. Giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân......................................................................................................................53 KẾT LUẬN ......................................................................................................................................................64 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO......................................................................................66 DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT VKSND Viện kiểm sát nhân dân VKS Viện kiểm sát KSV Kiểm sát viên TTHS Tố tụng hình sự TTDS Tố tụng dân sự TTHC Tố tụng hành chính HĐXX Hội đồng xét xử TAND Tòa án nhân dân MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Theo quy định của pháp luật, ngành kiểm sát nhân dân có hai chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; có nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất. Trong những năm vừa qua công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp nói chung và công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát xét xử nói riêng của VKSND được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và đã có nhiều chỉ đạo sát sao, quyết liệt, cụ thể: Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 01/01/2002 của Bộ chính trị về một số nhiệm vụ trọng tâm của công tác tư pháp trong thời gian tới đã chỉ rõ: "Nâng cao chất lượng công tố của Kiểm sát viên tại phiên tòa, bảo đảm tranh tụng dân chủ với luật sư, người bào chữa và những người tham gia tố tụng khác…".[3] Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã chỉ rõ: “Viện kiểm sát nhân dân tập trung làm tốt chức năng công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”. Nghị quyết số 49-NQ/TW của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 khẳng định: “Trước mắt, viện kiểm sát nhân dân giữ nguyên chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp... tăng cường trách nhiệm của công tố trong hoạt động điều tra”. "Nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp" [4]. Các chủ trương, quan điểm đó đã được cụ thể hóa trong Hiến pháp năm 2013, tại khoản 1, Điều 107 và khoản 2, Điều 3 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014 khẳng định: “Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan thực hành quyền công tố…của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa 1 Việt Nam” [19]. Nhờ đó, trong những năm qua hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung, thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử nói riêng của ngành kiểm sát đã đạt được những kết quả nhất định như: Đã hạn chế tình trạng oan sai, bỏ lọt tội phạm, đã phát hiện, khởi tố, xử lý kịp thời các hành vi phạm tội và tội phạm, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân góp phần hiệu quả trong công cuộc đấu tranh phòng và chống tội phạm, giữ vững an ninh trật tự, an toàn xã hội. Bên cạnh đó, thực tiễn cho thấy công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử vẫn còn những hạn chế, bất cập như: Một số vụ án truy tố, xét xử oan, sai hàng chục năm sau mới phát hiện như vụ: Hàn Đức Long, Nguyễn Thanh Chấn … gây hoang mang, bức xúc trong nhân dân, tình trạng bỏ lọt tội phạm, chất lượng xét hỏi của KSV còn hạn chế, KSV chưa làm tốt công tác chuẩn bị cho hoạt động xét xử, chất lượng tranh tụng trong nhiều phiên tòa hưa thực sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp, các vụ án dân sự thường bị kéo dài, các vụ án hành chính khó xử lý do liên quan đến bị đơn là người có chức quyền, … Để xảy ra tình trạng đó cho thấy rằng trong khi thực hiện chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án, không phải lúc nào trách nhiệm và quyền hạn của Viện kiểm sát cũng được thực hiện một cách đầy đủ và trọn vẹn vì một số lý do như: Một số quy định chưa rõ ràng, cụ thể; năng lực, trình độ, bản lĩnh của đội ngũ Kiểm sát viên chưa được đồng đều; quan hệ phối hợp giữ nội bộ ngành Kiểm sát, quan hệ giữa ngành Kiểm sát và Tòa án nhân dân và với các ban ngành hữu quan khác đôi khi còn bộc lộ sự bất cập, chưa thực sự tốt do đó dẫn tới nhận thức pháp luật khác nhau. Từ đó đưa đến hệ quả không có sự thống nhất trong quá trình thực hiện những quy định của pháp luật. Tất cả những nguyên dân đó dẫn đến chất lượng, hiệu quả trong công tác xét xử của Tòa án các cấp chưa thật sự được như mong 2 đợi. Vì vậy, nghiên cứu