Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc t...

Tài liệu Vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở bình dương hiện nay

.PDF
148
3
118

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ AN VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN LÊ THỊ AN VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY Chuyên ngành: TRIẾT HỌC Mã số: 60.22.80 LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. NGUYỄN THANH TP. HỒ CHÍ MINH - NĂM 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu độc lập của tôi. Các trích dẫn trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng, trung thực. Nếu có gì không đúng, tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm. Tp. Hồ Chí Minh, ngày tháng Tác giả LÊ THỊ AN năm 2014 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn ................................................................. 1 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận văn ............................................. 4 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài luận văn ...................................................... 6 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn .................................... 7 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài luận văn ........................ 7 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn .......................................... 8 7. Kết cấu của đề tài luận văn ............................................................................. 8 Chương 1. VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM 1.1. Quan niệm về văn hóa và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội ..... 9 1.1.1. Quan niệm chung về văn hóa .................................................................... 9 1.1.2. Quan niệm về vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội....... 15 1.1.3. Điều kiện để văn hóa phát huy vai trò là nền tảng tinh thần, là động lực và mục tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội ........................................................ 29 1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .................................... 32 1.2.1. Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc đề ra chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc .......................................... 32 1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về đặc trưng tiên tiến và bản sắc dân tộc nền văn hóa .......................................................................................... 39 Chương 2. THỰC TRẠNG, PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA SINH VIÊN ĐỐI VỚI VIỆC GIỮ GÌN VÀ PHÁT HUY BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC TRONG CÁC TRƯỜNG CAO ĐẲNG, ĐẠI HỌC Ở BÌNH DƯƠNG HIỆN NAY 2.1. Thực trạng vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay .................................. 48 2.1.1. Những đặc điểm của vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương ........................................... 48 2.1.2. Nguyên nhân và những vấn đề đặt ra đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay ........................................................................................................... 72 2.2. Phương hướng và một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay ........................................ 85 2.2.1. Phương hướng nhằm phát huy vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay ................................................................................................ 85 2.2.2. Những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay .................................................................................... 86 PHẦN KẾT LUẬN ......................................................................................... 99 PHỤ LỤC...................................................................................................... 104 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 138 1 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận văn Tổ chức khoa học, văn hóa và giáo dục của Liên Hợp Quốc (UNESCO) tuyên bố rằng vào thập kỷ cuối cùng của thế kỷ XX là “thập kỷ thế giới phát triển văn hóa”. Điều này chứng tỏ khi loài người đã bước vào thế kỷ XXI, chắc chắn không ai có thể nghi ngờ vai trò hàng đầu và ý nghĩa lớn lao của văn hóa đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Chính vì vậy, ngay sau khi Cách mạng tháng Mười Nga thành công (1917), V.I.Lênin khẳng định: “Khi chưa có chính quyền thì chúng ta đặt và không thể không đặt trọng tâm công tác của chúng ta vào đấu tranh chính trị, vào việc giành lấy chính quyền, v.v… Ngày nay, trọng tâm ấy đã chuyển sang công tác hòa bình tổ chức văn hoá” [41, tr.428]. Vì vậy, văn hóa đang ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với sự phát triển của nhân loại. Là quốc gia có lịch sử lâu đời, văn hóa là thuộc tính bản chất của đời sống xã hội, là “nền tảng tinh thần của xã hội” thấm sâu vào tâm hồn mỗi con người. Bản sắc văn hoá Việt Nam trải qua bao lần tiếp biến vẫn không bị lệch lạc, phai mờ, thậm chí qua mỗi lần đất nước bị xâm lăng, dân tộc bị thôn tính, bản sắc đó không những không mất đi mà ngày càng được khẳng định và phát triển. Bản sắc đó thẩm thấu vào mỗi người dân Việt Nam, từ nhận thức đến cử chỉ, hành động, cách ứng xử, giao tiếp, tổ chức đời sống, cứ thế lớn dần lên tích lũy từ thế hệ này sang thế hệ khác, góp phần giúp đất nước, con người Việt Nam không bị đồng hóa bởi sự xâm nhập của nền văn hóa ngoại lai, đặc biệt là hơn 1000 năm chịu sự đô hộ của các triều đại phong kiến phương Bắc, hơn 100 năm dưới ách áp bức của văn hóa Pháp, Mỹ. Trong tiến trình cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định văn hóa “vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy 2 sự phát triển kinh tế - xã hội”, là yếu tố không thể thiếu cho sự phát triển con người - nguồn lực nội sinh của mọi sự phát triển. Hiện nay, xu thế toàn cầu hóa đã tạo ra lợi thế về mọi mặt, kinh tế phát triển nhanh chóng, đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã kéo theo các sản phẩm văn hoá của nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa có cơ hội vào nước ta. Sự tác động của xu thế hội nhập không chỉ tạo ra những thuận lợi mà còn có những thách thức, thậm chí là những hậu quả khôn lường, ảnh hưởng đến nền văn hoá dân tộc và tương lai của đất nước. Điều này đặt ra những vấn đề mới, trong quá trình hội nhập chúng ta phải biết tiếp thu và phát huy những mặt tích cực, nhận biết và ngăn chặn, đẩy lùi những mặt tiêu cực của “nền văn hoá bên ngoài”. V ì v ậ y , tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, vấn đề “xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” được Đảng Cộng sản Việt Nam xác định là nhiệm vụ cấp bách và lâu dài trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, Đảng ta chỉ rõ: “Mọi hoạt động văn hóa, văn nghệ phải nhằm xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng con người Việt Nam về tư tưởng, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh cho sự phát triển xã hội”. Là một tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, giáp với thành phố Hồ Chí Minh, trung tâm kinh tế - văn hóa của cả nước, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và phát triển kết cấu hạ tầng nhanh, Bình Dương được xem là một trong những tỉnh thu hút nhiều nhà đầu tư, lao động trên mọi miền tổ quốc về sinh sống, làm việc và học tập. Môi trường lành mạnh, đất đai rộng rãi, người dân cởi mở, năng động tạo nên những thay đổi to lớn về mọi mặt. Chính điều này góp phần thúc đẩy và làm giàu về kinh tế cũng như văn hóa cho tỉnh nhà. Tuy nhiên, trong tiến trình hội 3 nhập khu vực và quốc tế, lối sống đề cao những giá trị vật chất, sự “xâm thực” về văn hóa là điều tất yếu. Hiện nay, những biểu hiện tiêu cực của văn hóa đã, đang và sẽ ảnh hưởng xấu đến nhận thức, lối sống, sinh hoạt của người dân như: hiện tượng sống thử trước hôn nhân - đặc biệt là ở thanh niên công nhân và sinh viên, lối sống thực dụng, đua đòi, tình trạng vi phạm pháp luật, quay lưng lại với các giá trị truyền thống văn hóa dân tộc... ngày càng trở nên phổ biến. Vì vậy, việc tìm ra những giải pháp tích cực, hiệu quả để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam ở mảnh đất tiềm năng này trong quá trình hội nhập ngày càng trở nên cấp thiết. Tuy nhiên, để làm được điều này quả thật không dễ, cần phải có sự đồng lòng chung sức của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân. Là thế hệ trẻ, những người chủ tương lai của đất nước, trong những năm qua, sinh viên tỉnh Bình Dương đã có nhiều thành tích trong học tập, rèn luyện, ngày càng khẳng định mình trong xu thế hội nhập. Sinh viên là lực lượng đông đảo, có trình độ chuyên môn cao, nhạy bén, nhiệt huyết, nhưng lại dễ bị “tha hóa” bởi những cám dỗ và những yếu tố văn hóa độc hại. Chính Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước hết phải có con người mới xã hội chủ nghĩa, chúng ta cần tập trung vào việc khơi dậy cho thế hệ sinh viên những truyền thống quý báu của dân tộc, để họ xứng đáng là trụ cột của nước nhà. Hơn nữa, sống trong môi trường kinh tế năng động, với sự phong phú, đa dạng của các nền văn hóa, sinh viên trên địa bàn tỉnh Bình Dương cần phải được giáo dục, giác ngộ về vấn đề bản sắc văn hóa, không chỉ trang bị nhận thức cho họ, mà còn có vai trò tuyên truyền cho các đối tượng khác sinh sống trên địa bàn tỉnh. Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay”, nhằm đánh giá thực trạng và vạch ra một số giải pháp để góp phần thực hiện chủ 4 trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung và tỉnh Bình Dương nói riêng. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài luận văn Do tính chất, vai trò quan trọng của văn hóa trong đời sống kinh tế xã hội cũng như các biểu hiện phong phú, đặc sắc của nó, trong những năm qua, việc nghiên cứu văn hóa Việt Nam nói chung, văn hóa và mảnh đất con người ở Bình Dương nói riêng đã được nhiều nhà nghiên cứu tìm hiểu trên nhiều phương diện và thu được những thành tựu to lớn. Năm 1992, Hội thảo khoa học “Văn hóa và phát triển” do Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam và Ủy ban quốc gia UNESCO của Việt Nam tổ chức đã có nhiều ý kiến bàn về hệ giá trị của văn hóa Việt Nam. Qua đó, trả lời cho câu hỏi: bản sắc của văn hóa dân tộc Việt Nam là gì, biểu hiện của nó như thế nào ... đã thu hút nhiều học giả cùng tham gia và có nhiều bài viết giá trị. Trong tác phẩm “Tìm hiểu về bản sắc văn hóa dân tộc” của GS. Trần Ngọc Thêm, Nxb. TP. Hồ Chí Minh (1997), tác giả đã nêu ra và thuyết giải về một số nét riêng, bản sắc văn hóa của dân tộc Việt Nam. GS. Phan Ngọc, trong cuốn “Bản sắc văn hóa Việt Nam”, Nxb. Văn học (2002) đã dựa trên khái niệm chung về văn hóa và bản sắc văn hóa dân tộc để tiếp cận nền văn hóa Việt Nam, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Trên cơ sở so sánh giữa nền văn hóa Việt Nam và nền văn hóa Trung Hoa, tác giả nhấn mạnh vai trò bản sắc văn hóa Việt Nam trong giao lưu quốc tế. Liên quan đến vấn đề về văn hóa trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tác giả Nguyễn Thanh có nhiều bài viết như: “Văn hóa và vai trò của nó đối với sự phát triển con người, xây dựng nguồn nhân lực”, Tạp chí Khoa học xã hội; Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ khoa học và công nghệ cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Tạp chí Triết học; Vấn đề 5 con người và giáo dục con người - nhìn từ góc độ triết học xã hội, Nxb. Tổng hợp TP. Hồ Chí Minh… Tại thành phố Hồ Chí Minh, cũng có rất nhiều công trình tiêu biểu nghiên cứu về lịch sử - văn hóa và con người như: “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh” gồm 4 tập do GS. Trần Văn Giàu - Trần Bạch Đằng - GS. Nguyễn Công Bình đồng chủ biên, Nxb. TP . Hồ Chí Minh (1987). Hội thảo khoa học “300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh” vào tháng 12 năm 1998 do Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh cùng với Hội đồng Khoa học xã hội và Sở Văn hóa - Thông tin tổ chức nhân dịp kỷ niệm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh 300 tuổi (1698 - 1998). Tác phẩm “Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thế kỷ XX - những vấn đề lịch sử văn hóa” do PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa và TS. Lê Hồng Liêm chủ biên, Nhà xuất bản Trẻ (2000). Hội thảo “Văn hóa xã hội thành phố Hồ Chí Minh khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO)” do Ủy ban Nhân dân Thành phố và Viện nghiên cứu Xã hội tổ chức vào ngày 01 tháng 12 năm 2006. Hội thảo “Văn hóa - động lực phát triển bền vững của thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ hội nhập mới” do Viện nghiên cứu xã hội thành phố Hồ Chí Minh tổ chức năm 2007, … Ở Bình Dương, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu về văn hóa, lối sống và con người nơi đây. Trong cuốn Địa chí Bình Dương của tác giả Phan Xuân Biên, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010 đã trình bày khái quát về văn hóa vật chất, nếp sống, lễ tục, tín ngưỡng, tôn giáo của người Bình Dương; Tổng quan về văn học dân gian và nghệ thuật biểu diễn trong văn hóa truyền thống, mỹ thuật trong sản phẩm của các ngành nghề thủ công; Khái quát về các giá trị văn hóa trong hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó, có một số cuốn sách bàn về các giá trị truyền thống và vai trò của nó trong đời sống tinh thần của người Bình Dương như: Bước đầu khảo sát Lễ hội Bình 6 Dương của tác giả Bùi Hải Phong, Nxb. Trẻ, 2012; cuốn sách Bước đầu tìm hiểu về văn hóa ẩm thực Bình Dương của Hội Văn học Nghệ thuật Bình Dương, 2004; Bài viết Cần giáo dục nhân cách, đạo đức, văn hóa ứng xử cho học sinh và thanh thiếu niên trong trường học đăng trên báo Bình Dương tháng 6/2012 nói lên vai trò và tầm quan trong của việc giáo dục văn hóa cho người học; Văn hóa góp phần xây dựng chuẩn mực con người mới bàn về vai trò của chủ trương xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc trong hội nhập và kết quả thực hiện đáng khích lệ của Bình Dương sau hơn 2 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh. Ngoài ra, phải kể đến những bài viết giá trị trong Hội thảo khoa học “Vị thế văn hóa dân tộc trong giáo dục Đại học” do trường Đại học Bình Dương tổ chức năm 2009 cũng đã góp phần nêu bật những đặc trưng của Bình Dương trong quá trình hội nhập. Đồng thời, nói lên tầm quan trọng của văn hóa trong nền giáo dục Đại học và việc giữ gìn, phát huy bản sắc văn hóa trong sinh viên. Mặc dù vậy, các bài viết tại hội thảo chưa đi sâu vào phân tích thực trạng và đề xuất các giải pháp nhằm giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong sinh viên tại các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn Bình Dương một cách trực tiếp và có hệ thống. Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc các công trình, bài viết về văn hóa, đề tài“Vai trò của sinh viên đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay” tập trung vào vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa trong đối tượng sinh viên đang học tập, rèn luyện trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 3. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài luận văn Mục đích của đề tài: góp phần làm rõ hơn các quan niệm cơ bản về vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội và chủ trương xây dựng, phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc văn hóa dân tộc của Đảng Cộng sản Việt 7 Nam. Đồng thời, đề tài tập trung nghiên cứu, phân tích thực trạng để đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của sinh đối với việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học trên địa bàn tỉnh Bình Dương. Nhiệm vụ cơ bản của đề tài là: Thứ nhất, trình bày và phân tích những quan niệm cơ bản về vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thứ hai, trình bày và phân tích những tư tưởng cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về chủ trương xây dựng và phát triển nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc ở Việt Nam hiện nay. Thứ ba, phân tích thực trạng, tìm ra nguyên nhân và những vấn đề đặt ra và đề xuất phương hướng, một số giải pháp cơ bản nhằm nâng cao vai trò của sinh viên trong việc giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài luận văn Là quan điểm về văn hóa và vai trò văn hóa của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam; Thực trạng và vai trò của sinh viên đối với giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong các trường cao đẳng, đại học ở Bình Dương hiện nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài luận văn Để thực hiện đề tài luận văn này, tác giả dựa trên thế giới quan, phương pháp luận mácxít; tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa. Đồng thời, kết hợp với các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể khác như: phân tích - tổng hợp, so sánh - đối chiếu, logic và lịch sử, điều tra, thống kê xã hội học… để tiếp cận vấn đề từ góc độ triết học xã hội và triết học văn hóa. 8 6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài luận văn Ý nghĩa khoa học: Đề tài góp phần làm rõ hơn một số vấn đề lý luận về văn hóa và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam; những giá trị bản sắc văn hóa dân tộc gắn với lịch sử, con người ở Bình Dương. Ý nghĩa thực tiễn: Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho sinh viên trong học tập và nghiên cứu về vấn đề dân tộc, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam. Luận văn còn có giá trị tham khảo cho các cơ quan, ban ngành trong việc hoạch định chủ trương và biện pháp đối với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam trong sinh viên các trường Đại học, Cao đẳng trên địa bàn tỉnh Bình Dương. 7. Kết cấu của đề tài luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, đề tài được kết cấu gồm 2 chương, 4 tiết và 25 bảng thống kê. 9 Chương 1 VĂN HÓA VÀ BẢN SẮC VĂN HÓA DÂN TỘC VIỆT NAM 1.1. Quan niệm về văn hóa và vai trò của văn hóa trong đời sống xã hội 1.1.1. Quan niệm chung về văn hóa Đời sống vật chất và tinh thần của con người rất đa dạng và phong phú, trong đó văn hóa được xem là một trong những yếu tố có vai trò quan trọng đối với nhận thức và hoạt động của con người. Mặc dù được sử dụng phổ biến nhưng văn hóa là khái niệm có nội hàm sâu - rộng, là một lĩnh vực không chỉ phản ánh đời sống tinh thần mà còn phản ánh cả đời sống vật chất, vì vậy, để đưa ra một định nghĩa thống nhất về văn hóa không hề đơn giản chút nào. Kể từ khi Edward Bernett Tylor (1832-1917) đưa ra quan điểm về văn hóa: “Văn hóa hay văn minh, theo nghĩa rộng về tộc người học, nói chung gồm có tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo đức, luật pháp, tập quán và một số năng lực và thói quen khác được con người chiếm lĩnh với tư cách là thành viên của xã hội” [26, tr.13], trong cuốn Văn hóa nguyên thuỷ (Primitive culture) xuất bản ở London năm 1871, đến nay đã có rất nhiều định nghĩa và quan niệm khác nhau. Năm 1952, hai nhà nhân học người Mỹ là A. Kroeber và C. Kluckhohn trong cuốn sách: “Văn hóa - tổng luận phê phán các quan niệm và định nghĩa” đã dẫn ra và phân tích 164 định nghĩa về văn hóa. Khi cuốn sách được tái bản lần thứ hai, số định nghĩa văn hóa đã tăng lên đến trên 200. Trong cuốn “Phác thảo chân dung văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Ngọc Thêm khẳng định: “Còn hiện nay thì số lượng định nghĩa về văn hóa khó mà biết chính xác được: có người bảo là 400, có người nói là 500, lại có người quả quyết rằng chúng lên đến con số nghìn... Sẽ không phải là xa sự thật, nếu nói rằng có bao nhiêu nhà nghiên cứu văn hóa thì có bấy nhiêu định nghĩa về văn hóa”. 10 Văn hóa được nhìn nhận với tư cách là một chuyên ngành khoa học lớn và được khai thác dưới nhiều góc độ khác nhau, mỗi định nghĩa phản ánh một cách nhìn nhận, tiếp cận và đánh giá khác nhau. Có khi văn hóa được hiểu là những giá trị tinh hoa như nếp sống văn hóa, văn hóa nghệ thuật, hoặc dùng để chỉ những giá trị trong từng lĩnh vực: văn hóa giao tiếp, văn hóa kinh doanh, văn hóa tổ chức cộng đồng, văn hóa ứng xử, văn hóa nhận thức,... Đôi lúc, văn hóa được giới hạn theo không gian hoặc thời gian như: văn hóa vùng, miền, văn hóa quốc gia hay văn hóa từng giai đoạn, văn hóa dân tộc; nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng văn hóa bao gồm tất cả những gì do con người sáng tạo ra trong lịch sử. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã xác định: Văn hóa là phát triển, phát triển là văn hóa, coi nền tảng của lịch sử là lao động của con người, quá trình con người sáng tạo ra lịch sử cũng là quá trình con người sáng tạo văn hoá. Vì vậy, lao động cũng được xem là nguồn gốc của văn hoá. Theo quan điểm mácxít, lao động là hoạt động xác lập và thể hiện sâu sắc mối quan hệ giữa con người - tự nhiên, con người - xã hội và con người - văn hoá, là cơ sở để phân biệt con người với con vật. Lao động là một đặc thù của chính con người, trong lao động tuỳ theo phương thức thực hiện mà con người sáng tạo ra văn hoá ở những trình độ khác nhau. Văn hóa là lao động sáng tạo trong đời sống kinh tế xã hội. Văn hóa có gốc rễ từ cơ sở hạ tầng, trong hoạt động vật chất của con người chứ không phải chỉ là trong hoạt động tinh thần. Văn hóa là sự nghiệp giải phóng con người, xây dựng một xã hội nhân văn, giải quyết tốt nhất những mâu thuẫn giữa kinh tế, văn hóa và sinh thái. Bàn đến văn hoá và sự phát triển của văn hoá, chủ nghĩa Mác còn thừa nhận, với tư cách là một hệ giá trị, giá trị vật chất và giá trị tinh thần, văn hoá bị chi phối bởi những điều kiện lịch sử, bởi năng lực thực hiện “lực lượng bản chất người”, bởi nền kinh tế, chính trị xã hội của một chế độ nhất định, bởi hệ 11 tư tưởng của giai cấp thống trị... Vì vậy, mỗi bước tiến của lịch sử là một bước tiến tương ứng của văn hoá. Và mặc dù hệ giá trị văn hoá rất đa dạng, luôn luôn biến đổi cùng lịch sử nhưng hệ giá trị đó bao giờ cũng dịch chuyển về phía chủ nghĩa nhân đạo, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ. Như vậy, theo quan niệm của Mác và Ănghen thì nói tới văn hóa là nói tới con người, nói tới việc phát huy những năng lực thuộc bản chất của con người nhằm cải thiện con người. Văn hóa có mặt trong mọi hoạt động của con người, trên mọi lĩnh vực của đời sống vật chất và tinh thần. Văn hóa trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội là một thành tố nền tảng, là động lực và cũng là mục tiêu của sự phát triển xã hội bền vững. V.I. Lênin trên cơ sở kế thừa có chọn lọc, bảo vệ và phát triển các nguyên lý của triết học Mác, ông đã phân tích sâu sắc thêm về mặt xã hội của văn hoá với cách tiếp cận từ phạm trù hình thái kinh tế - xã hội. Chính Lênin đã đề ra nguyên tắc quan trọng trong quá trình xây dựng nền văn hóa mới. Đó là những nguyên tắc về tính đảng, tính nhân dân, tính dân tộc và tính nhân loại trong văn hoá; xác định sự nghiệp văn hoá là một bộ phận trong guồng máy cách mạng vô sản dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản. Theo Lênin, nền văn hoá vô sản có khả năng phát triển toàn diện năng lực bản chất của con người cho nên nó phải là sự kế thừa có phê phán các giá trị văn hoá của dân tộc và nhân loại để phát triển lên một tầm cao mới, mang đậm chất liệu văn hoá và bản chất người. Lênin viết: “Nền văn hóa vô sản không phải từ trên trời rơi xuống, nó không phải là do những người tự cho mình là chuyên gia về văn hoá vô sản bịa đặt ra, …Văn hóa vô sản phải là sự phát triển hợp quy luật của vốn kiến thức mà loài người đã tạo ra dưới ách áp bức của xã hội tư bản, địa chủ và của xã hội quan liêu” [39, tr.402]. Kế thừa quan điểm về văn hóa của chủ nghĩa Mác - Lênin, Chủ tịch Hồ Chí Minh người “anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa kiệt xuất của dân 12 tộc Việt Nam” - có quan niệm về văn hoá rất rộng. Xuất phát từ chủ nghĩa yêu nước, từ truyền thống văn hiến ngàn đời của dân tộc Việt Nam, tiếp thu chọn lọc tinh hoa văn hóa nhân loại, với tầm nhìn bao quát, Người đưa ra khái niệm về văn hoá như sau: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết, đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học nghệ thuật, những công cụ cho sinh hoạt hàng ngày về ăn, ở, mặc và các phương thức sử dụng, toàn bộ những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa. Văn hóa là sự tổng hợp của mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng những nhu cầu đời sống và đòi hỏi của sự sinh tồn” [30, tr.431]. Quan điểm đó của Người đã khái quát được nội dung rộng nhất của phạm trù văn hoá, chỉ ra văn hoá không chỉ bao hàm các hoạt động tinh thần của con người mà còn bao hàm trong đó cả những hoạt động vật chất phong phú và đa dạng. Người cũng chỉ ra nguồn gốc sâu xa của văn hoá đó chính là nhu cầu sinh tồn của con người, với tư cách là chủ thể hoạt động của đời sống xã hội. Nó biểu hiện sự thống nhất của yếu tố tự nhiên, yếu tố xã hội trong con người, biểu hiện khả năng và sức sáng tạo của con người trong quá trình lao động. Ông Federico Mayor, Tổng giám đốc UNESCO, cho biết: "Đối với một số người, văn hóa chỉ bao gồm những kiệt tác tuyệt vời trong các lĩnh vực tư duy và sáng tạo; đối với những người khác, văn hóa bao gồm tất cả những gì làm cho dân tộc này khác với dân tộc khác, từ những sản phẩm tinh vi hiện đại nhất cho đến tín ngưỡng, phong tục tập quán, lối sống và lao động. Cách hiểu thứ hai này đã được cộng đồng quốc tế chấp nhận tại Hội nghị liên chính phủ về các chính sách văn hóa họp năm 1970 tại Venise”. Trong diễn văn khai mạc lễ phát động “Thập niên quốc tế phát triển văn hóa” tại Pháp, Tổng thư ký UNESCO nhấn mạnh: “Văn hóa phản ánh và thể 13 hiện một cách tổng quát sống động mọi mặt của cuộc sống (của mỗi cá nhân và cộng đồng) đã diễn ra trong quá khứ, cũng như đang diễn ra trong hiện tại, qua hàng bao thế kỷ, nó đã cấu thành nên một hệ thống các giá trị, truyền thống, thẩm mỹ và lối sống mà dựa trên đó từng dân tộc tự khẳng định bản sắc riêng của mình”. Như vậy, UNESCO thừa nhận văn hóa là cội nguồn trực tiếp của phát triển xã hội, có vị trí trung tâm và đóng vai trò điều tiết xã hội. Văn hóa không những là yếu tố nội sinh của sự phát triển, mà còn là mục tiêu động lực cho sự phát triển xã hội, giúp cho con người tự hoàn thiện, quyết định tính cách riêng của một xã hội, làm cho dân tộc này khác dân tộc khác. Nghiên cứu về văn hóa, các nhà văn hóa học Việt Nam cũng đưa nhiều định nghĩa khác nhau. Tác giả Đỗ Văn Hòa cho rằng: “Văn hóa là khái niệm dùng để chỉ tổng thể những năng lực bản chất người trong tất cả các dạng hoạt động của họ, là tổng thể các hệ thống giá trị - cả giá trị vật chất và giá trị tinh thần do con người sáng tạo ra trong hoạt động thực tiễn và lịch sử xã hội của mình”. Theo GS.TS. Trần Ngọc Thêm: “Văn hóa là một hệ thống hữu cơ các giá trị (vật chất và tinh thần, tĩnh và động, vật thể và phi vật thể...) do con người sáng tạo ra và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình”. Theo cách hiểu này, văn hóa là những gì mà con người sáng tạo để hình thành nên các giá trị, các chuẩn mực xã hội trong quá trình lao động, hoạt động thực tiễn. Các giá trị chuẩn mực đó tác động, chi phối, điều chỉnh đời sống tâm lý, hành vi, đạo đức và các hoạt động trên mọi lĩnh vực có sự hiện diện của con người. Chúng tôi đồng ý với quan điểm này của tác giả Nguyễn Ngọc Thêm. Văn hóa là tất cả những giá trị do chính con người tạo ra bằng hoạt động thực tiễn và chính văn hóa tạo nên giá trị trong cuộc sống của con người. Như vậy, dù có nhiều định nghĩa khác nhau, cách tiếp cận, diễn giải khác nhau nhưng nói đến văn hóa là nói đến con người. Lịch sử văn hóa là lịch sử 14 của con người và loài người, con người tạo ra văn hóa và văn hóa làm cho con người trở thành Người. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến con người, đến mọi cách thức tồn tại của con người đều mang trong nó cái gọi là văn hóa. Văn hóa được chia làm hai lĩnh vực cơ bản: văn hóa vật chất và văn hóa tinh thần, văn hóa được tích lũy trong nhận thức và thực tiễn của xã hội loài người. Trên cơ sở xác định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động”, phát huy giá trị văn hóa dân tộc, kế thừa và phát triển phù hợp tinh hoa văn hóa nhân loại, Đảng Cộng sản Việt Nam kế thừa và phát triển sâu rộng các quan điểm về văn hóa của chủ nghĩa Mác - Lênin trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong quan niệm của Đảng ta, văn hoá là một lĩnh vực thực tiễn của đời sống xã hội, nó cũng có quy luật vận động phát triển riêng. Văn hóa mang bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc và tính nhân dân sâu sắc. Trong bản đề cương văn hoá (1943) Đảng ta khẳng định nền văn hóa mới, phải đảm bảo tính dân tộc, khoa học, đại chúng, chú trọng công tác bảo tồn và phát huy những giá trị truyền thống của văn hoá dân tộc. Đại hội IX, Nghị quyết Đại hội một lần nữa khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển xã hội” [19, tr.114]. Đảng ta xác định văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, xem văn hóa là một mặt trận, xây dựng và phát triển văn hóa là một sự nghiệp cách mạng lâu dài, đòi hỏi phải có ý chí cách mạng và sự kiên trì, thận trọng. Có thể nói, trong giai đoạn hiện nay, văn hóa là một trong những lĩnh vực rất được quan tâm. Trong xu hướng phát triển mạnh mẽ của xã hội loài người, rất nhiều vấn đền về cả phương diện lý luận và thực tiễn được đặt ra. Vì vậy, trong đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước ta, cần 15 phải có cách nhìn nhận, đánh giá đúng về giá trị văn hóa cũng như các biểu hiện của nó trong đời sống hiện thực để có những biện pháp kịp thời nhằm xây dựng nền văn hóa đặc trưng như trong Nghị quyết trung ương Đảng lần thứ IX đã xác định. Làm sao để mỗi người dân Việt Nam nhận thức được văn hóa là linh hồn của chủ nghĩa xã hội. Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, thực chất là xây dựng văn hóa theo đúng nghĩa của nó. Chủ nghĩa xã hội đi bằng hai chân văn hóa và kinh tế, phát triển hài hòa trong tính chỉnh thể của mình. Đó cũng là một cách đổi mới tư duy về chủ nghĩa xã hội và phát triển. Vì vậy, văn hóa là dân sinh, dân chủ, dân trí, dân tâm, dân khí, văn hóa là con người, là nội lực của sự phát triển. Tạo lập văn hóa đối với chúng ta là tổng hòa giữa khoa học, đạo đức và thẩm mỹ, giữa độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc trong mỗi bước đi, trong mỗi con người và cộng đồng người. Văn hóa là phát triển tổng hợp giữa quá khứ và hiện tại, giữa dân tộc và quốc tế, giữa con người và xã hội, giữa nhân sinh và vũ trụ. Văn hóa là nguồn lực nội sinh, phát huy nội lực văn hóa, tính năng động của văn hóa, cũng là phát huy cao nhất nguồn lực con người và nhân tố chủ quan. Do đó, đầu tư cho văn hóa là đầu tư cho phát triển và đầu tư cho định hướng xã hội chủ nghĩa. Cùng với xây dựng nền kinh tế mới, nền chính trị mới là nền văn hóa mới xã hội chủ nghĩa. Xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, tức là đạt tới văn hóa thời đại của giai cấp công nhân, đỉnh cao của tinh hoa nhân loại, đồng thời đạt được sự nhuần nhuyễn trong bản sắc dân tộc, giữa truyền thống và hiện đại trong quan hệ biện chứng với nhau, giữa cái chung và cái riêng, giữa đỉnh cao văn hóa và cái gốc của nó trong chỉnh thể. 1.1.2. Quan niệm về vai trò của văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội Trong xu hướng hội nhập hiện nay, loài người đang có những thay đổi nhanh chóng: “Kinh tế tăng trưởng, khoa học công nghệ đang có những bước
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan