VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
HOÀNG HẢI QUÝ
VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN
TRONG BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIAM TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
Ngành: Luật Hiến pháp và Luật hành chính
Mã số: 8.38.01.02
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HIẾN PHÁP VÀ LUẬT HÀNH CHÍNH
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS Vũ Công Giao
Hà Nội - 2020
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ
ràng và được trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả
Hoàng Hải Quý
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: NHƯNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM
SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM
GIAM.
1.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
7
7
1.2. Khái quát về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo vệ
quền con người
11
1.3. Nội dung vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo vệ
quyền của người bị tạm giam.
26
Chương 2: THỰC TRẠNG THỰC HIỆN VAI TRÒ CỦA VIỆN KIỂM SÁT
NHÂN DÂN TỈNH CAO BẰNG TRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA
NGƯỜI BỊ TẠM GIAM
2.1. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện vai trò bảo vệ quyền của
người bị tạm giam của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng
2.2. Thực trạng vai trò của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh Cao Bằng trong
việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam
2.3. Đánh giá kết quả và hạn chế, nguyên nhân của hạn chế trong việc
thực hiện vai trò bảo vệ quyền của người bị tạm giam của Viện Kiểm sát
Nhân dân tỉnh Cao Bằng.
Chương 3: QUAN ĐIỂM,GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM VAI TRÒ CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂNTRONG VIỆC BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ
TẠM GIAM, TỪ THỰC TIỄN TỈNH CAO BẰNG
3.1. Quan điểm về bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
34
34
37
50
60
bảo vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng.
3.2. Giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc bảo
vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh Cao Bằng
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
60
63
76
77
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLTTHS
BLHS
:
:
Bộ luật Tố tụng Hình sự
Bộ luật hình sự
CQĐT
:
Cơ quan điều tra
ĐTV
:
Điều tra viên
KSĐT
:
Kiểm sát điều tra
KSV
:
Kiểm sát viên
LTCVKSND
:
Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân
LTGTG
:
Luật tạm giữ tạm giam
LTHAHS
:
Luật thi hành án hình sự
TNHS
:
Trách nhiệm hình sự
VKS
:
Viện kiểm sát
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
DANH MỤC CÁC BẢNG
Trang
Bảng 2.1: Bảng số liệu số người bị bắt, tạm giữ và kết quả giải quyết
(từ năm 2016 đến năm 2019)
39
Bảng 2.2: Bảng số liệu VKS phê chuẩn quyết định khởi tố bị can, phê
chuẩn lệnh tạm giam và lệnh bắt tạm giam (từ năm 2016
đến năm 2019)
41
Bảng 2.3: Bảng số liệu án thụ lý kiểm sát điều tra (từ năm 2016 đến
năm 2019)
44
Bảng 2.4: Bảng số liệu VKS thụ lý giải quyết (từ năm 2016 đến năm
2019)
46
Bảng 2.5: Bảng số liệu án kiểm sát xét xử sơ thẩm (năm 2016 đến
năm 2019)
47
Bảng 2.6: Bảng số liệu hoạt động kiểm sát nhà tạm giữ, trại tạm
giam (từ năm 2016 đến năm 2019)
50
Bảng 2.7: Bảng số liệu kết quả giải quyết người bị tạm giam
(từ năm 2016 đến năm 2019)
52
Bảng 2.8: Bảng thống kê, so sánh án trả hồ sơ điều tra bổ sung (từ
năm 2016 đến năm 2019)
52
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bản Tuyên ngôn độc lập khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa công bố ngày 02/09/1945 trên quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã tuyên bố: “Mọi người sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do, quyền
mưu cầu hạnh phúc…”
Với tinh thần đó, Hiến pháp và pháp luật Việt Nam trải qua các thời kỳ
đều ghi nhận quyền con người, quyền công dân. Hiến pháp hiện hành (Hiến
pháp năm 2013) có rất nhiều quy định mới về vấn đề này; trong đó có quyền
bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, nhân
phẩm, danh dự; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình
thức đối xử nào khác tàn bạo, vô nhân đạo.
Văn kiện Đại hội lần thứ XI của Đảng nêu rõ: "Đẩy mạnh xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, trong đó đẩy mạnh việc thực hiện chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch,
vững mạnh, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người". Nghị
quyết 49- NQ/TW ngày 02/06/2005 của Bộ Chính trị về chiến lược cải cách
tư pháp đến năm 2020 khẳng định: "Đòi hỏi của công dân và xã hội với các cơ
quan tư pháp ngày càng cao, các cơ quan tư pháp phải thật sự là chỗ dựa của
nhân dân trong việc bảo vệ công lý, quyền con người, đồng thời phải là công
cụ hữu hiệu bảo vệ pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa, đấu tranh có hiệu
quả với các loại tội phạm và vi phạm".
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII nhấn mạnh: “Tiếp tục đẩy
mạnh việc thực hiện Chiến lược cải cách tư pháp, xây dựng nền tư pháp trong
sạch, vững mạnh, dân chủ, nghiêm minh, từng bước hiện đại, bảo vệ pháp
luật, công lý, quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp chế xã hội chủ
nghĩa, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân...”
1
Nhằm cụ thể hóa các chủ trương, đường lối nêu trên của Đảng và triển
khai thực hiện Hiến pháp 2013, Quốc Hội Việt Nam đã xây dựng và sửa đổi,
bổ sung nhiều văn bản pháp luật để tạo hành lang pháp lý trong việc đảm bảo
các vấn đề về quyền con người. Trong số các văn bản pháp luật đó, BLTTHS
năm 2015 có vai trò quan trọng. Bộ luật này chú trọng đến quyền con người
của các chủ thể tham gia tố tụng, đặc biệt là chủ thể đã bị hạn chế một số
quyền công dân, đó là người bị tạm giữ, tạm giam, vì quyền của đối tượng này
dễ bị lạm dụng và vi phạm.
Theo pháp luật hiện hành, VKSND có hai chức năng là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp, được khẳng định tại Điều 107
Hiến pháp năm 2013. VKSND là cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực
hiện hai chức năng này nhằm góp phần tích cực trong định hướng điều tra
chính xác, đảm bảo cho công tác khởi tố, bắt giam, giữ, thay thế, huỷ bỏ các
biện pháp ngăn chặn cũng như ra các quyết định tố tụng như đình chỉ, tạm
đình chỉ điều tra vụ án… đúng quy định của pháp luật, góp phần xử lý đúng
người, đúng tội, tránh oan, sai, bỏ lọt tội phạm, bảo vệ các quyền con người,
quyền công dân. Phương tiện để VKSND thực hiện chức năng của mình là
các quyền và nghĩa vụ được quy định cụ thể trong hệ thống pháp luật chuyên
ngành.
Trong thời gian vừa qua, Ngành Kiểm sát nói chung và VKSND tỉnh
Cao Bằng nói riêng đã nỗ lực thực hiện tốt nhiệm vụ được giao, song vai trò
bảo vệ quyền con người của VKSND còn chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu
thực tiễn. Hoạt động THQCT, kiểm sát điều tra còn nhiều hạn chế, dẫn đến
việc vẫn còn vi phạm ở một số cơ quan điều tra, trong đó bao gồm các hành vi
bức cung, dung nhục hình đối với người bị tạm giam, hay chưa bảo đảm các
chế độ cho người bị tạm giam... Vì vậy, cần nghiên cứu để tìm ra những
nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó và đề xuất các giải pháp khắc phục.
2
Với cương vị là Kiểm sát viên được giao nhiệm vụ thực hành quyền
công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự, kiểm sát việc tạm giữ, tạm
giam, học viên mong muốn tìm ra được các giải pháp để thực hiện tốt nhất vai
trò của VKSND trong bảo vệ quyền của người bị tạm giam trên địa bàn tỉnh
Cao Bằng. Vì vậy, học viên quyết định chọn đề tài: “Vai trò của Viện kiểm
sát nhân dân trong bảo vệ quyền của người bị tạm giam từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng” để thực hiệ luận văn tốt nghiệp cao học luật của mình.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Hiện nay, quyền con người nói chung và quyền của người bị tạm giam
nói riêng đều được các quốc gia trên thế giới quan tâm. Việt Nam đã sớm
tham gia nhiều công ước quốc tế về quyền con người, pháp luật Việt Nam
cũng đã từng bước hoàn thiện để phu hợp với thực tiễn bảo vệ quyền con
người ở trong nước và trên thế giới. Đến nay đã có nhiều công trình nghiên
cứu về quyền con người trong lĩnh vực tư pháp, trong đó có thể kể đến các
công trình tiêu biểu như:
- "Quyền con người trong thế giới hiện đại", đề tài cấp nhà nước do GS
- “Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn
hóa”, của Vũ Công Giao, Nghiêm Kim Hoa (đồng chủ biên), NXB Hồng Đức,
2012
- “Giới thiệu công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” của
Vũ Công Giao, Tường Duy Kiên, La Khánh Tung (đồng chủ biên), NXB
Hồng Đức, 2012;
- “Luật nhân quyền quốc tế: Những vấn đề cơ bản” Vũ Công Giao, Lã
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Hà Thu Hương “Bảo vệ quyền con người
trong pháp luật trách nhiệm bồi thường nhà nước ở Việt Nam”, 2014;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Ngô Thị Thanh “Bảo đảm quyền con
3
người trong hoạt động xét xử vụ án hình sự”, 2013;
- Luận văn thạc sĩ của tác giả Phung Thanh Mai “ Bảo vệ quyền con
người bằng các quy phạm và các biện pháp tha miễn trong pháp luật hình sự”,
2014…
Các công trình nghiên cứu trên đây chứa đựng nhiều kiến thức, thông
tin bổ ích về quyền con người trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng chưa có
nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của VKSND trong bảo vệ quyền của
người bị tạm giam nói chung và gắn với thực tiễn Cao Bằng nói riêng. Do đó,
việc nghiên cứu đề tài “Vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong bảo vệ
quyền của người bị tạm giam từ thực tiễn Cao Bằng” là không trung lặp với
công trình nghiên cứu nào khác và vẫn có ý nghĩa lý luận và thực tiễn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về vai trò của VKSND trong bảo vệ
quyền của người bị tạm giam, phân tích thực trạng việc đảm bảo quyền của
người bị tạm giam từ thực tiễn ở tỉnh Cao Bằng, trên cơ sở đó đề xuất những
quan điểm, giải pháp khắc phục những hạn chế để VKSND tỉnh Cao Bằng
thực hiện tốt hơn vai trò, chức năng, nhiệm vụ của mình trong việc đảm bảo
quyền của người bị tạm giam.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Phân tích làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về quyền con người và
đảm bảo quyền của người bị tạm giam.
- Phân tích các quy định của BLTTHS và các văn bản quy phạm pháp
luật khác về đảm bảo quyền của người bị tạm giam.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng đảm bảo quyền của người
bị tạm giam ở tỉnh Cao Bằng.
- Phân tích vai trò của VKSND tỉnh Cao Bằng trong việc đảm bảo
quyền của người bị tạm giam.
4
- Đánh giá và chỉ ra ưu điểm, hạn chế và nguyên nhân của ưu điểm, hạn
chế của VKSND tỉnh Cao Bằng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, vai trò,
chức năng của VKS trong đảm bảo quyền con người của người bị tạm giam.
- Đề xuất các giải pháp để thực hiện tốt việc bảo vệ quyền con người
của người bị tạm giam.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là thực trạng vai trò bảo vệ quyền
của người bị tạm giam của VKSND tỉnh Cao Bằng.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề về vai trò của Viện
Kiểm sát trong đảm bảo quyền của người bị tạm giam, đồng thời chỉ tập trung
đánh giá vai trò của VKSND trong việc đảm bảo quyền của người bị tạm
giam ở hai cấp VKSND tỉnh Cao Bằng. Thời điểm lấy số liệu từ năm 2016
đến năm 2019.
Từ góc độ pháp luật, luận văn chỉ tập trung nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam từ khi VKS
phê chuẩn lệnh tạm giam, lệnh bắt tạm giam và trong suốt qua trình điều tra,
truy tố, xét xử.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của luận văn là hệ thống các quan điểm của chủ nghĩa
Mac- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng cộng sản Việt Nam về xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, về chính
sách hình sự, về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 của Bộ Chính trị.
Phương pháp nghiên cứu: Luận văn kết hợp sử dụng các phương pháp
như phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Luận văn góp phần làm sáng tỏ thêm những vấn đề lý luận về quyền
5
con người, về việc đảm bảo quyền của người bị tạm giam, về vai trò của
VKSND với việc bảo đảm quyền của người bị tạm giam.
Kết quả nghiên cứu luận văn sẽ góp phần làm sáng tỏ tình hình áp dụng
các quy định của pháp luật về đảm bảo quyền của người bị tạm giam và việc
thực hiện các quy định của pháp luật của các cơ quan chức năng, trong đó có
vai trò, nhiệm vụ của VKSND tỉnh Cao Bằng, vì thế có thể làm tài liệu tham
khảo cho việc giải quyết những tồn tại, hạn chế của pháp luật cũng như thực
tiễn áp dụng trên địa bàn Cao Bằng.
Luận văn cũng có thể làm tài liệu nghiên cứu, giảng dạy cho học viên,
sinh viên các cơ sở đào tạo nghiên cứu khoa học luật; là tài liệu tham khảo
cho Kiểm sát viên các cấp tỉnh Cao Bằng nghiên cứu áp dụng trong hoạt động
thực tiễn nhằm nâng cao trình độ lý luận và thực tế công tác thực hành quyền
công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm có 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
Chương 2: Thực trạng thực hiện vai trò của Viện kiểm sát nhân dân
tỉnh Cao Bằng trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam
Chương 3: Quan điểm, giải pháp bảo đảm vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc bảo vệ quyền của người bị tạm giam, từ thực tiễn tỉnh
Cao Bằng
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC
BẢO VỆ QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TẠM GIAM
1.1. Khái niệm bảo vệ quyền của người bị tạm giam
1.1.1 Khái niệm quyền con người, bảo vệ quyền con người
* Khái niệm quyền con người.
Quyền con người là một phạm tru đa diện, cho đến nay đã có rất nhiều
công trình nghiên cứu và đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về quyền con
người, song chưa có định nghĩa nào là bao hàm được toàn diện các đặc điểm,
thuộc tính về quyền con người, vì nó phụ thuộc rất nhiều vào những góc độ
tiếp cận khác nhau, vào sự nhìn nhận chủ quan của tác giả.
Du vậy, nhận thức phổ biến trên thế giới cho rằng quyền con người là
một giá trị mang tính tự nhiên, vốn có của tất cả mọi người, vì thế không một
lực lượng hay thế lực nào có thể tuỳ tiện chà đạp, tước bỏ, vi phạm.
Khái niệm quyền con người đã được đề cập từ lâu trong lịch sử nhân
loại, song chỉ đến khi cách mạng tư sản nổ ra thắng lợi thì quyền con người
mới được thừa nhận trong pháp luật. Minh chứng là sự ra đời của Tuyên ngôn
độc lập của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và Dân
quyền Pháp 1789 đã nêu rõ các quyền con người là tự nhiên và thuộc về tất cả
mọi người.
Ở Việt Nam, Bản Tuyên ngôn độc lập được Chủ tịch Hồ Chí Minh công
bố ngày 02/09/1945 đã khẳng định đanh thép: “Tất cả mọi người sinh ra đều
có quyền bình đẳng, Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm
được, đó là quyền sống, quyền tự do và quyền mư cầu hạnh phúc…”. Tuyên
ngôn đã thể hiện sâu sắc những giá trị của quyền con người và khẳng định
quyền con người, quyền công dân gắn liền với quyền độc lập dân tộc.
7
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: Quyền con người là những đặc
tính từ khi sinh ra con người đương nhiên được hưởng tùy thuộc vào sự phát
triển về chính trị, kinh tế, văn hóa xã hội nhất định và được pháp luật ghi
nhận, bảo đảm thực hiện.
* Khái niệm bảo vệ quyền con người.
Khoa học pháp lý đã chia quyền con người thành các nhóm theo các lĩnh
vực hoạt động của đời sống con người như: Nhóm quyền tự do dân chủ về
chính trị; nhóm quyền dân sự (quyền tự do cá nhân); nhóm các quyền về kinh
tế, xã hội. Ngoài ra, còn có các nhóm đặc thu về quyền phát triển; quyền được
sống trong hòa bình và môi trường trong sạch...
Cho du quyền con người là bẩm sinh, vốn có, nhưng trong xã hội các
quyền con người sẽ không được bảo đảm thực hiện nếu không có hệ thống
pháp luật. Tuy thuộc vào thể chế chính trị, sự phát triển kinh tế, xã hội, phong
tục tập quán... mà mỗi quốc gia sẽ xây dựng hệ thống pháp luật phu hợp nhằm
mục đích bảo đảm cho quyền con người được thực hiện, là công cụ, phương
tiện để bảo vệ quyền con người. Quyền con người không thể chỉ được bảo vệ,
bảo đảm bằng các quy phạm đạo đức mà phải trở thành những quy tắc xử sự
chung cho toàn xã hội, có hiệu lực bắt buộc phải thực hiện và có tính thống
nhất. Chỉ khi pháp luật ghi nhận và bảo đảm thực hiện thì quyền con người
mới được bảo vệ. Theo đó, pháp luật quy định những điều cấm và những điều
bắt buộc phải thực hiện nhằm ngăn chặn các hành vi xâm phạm quyền con
người, ở đó có quy tắc xử sự chung mà mọi chủ thể phải thực hiện cung với
các chế tài, biện pháp cưỡng chế với các hành vi xâm phạm đến quyền con
người. Khi quyền con người được ghi nhận bằng các quy định pháp luật và có
các cơ chế bảo đảm thực hiện trong thực tế, tạo thành đảm bảo pháp lý cho
thực hiện quyền con người thì đó chính là quá trình nhằm mục đích bảo vệ
quyền con người.
8
Từ những phân tích trên, có thể hiểu: bảo vệ quyền con người chính là việc
Nhà nước xâny dựng hệ thống pháp luật ghi nhận quyền con người, đtng thời quy
định những biện pháp ngăn ngừa, những chế tàixử lý các hành vi vi phạm quyền
con người và giao quyền cho bộ máy cưỡng chế của mình thực hiện.
1.1.2. Khái niệm người bị tạm giam và bảo vệ quyền của người bị tạm
giam
* Khái niệm người bị tạm giam.
Tạm giam là một trong những biện pháp ngăn chặn chỉ được áp dụng đối
với bị can, bị cáo trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, được quy định
trong BLTTHS. Đây là biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, có tính cưỡng
chế cao. Mục đích của tạm giam là ngăn chặn tội phạm và bảo đảm cho việc
điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án. Biện pháp cưỡng chế này sẽ hạn chế một
số quyền con người, bắt buộc người bị áp dụng biện pháp tạm giam nghiêm
chỉnh chấp hành các quy định về tạm giam và các biện pháp bảo đảm thực
hiện quy định đó. Người bị tạm giam chỉ có thể là bị can, bị cáo, nhưng không
phải bất cứ bị can, bị cáo nào cũng là người bị tạm giam.
Tạm giam nhằm mục đích ngăn chặn bị can, bị cáo phạm tội mới, bỏ
trốn, cản trở hoạt động điều tra..., do vậy nếu một người chưa bị khởi tố bị can
thì không được áp dụng biện pháp tạm giam. Và cũng không phải bị can, bị
cáo nào cũng bị áp dụng biện pháp tạm giam. BLTTHS quy định các trường
hợp được áp dụng biện pháp tạm giam và các trường hợp không được áp dụng
biện pháp tạm giam tại Điều 119 (BLTTHS 2015). Theo đó, biện pháp tạm
giam áp dụng đối với bị can phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm
trọng hoặc tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà bộ luật quy định hình phạt
đối với tội đó là trên hai năm tu và có căn cứ cho rằng người đó có thể trốn
hoặc cản trở điều tra, truy tố, xét xử hoặc tiếp tục phạm tội, không có nơi cư
trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch, đã bị áp dụng biện pháp
9
ngăn chặn khác nhưng vi phạm... [ Điều 119 , khoản 1, khoản 2]. Tạm giam
còn có thể được áp dụng đối với người bị bắt theo lệnh truy nã vì chỉ khi đang
là bị can, bị cáo hoặc người đang chấp hành án bỏ trốn thì họ mới bị truy nã.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định một số trường hợp không áp dụng
biện pháp tạm giam, đó là: đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc nuôi
con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú
hoặc lý lịch rõ ràng thì không tạm giam. Trừ trường hợp bỏ trốn và bị bắt theo
lệnh truy nã, tiếp tục phạm tội ...... [ Điều 119 , khoản 3]. Đối với người dưới
18 tuổi cũng hạn chế áp dụng biện pháp tạm giam và phải bảo đảm tuân thủ
quy định tại Điều 419 BLTTHS hiện hành.
Từ những sự phân tích ở trên, có thể đưa ra khái niệm người bị tạm giam
như sau: Người bị tạm giam là bị can, bị cáo thực hiện hành vi phạm tội rất
nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng quy định trong BLHS, hoặc thực
hiện tội phạm nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định có khung
hình phạt trên hai năm tù khi có căn cứ xác định họ thuộc một trong các
trường hợp quy định tại Điều 119 khoản 2 BLTTHS 2015. Tạm giam bị can,
bị cáo phải có lệnh của các cơ quan tiến hành tố tụng có thẩm quyền và phải
tuânn thủ các quy định của BLTTHS.
* Bảo vệ quyền của người bị tạm giam.
Như đã phân tích, người bị tạm giam là bị can, bị cáo trong vụ án hình
sự. Họ là đối tượng đang bị điều tra và có khả năng rất cao là chịu TNHS
thông qua hình phạt quy định trong BLHS, nhưng Nhà nước vẫn phải bảo
đảm cho họ những quyền cơ bản nhất như quyền không bị tra tấn, đánh đập,
dung nhục hình khi bị tạm giam, quyền được tôn trọng về nhân phẩm, quyền
được điều tra khách quan...
10
Cũng như quyền con người, quyền của người bị tạm giam được pháp luật
ghi nhận và bảo đảm thực hiện. Pháp luật TTHS là công cụ giúp nhà nước bảo
vệ quyền của người bị tạm giam, đồng thời chi phối hoạt động của các cơ
quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Pháp luật TTHS quy định về
nội dung các quyền mà người bị tạm giam được hưởng, trình tự, thủ tục thực
hiện các quyền và cơ chế pháp lý để bảo đảm quyền con người trong TTHS
nói chung và quyền của người bị tạm giam nói riêng. TTHS quy định cho đối
tượng này được hưởng cả các quyền dân sự, chính trị, chỉ bị hạn chế một số
quyền, vì du trong hoàn cảnh nào thì danh dự nhân phẩm của con người cũng
cần được tôn trọng, đó cũng là hành lang bảo vệ quyền của người bị tạm giam
khỏi sự tuy tiện, lạm quyền của các cơ quan và cá nhân được giao nhiệm vụ.
Như vậy, từ những phân tích ở trên, có thể hiểu: Bảo vệ quyền của người
bị tạm giam là việc pháp luật ghi nhận những quyền của bị can, bị cáo trong
quá trình giải quyết vụ án hình sự, đtng thời quy định những trình tự, thủ tục
nhằm bảo đảm cho các quyền đó không bị xânm phạm bởi sự tùy tiện hoặc sự
lạm quyền của các cơ quan và cá nhânn có thẩm quyền trong hoạt động tố
tụng hình sự.
1.2. Khái quát về vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong việc
bảo vệ quyền con người
1.2.1. Khái quát về Viện kiểm sát nhân dân
Theo Hiến pháp năm 2013, VKSND nằm trong bộ máy nhà nước Việt
Nam, là cơ quan thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
VKSND có tổ chức bộ máy, nguyên tắc hoạt động, nhiệm vụ, quyền hạn…
được quy định trong Luật tổ chức VKSND năm 2014 và một số văn bản pháp
luật chuyên ngành.
11
Hệ thống VKSND là có tính thống nhất, bao gồm VKSND tối cao,
VKSND cấp cao, VKSND địa phương (VKSND cấp tỉnh và VKSND cấp
huyện); VKS quân sự Trung ương, VKS quân sự cấp quân khu, quân chủng,
Bộ đội biên phòng; các VKS quân sự cấp khu vực. VKSND do Viện trưởng
lãnh đạo. Viện trưởng VKSND cấp dưới chịu sự lãnh đạo của Viện trưởng
VKSND cấp trên; Viện trưởng VKSND các địa phương, Viện trưởng VKSND
quân sự các cấp chịu sự lãnh đạo thống nhất của Viện trưởng VKSND tối cao.
Chức danh trong VKSND gồm có: Viện trưởng, Phó Viện trưởng
VKSND, VKS quân sự các cấp; Kiểm sát viên (có 4 ngạch là KSV VKSND
tối cao, KSV cao cấp, KSV trung cấp và KSV sơ cấp); Thủ trưởng, Phó thủ
trưởng Cơ quan điều tra; Điều tra viên (có 3 ngạch là ĐTV cao cấp, ĐTV
trung cấp, ĐTV sơ cấp); Kiểm tra viên (có 3 ngạch là Kiểm tra viên cao cấp,
Kiểm tra viên chính và Kiểm tra viên).
Nhiệm vụ của VKSND là bảo vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền
con người, quyền công dân, bảo vệ lợi ích của Nhà nước và lợi ích hợp pháp
của cá nhân, tổ chức, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, góp phần bảo đảm cho
pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, thống nhất. Ngoài ra, VKSND cung
với các cơ quan chức năng nhà nước khác thực hiện nhiệm vụ giữ vững an
ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, tạo điều kiện thuận lợi, môi trường tốt
cho sự phát triểm kinh tế, xã hội, hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, VKSND là
cơ quan duy nhất được Nhà nước giao thực hiện hai chức năng là thực hành
quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp. Theo đó, thực hành quyền công
tố là hoạt động của VKSND trong tố tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội
của Nhà nước đối với người phạm tội, được tiến hành ngay từ khi giải quyết
tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình điều
12
tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự. VKSND thực hiện chức năng thực hành
quyền công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố,
điều tra và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không
làm oan người vô tội, đồng thời không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm
giam, bị hạn chế quyền con người, quyền công dân, bị xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp luật. Mọi
hành vi phạm tội xâm phạm đến quyền con người, quyền công dân đều phải
được phát hiện, xử lý trước pháp luật, bảo đảm các hoạt động điều tra, các
biện pháp tư pháp áp dụng đối với người bị tình nghi, bị can, bị cáo được tuân
thủ đúng quy định của pháp luật.
Kiểm sát hoạt động tư pháp là hoạt động của VKSND nhằm kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
hoạt động tư pháp. Nếu như thực hành quyền công tố chỉ xuất hiện trong quá
trình giải quyết các vụ án hình sự thì kiểm sát hoạt động tư pháp không chỉ
xuất hiện trong quá trình giải quyết vụ án hình sự mà xuất hiện trong quá trình
thực hiện các khâu công tác khác như kiểm sát giải quyết và thi hành các vụ
án dân sự, hành chính, lao động, hôn nhân gia đình, kiểm sát việc tạm giữ,
tạm giam, việc giải quyết khiếu nại tố cáo trong hoạt động tư pháp và các hoạt
động khác theo quy định của pháp luật.
VKSND có quyền kháng nghị, quyền kiến nghị. Trường hợp hành vi,
bản án, quyết định của cơ quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư
pháp có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, xâm phạm quyền con người, quyền
công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá
nhân thì VKSND phải kháng nghị. Nếu phát hiện hành vi, quyết định của cơ
quan, tổ chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật ít
nghiêm trọng không thuộc trường hợp kháng nghị thì VKSND thực hiện
quyền kiến nghị.
13
Để đảm bảo cho VKSND thực hiện chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của
mình, hệ thống pháp luật Việt Nam đã quy định cụ thể chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn của VKSND trong BLTTHS, BLTTDS, Luật Tố tụng Hành chính
và trong một số văn bản quy phạm pháp luật khác.
Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn như trên, VKSND là cơ quan có vai
trò rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân trong tố
tụng hình sự.
1.2.2. Vai trò, đặc trưng và cơ chế bảo vệ quyền con người của Viện kiểm
sát nhân dân
* Vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người:
Với chức năng, nhiệm vụ được giao, vừa là cơ quan tiến hành tố tụng,
vừa là cơ quan được giao nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các
cơ quan tiến hành tố tụng; thông qua thực hiện chức năng của mình, VKSND
có trách nhiệm và vai trò quan trọng trong việc bảo vệ pháp luật, pháp chế,
bảo vệ quyền con người, quyền công dân... Nếu hoạt động thực hành quyền
công tố nhằm bảo đảm mọi hành vi phạm tội đều phải được khởi tố, điều tra
và xử lý kịp thời, không để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan
người vô tội, không để người nào bị khởi tố, bị bắt, tạm giam, bị xâm phạm
tính mạng, sức khỏe, tài sản, tự do, danh dự và nhân phẩm một cách trái pháp
luật thì hoạt động kiểm sát việc tạm giữ, tạm giam của VKSND (một trong
những nhiệm vụ khi thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp)
nhằm đảm bảo việc tạm giam đúng luật định, chế độ tạm giam, quản lý được
chấp hành nghiêm chỉnh, bảo đảm tính mạng, tài sản, danh dự, nhân phẩm của
người bị tạm giam và các quyền khác của họ không bị pháp luật tước bỏ được
tôn trọng.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: “1. Mọi người có quyền bất khả
xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân
phẩm; không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ hình thức đối
14
xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm. 2.
Không ai bị bắt nếu không có quyết định của TAND, quyết định hoặc phê
chuẩn của VKSND, trừ trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt, giam, giữ
người do luật định’’. Dựa trên các quy định này, VKSND có thể phát huy vai
trò bảo vệ quyền con người của người bị bắt, bị tạm giữ, tạm giam, bảo vệ
quyền của người bị hại, người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan. Trong hoạt
động thực hành quyền công tố, kiểm sát giải quyết các vụ án hình sự, VKSND
bảo vệ quyền của người bị bắt qua hoạt động kiểm sát việc bắt, tạm giữ, tạm
giam bị can và hoạt động truy tố, buộc tội người phạm tội, bảo vệ các quyền
và lợi ích của người bị hại, người có quyền lợi liên quan bị xâm phạm. Hoạt
động kiểm sát xét xử của VKSND còn đảm bảo cho hoạt động xét xử của tòa
án tuân thủ đúng quy định của pháp luật, bảo đảm quyền bào chữa cho bị cáo.
Như vậy, phương thức để VKSND bảo vệ quyền con người nói chung và
quyền của người bị tạm giam nói riêng chính là việc thực hiện hai chức năng
hiến định của nó là thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp.
Hai chức năng này không tách rời mà luôn cung xuất hiện trong quá trình
VKSND thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Điều đó tạo nên vị thế
đặc biệt của VKSND trong việc bảo đảm quyền cho các chủ thể tham gia tố
tụng, đặc biệt là các chủ thể bị hạn chế quyền, bao gồm người bị tạm giam - bị
can trong vụ án hình sự.
* Đặc trưng vai trò của VKSND trong việc bảo vệ quyền con người.
Về nguyên tắc, mỗi cơ quan nhà nước, bao gồm VKSND, khi thực hiện
nhiệm vụ của mình đều hướng tới việc bảo vệ quyền con người. Tuy nhiên,
với chức năng được giao là cơ quan duy nhất thực hành quyền công tố và
kiểm sát hoạt động tư pháp, hoạt động bảo vệ quyền con người của VKSND
có những đặc trưng sau:
15
- Xem thêm -