nhằm làm sáng tỏ cơ sở lý luận và thực tiễn về “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng”, làm rõ cơ sở lý luận, những trách nhiệm, quyền hạn của Viện kiểm sát mà Nhà nước đã giao cho; hiệu quả đã đã đạt được; những tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, qua đó tìm ra những bất cập, khó khăn, vướng mắc trong thực tiễn áp dụng các quy định của pháp luật về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của ngành Kiểm sát nhân dân trong hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát tại Tòa án nhân dân. Trên cơ sở đó đưa ra các giải pháp khắc phục, đề xuất phương hướng cơ bản hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân, đáp ứng yêu cầu của cải cách tư pháp. Từng bước hạn chế và tiến tới tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội trong xét xử các vụ án hình sự; đảm bảo việc giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, hành chính của Tòa án các cấp được kịp thời, đúng quy định của pháp luật. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Qua quá trình nghiên cứu, tìm hiểu về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân trong thời gian qua nhận thấy đã có một số công trình nghiên cứu của các tác giả về vấn đề này, như: - Luận văn thạc sỹ Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định”, của Nguyễn Hữu Phước (2016) [11]. Tác giử đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về quyền công tố và thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, đánh giá thực trạng vấn đề này tại địa phương huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định và đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện có hiệu quả hơn nội dung này tại địa phương. 3 - Luận văn thạc sỹ Luật hình sự, “Nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện trong cải cách tư pháp ở nước ta” của Lương Thúy Hà (2012) [12]. Đã đề cập đến một số vấn đề lý luận về thực hành quyền công tố của VKSND, pháp luật về thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện trên địa bàn thành phố Hà Nội và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hành quyền công tố của VKSND cấp huyện. - Luận văn Luật học, “Thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi” của Phan Thị Sa (2018) [13]. Đã làm rõ cơ sở lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND trong hoạt động xét xử vụ án hình sự ở nước ta. Từ đó đánh giá thực tiễn thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại VKSND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi trong thời gian qua và đề xuất các giải pháp nhằm tăng cường công tác thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự của VKSND huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. - Luận văn Luật học, “Vị trí, vai trò và chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự” của Lê Văn Thắng (2012) [14]. Đã nghiên cứu những vấn đề mang tính lý luận chung về vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, đồng thời đi sâu nghiên cứu những quy định pháp lý hiện hành có liên quan đến vị trí, vai trò của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm. Thực trạng về VKS, phân tích các số liệu thực tế của VKSND thành phố Hà Nội về hoạt động của VKS trong giai đoạn xét xử hình sự sơ thẩm để minh hoạ cho những vấn đề mà luận văn nghiên cứu. - Đề tài khoa học cấp tỉnh, “Thực trạng và giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố, 4 kiểm sát điều tra các vụ án hình sự xảy ra trên địa bàn tỉnh Cao Bằng” của tiến sĩ Lê Minh Long (2020) [26]. Đề tài nghiên cứu đánh giá toàn diện thực trạng, chất lượng hoạt động của Viện Kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công tố, kiểm sát điều tra các vụ án hình sự. Dự báo và đề xuất một số giải pháp góp phần đảm bảo khách quan khi thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Cao Bằng. Phân tích làm rõ khái niệm, dấu hiệu pháp lý và đặc điểm hình sự của tội phạm Nghiên cứu làm sáng tỏ mặt lý luận về hoạt động thực hành quyền công tố và kiểm sát điều tra của Viện KSND đối với các vụ án hình sự. Các công trình nghiên cứu trên với những cách tiếp cận khác nhau, đã làm rõ một số vấn đề liên quan trực tiếp và gián tiếp đến các vấn đề lý luận, thực tiễn cũng như định hướng, giải pháp giải quyết vấn đề liên quan đến đề tài. Một số công trình nghiên cứu đã tập trung vào nội dung vai trò của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự tại một số địa phương cụ thể, và đề xuất các giải pháp gắn liền với điều kiện kinh tế, xã hội của địa phương đó. Các kết quả nêu trên sẽ được tác giả tiếp tục kế thừa có chọn lọc, vận dụng hợp lý vào các nội dung cụ thể của luận văn. Tuy nhiên, tác giả nhận thấy, vai trò của VKSND trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự cần tiếp tục được làm rõ thêm một số vấn đề, đặc biệt là trong quá trình thực thi Bộ luật Hình sự 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, cũng như yêu cầu thực hiện chiến lược cải cách tư pháp hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử Tòa án nhân dân tỉnh Cao Bằng là rất cần thiết, trên cơ sở đó sẽ đưa ra các giải pháp để tiếp tục tăng cường hoạt động này nhằm đáp ứng được yêu cầu của địa phương và tiến trình cải cách tư pháp hiện nay. Từ thực tiễn kiểm sát xét xử các vụ án dân sự, hình sự, hành chính tại địa bàn tỉnh Cao Bằng cho thấy vẫn đang tồn tại một số vấn đề vướng mắc, bất 5 cập cần được xem xét, ngiên cứu và làm sáng tỏ. Để giải quyết được vấn đề đó cần có một công trình nghiên cứu về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, phân tích thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Cao Bằng. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận chung về vai trò của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân, phân tích thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Cao bằng trong hai năm 2018 và 2019. Cụ thể là vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động tư pháp trong việc giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Những kết quả cụ thể đã đạt được; những hạn chế, tồn tại, nguyên nhân… Trên cơ sở đó luận văn sẽ đưa ra những quan điểm, giải pháp khắc phục những hạn chế, yếu kém, tồn tại để từ đó giúp cho công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của Viện kiểm sát nhân nói chung, VKSND tỉnh Cao Bằng nói riêng đạt được hiệu quả cao hơn nữa trong thời gian tiếp theo. 3.2. Nhiệm vụ - Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về vai trò, vị trí, chức năng, nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. 6 - Đánh giá thực trạng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động giải quyết các vụ, việc dân sự, hôn nhân gia đình, thương mại, lao động, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. Từ đó chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân và các giải pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm sát xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các việc khác của VKSND nhân dân nói chung, Viện KSND tỉnh Cao Bằng nói riêng trong quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát hoạt động tư pháp trong lĩnh vực dân sự, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 4.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quy định của háp luật về vị trí, vai trò của VKSND trong thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn xét xử các vụ án hình sự, dân sự, hành chính và các lĩnh vực khác theo quy định của pháp luật của Tòa án hai cấp tỉnh Cao Bằng. 4.2. Phạm vi nghiên cứu - Phạm vi về nội dung: Nghiên cứu công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử của VKSND cấp huyện và cấp tỉnh trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, phúc thẩm các vụ án hình sự, dân sự, hành chính theo quy định của pháp luật. - Phạm vi về thời gian: Số liệu được sử dụng nghiên cứu được tổng hợp từ kết quả thống kê, báo cáo công tác ngành kiểm sát Cao Bằng từ năm 20162019 và 6 tháng đầu năm 2020. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 5.1. Cơ sở lý luận 7 Nghiên cứu trên cơ sở của phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác- Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật, về cải cách tư pháp. 5.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn kết hợp nhiều phương pháp nghiên cứu và sử dụng ở mức độ khác nhau trong những nội dung khác nhau như: Phương pháp phân tích tổng hợp; Phương pháp luật học so sánh; Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình, khảo sát thực tiễn; Phương pháp chuyên gia; Phương pháp lịch sử. 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa khoa học Luận văn góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận và quy định pháp luật về thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự; kiểm sát giải quyết các vụ, việc dân sự, hành chính, kinh doanh thương mại và các việc khác theo quy định của pháp luật từ thực tiễn xét xử của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Cao Bằng. Nhận thức được những kết quả, hạn chế, nguyên nhân và giải pháp trong việc nâng cao chất lượng công tác kiểm sát hoạt động xét xử của tòa án nhân dân. Xác định các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện công tác này hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn Kết quả nghiên cứu của luận văn là nguồn tài liệu tham khảo cho các cơ quan cấp trên trong việc xây dựng, hoạch định chính sách khi xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định liên quan đến công tác kiểm sát xét xử của VKSND, là nguồn tư liệu tham khảo cho đội ngũ cán bộ, công chức trong ngành kiểm sát tỉnh Cao Bằng và các địa phương khác, đặc biệt là đối với đội ngũ cán bộ, công chức mới được tuyển dụng trong ngành Kiểm sát nhân dân. 8 7. Kết cấu của luận văn Luận văn có kết cấu gồm 03 chương: Chương 1. Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân. Chương 2. Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân tại tỉnh Cao Bằng. Chương 3. Yêu cầu và giải pháp nâng cao vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân dân từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng. 9 CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG HOẠT ĐỘNG XÉT XỬ CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN 1.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân Theo quy định tại Điều 107 Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 và Điều 2 Luật tổ chức VKSND năm 2014, VKSND là cơ quan có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 1.1.1. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước 1.1.1.1. Vị trí của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước Theo Hiến pháp năm 2013, VKSND là cơ quan nằm trong khối các cơ quan tư pháp, thực hiện hai chức năng chính là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp trên lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Theo đó, VKSND là cơ quan Hiến định. Viện trưởng do Quốc hội trực tiếp bầu ra, nhiệm kỳ của Viện trưởng VKSND tối cao theo nhiệm kỳ của Quốc hội. Viện trưởng VKSND tối cao phải xây dựng và báo cáo trước Quốc hội tại các kỳ họp; trong thời gian Quốc hội không họp, Viện trưởng VKSND Tối cao chịu trách nhiệm và báo cáo công tác trước Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước khi có yêu cầu. Chế độ báo cáo công tác của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác do luật định. VKSND gồm VKSND tối cao và các Viện kiểm sát khác do luật định. Việc bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức, nhiệm kỳ của Viện trưởng các Viện kiểm sát khác và của Kiểm sát viên do luật định. 10 1.1.1.2. Chức năng của Viện kiểm sát trong bộ máy Nhà nước Trong bộ máy nhà nước Việt Nam hiện nay, Viện kiểm sát nhân dân là cơ quan có hai chức năng thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, cụ thể: Hoạt động thực hành quyền công tố của VKSND trong tố tụng hình sự chính là việc VKS thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội. Hoạt động này được thực hiện ngay từ khi VKS tiến hành thực hành quyền công tố và kiểm sát việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố; thực hành quyền công tố và kiểm sát quá trình khởi tố, điều tra, truy tố; kiểm sát xét xử các vụ án hình sự. VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố nhằm bảo đảm: Tất cả các hành vi phạm tội, người phạm tội đều phải được phát hiện, khởi tố, điều tra và xử lý kịp thời, nghiêm minh, đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giữ, tạm giam, bị hạn chế các quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng, sức khoẻ, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Việc khởi tố, điều tra, truy tố phải kịp thời, khách quan, toàn diện, đầy đủ, chính xác, đúng pháp luật; những vi phạm pháp luật trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố phải được phát hiện kịp thời; khắc phục và xử lý nghiêm minh. Không có vùng cấm trong công cuộc đấu tranh và phòng chống tội phạm. VKSND thực hiện chức năng thực hành quyền công tố thông qua công tác thực hành quyền công tố trong việc tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố của cơ quan điều tra và cơ quan được giao tiến hành một số hoạt động điều tra; trong giai đoạn khởi tố, điều tra vụ án hình sự; trong giai đoạn truy tố tội phạm của VKS và trong giai đoạn xét xử các vụ án hình sự của Tòa án. 11 1.1.1.3. Nhiệm vụ của Viện kiểm sát nhân dân VKSND có nhiệm vụ bảo vệ pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất trên phạm vi cả nước. Ngoài ra, Viện KSND còn thực hiện một số công tác: Thống kê tội phạm; xây dựng pháp luật; phổ biến, giáo dục pháp luật; Đào tạo, bồi dưỡng; nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế và các công tác khác để xây dựng VKSND. 1.1.1.4. Chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố, kiểm sát các hoạt động tư pháp trong lĩnh vực hình sự Ở Việt Nam, từ thời Pháp thuộc, Viện công tố đã được thành lập, mô hình này tiếp tục tồn tại sau Cách mạng tháng Tám năm 1945 trong cơ cấu hệ thống tổ chức của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà. Hiến pháp năm 1946 tuy không đề cập đến Viện công tố nhưng trong cơ cấu của Toà án có các Công tố viên làm nhiệm vụ buộc tội nhân danh Nhà nước trước phiên toà trong các vụ án hình sự. Sau ngày hoà bình lập lại ở miền Bắc, Viện công tố được tách ra khỏi Toà án nhưng trực thuộc Chính phủ và hình thành một hệ thống cơ quan Nhà nước độc lập với Toà án từ Trung ương tới địa phương. Hoạt động chủ yếu của Viện công tố vẫn là hoạt động công tố trước Toà án. Sau này, do yêu cầu của công cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là pháp luật phải được chấp hành nghiêm chỉnh và thống nhất, nên Hiến pháp năm 1959 đã định ra thêm một loại hình cơ quan Nhà nước mới trong bộ máy Nhà nước, đó là hệ thống cơ quan Viện kiểm sát. Ngoài chức năng công tố, Viện kiểm sát các cấp còn thực hiện một chức năng thứ hai là kiểm sát việc tuân theo pháp luật. Hiến pháp năm 1980, Hiến pháp năm 1992 tuy có sửa đổi một số quy định về tổ chức và hoạt động của Viện kiểm sát, nhưng chức năng 12 công tố, vẫn giao cho Viện kiểm sát đảm nhiệm. Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2002) và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 đều khẳng định VKSND có hai chức năng như hiện nay là thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp. Như vậy, ở Việt Nam chức năng thực hành quyền công tố từ trước đến nay vẫn luôn được giao cho Viện kiểm sát thực hiện. Trong lĩnh vực hình sự, Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất được thực hành quyền công tố. Chức năng thực hành quyền công tố của VKSND thể hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội trong lĩnh vực hình sự, được thực hiện ngay từ giai đoạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử các vụ án hình sự. Các nhà khoa học về lịch sử Nhà nước và pháp luật cũng chỉ ra rằng, hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật không phải chỉ xuất hiện sau Cách mạng tháng Mười Nga (1917) khi Lênin xây dựng Nhà nước Xô Viết - một Nhà nước kiểu mới, mà đã có từ thời Vua Pier Đệ nhất (1772), khi yêu cầu củng cố quyền lực của nhà Vua, nhu cầu cần có sự quản lý Nhà nước mạnh mẽ. Viện công tố ở Nga được nhìn nhận không chỉ là một cấu trúc quản lý thuận tiện, hợp lý mà trước hết là sức mạnh gắn kết Nhà nước, là nền tảng cho pháp chế thống nhất, là trật tự pháp luật. Hoạt động chủ yếu của Viện công tố Nga lúc này là giám sát sự tuân thủ pháp luật trong Nhà nước, còn hoạt động buộc tội trước Toà án chỉ là một trong những chức năng của Viện công tố. Khi tiến hành kiểm sát điều tra các vụ án hình sự, VKS có nhiệm vụ và quyền hạn kiểm sát việc khởi tố vụ án, kiểm sát các hoạt động điều tra và lập hồ sơ vụ án của cơ quan điều tra và các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra. Kiểm sát việc tuân theo pháp luật của những người 13 tham gia tố tụng, áp dụng mọi biện pháp do BLTTHS quy định để loại trừ vi phạm pháp luật của cơ quan điều tra và những người tiến hành tố tụng, tham gia tố tụng khác. 1.1.1.5. Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong hoạt động xét xử vụ án dân sự, vụ án hành chính  Trong hoạt động xét xử các vụ án dân sự Căn cứ BLTTDS năm 2015, Luật tổ chức VKSND và Quy chế công tác kiểm sát dân sự, khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự Viện kiểm sát nhân dân có các nhiệm vụ, quyền hạn sau: Khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết các vụ việc dân sự, VKSND có các nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Kiểm sát việc trả lại đơn khởi kiện, đơn yêu cầu; 2. Kiểm sát việc thụ lý vụ việc dân sự; 3. Kiểm sát việc Tòa án xác minh, thu thập tài liệu chứng cứ; yêu cầu Tòa án xác minh thu thập tài liệu, chứng cứ trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự hoặc tự mình xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ để bảo đảm cho việc thực hiện quyền kháng nghị; 4. Kiểm sát việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ hoặc không áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án; 5. Kiểm sát kết quả phiên họp kiểm tra việc giao nộp, tiếp cận, công khai chứng cứ và hòa giải; 6. Nghiên cứu hồ sơ vụ việc; 7. Tham gia phiên tòa, phiên họp; kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Thẩm phán, Hội đồng xét xử, thư ký phiên tòa, phiên họp, người tham gia tố tụng tại phiên tòa, phiên họp; phát biểu ý kiến của Viện kiểm sát về việc giải quyết vụ việc tại phiên tòa, phiên họp; 14 8. Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; 9. Yêu cầu Tòa án cùng cấp hoặc cấp dưới chuyển hồ sơ vụ việc dân sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị; 10. Kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm bản án, quyết định của Tòa án theo quy định của pháp luật; 11. Yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự hoãn thi hành bản án, quyết định của Tòa án để xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; quyết định tạm đình chỉ thi hành bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án khi thực hiện thẩm quyền kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm; 12. Tiếp nhận, giải quyết đơn đề nghị, thông báo, kiến nghị xem xét lại bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm, thủ tục đặc biệt; 13. Kiến nghị xem xét lại quyết định của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân (HĐTP TAND) tối cao theo thủ tục đặc biệt; 14. Kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện các hoạt động tố tụng theo quy định của pháp luật; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan khắc phục và áp dụng các biện pháp phòng ngừa vi phạm pháp luật trong quản lý nhà nước và thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị khác theo quy định của pháp luật; 15. Thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong kiểm sát việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của pháp luật.  Trong hoạt động xét xử các vụ án hành chính Luật TTHC năm 2015 quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng hành chính. Trong tố tụng hành chính, mặc dù VKSND không thực hành 15 quyền công tố, song vẫn nhân danh quyền lực Nhà nước thực hiện chức năng "kiểm sát hoạt động tư pháp"; cụ thể là kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong tố tụng hành chính, bảo đảm mọi vi phạm pháp luật trong tố tụng hành chính phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh. Chính vai trò này phân định rất rõ vị trí pháp lý của VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng; không phải là người tham gia tố tụng. Quy định VKSND là cơ quan tiến hành tố tụng đã được khẳng định gần 20 năm nay vẫn phát huy tác dụng, mang lại hiệu quả cao, không làm ảnh hưởng đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của Tòa án, đương sự và người tham gia tố tụng khác. Vì vậy, để bảo đảm vị trí độc lập, hiến định của VKSND; thực hiện nguyên tắc phân công, phối hợp và kiểm sát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền tư pháp, cần thiết phải giữ nguyên địa vị pháp lý của VKSND như quy định hiện hành (là cơ quan tiến hành tố tụng trong tố tụng hành chính). Trong tố tụng hành chính, VKSND tham gia tố tụng với chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án hành chính và được quy định tại Điều 23 Luật TTHC. Và đây được xem là một trong những nguyên tắc cơ bản của hoạt động tố tụng hành chính. Theo đó, một trong những nội dung quan trọng của nguyên tắc này thể hiện: "Viện kiểm sát nhân dân... tham gia các phiên toà, phiên họp của Toà án”. Như vậy, qua quy định trên thì tại các phiên tòa xét xử sơ thẩm, phiên tòa xét xử phúc thẩm, phiên tòa giám đốc thẩm, phiên tòa tái thẩm, và tại các phiên họp của Tòa án về việc giải quyết các vụ án hành chính phải có sự tham gia của Kiểm sát viên . Nội dung cơ bản của nguyên tắc này đã được Luật TTHC quy định chi tiết tại các chương liên quan. Về sự có mặt của Kiểm sát viên tại phiên tòa cấp sơ thẩm và phiên tòa cấp phúc thẩm được quy định tại Điều 130 và Điều 194 Luật TTHC. Theo đó, cả hai điều luật đều quy định: 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan