Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh hưng yên hiện ...

Tài liệu Vai trò của nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh hưng yên hiện nay

.PDF
155
143
91

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐẠI VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN ĐẠI VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC CHUYÊN NGÀNH: CNDVBC & CNDVLS MÃ SỐ: 92.29.002 Người hướng dẫn khoa học: 1. TS. Nguyễn Đình Hòa 2. PGS,TS. Trương Quốc Chính HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi dưới sự hướng dẫn của TS. Nguyễn Đình Hòa và PGS,TS. Trương Quốc Chính; những kết quả và nội dung của luận án là trung thực; các tài liệu tham khảo có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng. Hà Nội, ngày tháng 3 năm 2019 Tác giả Nguyễn Văn Đại MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU ............................................................................................................... 1 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ............................................................................................... 6 1.1. Một số công trình tiêu biểu liên quan đến đề tài luận án ............................ 6 1.2. Giá trị tham khảo của các công trình đã công bố và nội dung nghiên cứu mới của luận án ................................................................ 24 Chương 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở VIỆT NAM...................... 28 2.1. Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở - khái niệm, một số nội dung cơ bản ............................................................. 28 2.2. Những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay ..................... 52 Chương 3: VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ................................................................... 71 3.1. Thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay ......................................................... 71 3.2. Một số vấn đề đặt ra hiện nay ............................................................ 106 Chương 4: MỘT SỐ QUAN ĐIỂM, GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA NHÂN DÂN TRONG THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ Ở TỈNH HƯNG YÊN HIỆN NAY ..................................................... 115 4.1. Một số quan điểm định hướng nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 115 4.2. Một số nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay . 119 KẾT LUẬN ........................................................................................................... 148 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ ....... 150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 151 DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN BCH: Ban Chấp hành BTV: Ban Thường vụ CNH: Công nghiệp hóa DCCS: Dân chủ cơ sở HĐH: Hiện đại hóa HĐND: Hội đồng nhân dân HTCT: Hệ thống chính trị KCN: Khu công nghiệp MTTQ: Mặt trận Tổ quốc QCDC: Quy chế dân chủ UBMT: Ủy ban Mặt trận UBND: Ủy ban nhân dân XHCN: Xã hội chủ nghĩa 1 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài luận án Trong suốt quá trình lãnh đạo, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi quần chúng nhân dân là chủ thể, lực lượng chân chính sáng tạo ra lịch sử. Để phát huy vai trò to lớn đó, Đảng, Nhà nước đã ban hành nhiều chỉ thị, nghị quyết lãnh đạo thực hiện phát huy dân chủ. Ngày 18 tháng 2 năm 1998, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã ban hành Chỉ thị 30/CT-TW về Quy chế dân chủ ở cơ sở; năm 2007, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh 34/PL/2007 về Thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Xét ở phạm vi quốc gia, qua 20 năm thực hiện, dân chủ ở cơ sở đã có những chuyển biến tích cực: “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện, nhất là trong lĩnh vực chính trị và kinh tế. Nhiều cấp ủy đảng, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân” [25, tr. 167]. Nhờ vậy, kinh tế đất nước phát triển cao, chính trị - xã hội ổn định, niềm tin của quần chúng nhân dân với Đảng, Nhà nước ngày càng được tăng cường. Bên cạnh đó, việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở còn một số hạn chế như: “nhận thức về dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế… có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội” [25, tr. 168]. Tỉnh Hưng Yên nằm ở vị trí trung tâm của Đồng bằng sông Hồng, có diện tích tự nhiên 930km2, dân số hơn 1 triệu người. Trong những năm gần đây, tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh có những chuyển biến khá tích cực. Đó là việc hình thành các khu công nghiệp, dịch vụ, thương mại, như khu công nghiệp Phố Nối - Mỹ Hào, Như Quỳnh - Văn Lâm, Yên Mỹ, Văn Giang, thành phố Hưng Yên, Kim Động…, đời sống vật chất, tinh thần của phần đông người dân Hưng Yên đã được cải thiện. 2 Trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ban hành Đề án 01-ĐA/TU ngày 05/5/2011 về Nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở xã, phường, thị trấn giai đoạn 2011-2020; qua gần 7 năm thực hiện, nhận thức của cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về dân chủ cơ sở được nâng lên. Chính quyền các cấp tích cực thực hiện cải cách hành chính, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia các phong trào thi đua yêu nước, xây dựng khu phố, làng, gia đình văn hóa… Thông qua thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng, chính quyền được tăng cường. Bên cạnh những thành tựu đạt được, việc phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên cũng còn những hạn chế, bất cập như: Thứ nhất, một bộ phận nhân dân chưa chủ động, tích cực thực hiện các quyền được biết, được bàn, kiểm tra, giám sát; nhiều người tỏ ra thờ ơ, thụ động trong tìm hiểu, thực hiện các quyền dân chủ của mình. Thứ hai, hiểu biết pháp luật về các quyền, nghĩa vụ của một bộ phận nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở còn hạn chế; Thứ ba, chất lượng tham gia góp ý, thảo luận của nhân dân với các chương trình, kế hoạch, đề án phát triển kinh tế - xã hội… chưa cao; có tình trạng góp ý qua loa, chiếu lệ, chỉ quan tâm đến những phần việc liên quan trực tiếp đến lợi ích của mình. Thứ tư, trong thực tế thực hiện, cá biệt còn có tình trạng một số cá nhân lợi dụng các quyền tự do, dân chủ để vi phạm pháp luật. Biểu hiện cụ thể của những hạn chế trên là tình trạng khiếu kiện đông người, kéo dài, vượt cấp ở Hưng Yên có biểu hiện ngày càng phức tạp; tình trạng chống người thi hành công vụ, không thực hiện các quyết định hành chính 3 của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; đặc biệt đã xuất hiện điểm nóng chính trị xã hội cục bộ tại các xã Xuân Quang, Phụng Công, Cửu Cao huyện Văn Giang năm 2012 liên quan đến thu hồi đất đai là ví dụ tiêu biểu. Những yếu tố trên đang tác động bất lợi đến phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, ảnh hưởng đến giữ vững ổn định chính trị, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh. Trong bối cảnh đó, phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trở thành vấn đề có tính chất quyết định. Có thể nói rằng, chưa bao giờ sự nghiệp đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội của Hưng Yên đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh của toàn thể nhân dân lại cấp thiết như hiện nay. Đồng thời, chưa bao giờ sức mạnh của nhân dân đòi hỏi nhất thiết phải được xác lập trên cơ sở phát huy sự giác ngộ và khả năng cống hiến của từng thành viên trong cộng đồng như hiện nay. Điều này có nghĩa, dưới sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng, việc phát huy cho được vai trò của quần chúng nhân dân trong thực hiện quy chế dân chủ phải được xem là yếu tố chiến lược, quyết định sự thành công của mục tiêu đưa Hưng Yên trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 như Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII nhiệm kỳ 2015 - 2020 đã xác định. Từ những lý do trên, tác giả lựa chọn chủ đề “Vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay” làm đề tài luận án tiến sĩ Triết học của mình. 2. Mục đích, nhiệm vụ của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở làm rõ một số vấn đề lý luận, thực tiễn vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở; luận án đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay. 4 2.2. Nhiệm vụ của luận án: Để đạt được mục đích trên, luận án thực hiện một số nhiệm vụ chủ yếu sau: Một là, tổng quan một số công trình tiêu biểu đã công bố liên quan đến đề tài luận án; Hai là, phân tích một số vấn đề lý luận về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam hiện nay; Ba là, phân tích thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên từ năm 1998 đến nay và những vấn đề đặt ra; Bốn là, đề xuất một số quan điểm, nhóm giải pháp nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân tỉnh Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở trong thời gian tới. 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu vai trò của nhân dân tỉnh Hưng Yên trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở từ năm 1998 đến nay. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Hiện nay, có nhiều loại hình cơ sở khác nhau, như doanh nghiệp nhà nước; cơ quan, đơn vị, trường học; xã, phường, thị trấn… Luận án chỉ nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn (theo Pháp lệnh 34/PL/2007-UBTVQH) Về không gian: Tỉnh Hưng Yên (01 thành phố, 09 huyện, 161 xã, phường, thị trấn) Về thời gian: Từ năm 1998 (khi ban hành Chỉ thị 30/CT-BCT) đến nay. 4. Cơ sở lý luận, phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của luận án là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước Việt 5 Nam; Tỉnh ủy Hưng Yên về thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở. Đồng thời, luận án có kế thừa kết quả của các công trình nghiên cứu đi trước đã được công bố có liên quan đến đề tài. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, luận án cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể như: phân tích và tổng hợp, lịch sử và lôgíc, điều tra khảo sát, thống kê - so sánh, sàng lọc số liệu, tổng kết thực tiễn… 5. Những đóng góp mới của luận án Thứ nhất, nghiên cứu vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay trên phương diện triết học; Thứ hai, đề xuất một số quan điểm và nhóm giải pháp chủ yếu nhằm tiếp tục phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở tỉnh Hưng Yên hiện nay 6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án - Luận án góp phần làm sáng tỏ thêm lý luận về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở; - Luận án cung cấp cơ sở lý luận, khoa học cho việc hoạch định chính sách, pháp luật về phát huy vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở hiện nay; - Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ việc nghiên cứu, giảng dạy các chuyên đề liên quan đến vấn đề dân chủ và thực hiện dân chủ tại Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, Trường Cao đẳng sư phạm Hưng Yên, Trung tâm bồi dưỡng chính trị các huyện, thành phố trong tỉnh. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh mục các công trình của tác giả đã công bố, luận án gồm 4 chương, 8 tiết. 6 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1. MỘT SỐ CÔNG TRÌNH TIÊU BIỂU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 1.1.1. Những công trình nghiên cứu lý luận chung về vai trò của nhân dân, Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam trong thời kỳ đổi mới Dân chủ nói chung, Quy chế dân chủ cơ sở nói riêng là những phạm trù được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Việc nghiên cứu chủ đề này không chỉ có ý nghĩa góp phần làm sáng tỏ sự cần thiết khách quan, bản chất, cách thức thực hành dân chủ, mà còn xây dựng lý luận để soi đường, chỉ đạo thực tiễn, cung cấp luận cứ khoa học cho việc ban hành chủ trương, chính sách thực hiện dân chủ của Đảng và Nhà nước ta hiện nay. Một số công trình tiêu biểu nghiên cứu về quần chúng nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân như: Lê Duẩn, “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” [14]; Phạm Văn Đồng “Học tập quan điểm nhân dân, quan điểm quần chúng của Hồ Chủ tịch” [26]; Việt Tiến, “Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Hiến pháp 2013” [89]; Vũ Lân, “Để quần chúng nhân dân tham gia tốt hơn vào công tác xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền” [39]... Trong các công trình này, các tác giả đã làm sáng tỏ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nói chung, ở Việt Nam hiện nay nói riêng. Cố Tổng Bí thư Lê Duẩn trong công trình “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” khẳng định, quần chúng nhân dân là phạm trù mang tính lịch sử, trong các thời kỳ khác nhau thì lực lượng quần chúng cũng khác nhau. Theo tác giả, tính đặc thù của quần chúng nhân dân ở Việt Nam chủ yếu là 7 nông dân. Tổng khởi nghĩa giành chính quyền tháng Tám năm 1945 là cuộc nổi dậy của toàn dân, nhưng lực lượng chủ yếu là nông dân. Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cuốn “Học tập quan điểm nhân dân, quan điểm quần chúng của Hồ Chủ tịch” cho rằng, quan điểm nhân dân của Hồ Chủ tịch là đồng nhất với quan điểm quần chúng của chủ nghĩa Mác Lênin. Với sự vận dụng sáng tạo quan điểm đó vào thực tiễn cách mạng, Hồ Chí Minh kêu gọi toàn thể nhân dân Việt Nam đoàn kết chiến đấu để giữ vững thành quả cách mạng. Tác giả làm rõ vai trò của nhân dân theo quan điểm của Người là tin tưởng tuyệt đối vào sức mạnh, năng lực sáng tạo, cách mạng của quần chúng nhân dân. Để phát huy sức mạnh của nhân dân, Đảng, Nhà nước phải biết huy động, tổ chức, lãnh đạo nhằm thực hiện những nhiệm vụ cách mạng thích hợp với từng giai đoạn, từng địa phương, từng ngành công tác. Tác giả Việt Tiến trong bài “Nhân dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh và trong Hiến pháp 2013” cho rằng, Hồ Chí Minh là người có tư tưởng đầy đủ, đúng đắn về vai trò, sức mạnh của quần chúng nhân dân; coi nhân dân là lực lượng có sức mạnh vô tận và nguyên nhân thắng lợi của cách mạng. Tư tưởng của Hồ Chí Minh mãi mãi là ngọn đuốc soi đường cho Đảng và Nhà nước ta trong quá trình lãnh đạo nhân dân qua các thời kỳ cách mạng. Đảng và Nhà nước ta luôn quán triệt sâu sắc tư tưởng của Người về sức mạnh của nhân dân, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân trong sự nghiệp cách mạng. Khi phân tích vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng Đảng, chính quyền, tác giả Vũ Lân cho rằng: “Cho đến nay, trong điều kiện, hoàn cảnh, nhất là trình độ dân trí ngày càng được nâng cao, trong điều kiện Đảng cầm quyền, với những vấn đề cấp bách đặt ra trong xây dựng Nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, thì cần có cơ chế, quy chế, quy định cụ thể thống nhất, đồng bộ, bài bản, cụ thể hơn trong công tác này” [39, tr. 60]. Tác giả cũng nhấn mạnh: “Nhưng dù có quy định thế nào chăng 8 nữa, đối tượng giám sát nhất thiết phải có quần chúng nhân dân chứ không phải chỉ có những người đại diện cho quần chúng” [39, tr .63]. Tác giả đề cao vai trò của dân chủ trực tiếp trong tổ chức, hoạt động của Đảng và Nhà nước trong điều kiện mới. Một số công trình nghiên cứu về dân chủ cơ sở và quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở như: “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” của Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông [78]; “Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Dương Xuân Ngọc [69]; “Thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Cúc; “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” của Phạm Ngọc Quang [76]; "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước - một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của Đào Trí Úc [96]; "Thực hiện dân chủ ở cơ sở và vấn đề tăng cường ý thức trách nhiệm của Nhà nước" của Lê Thi [86]; Một số suy nghĩ về xây dựng nền dân chủ ở Việt Nam hiện nay" của Đỗ Trung Hiếu [33]; “Dân chủ trực tiếp ở Việt Nam lý luận và thực tiễn” của Nguyễn Văn Mạnh, Tào Thị Quyên [57]; “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở xã, phường, thị trấn trên địa bàn các tỉnh Tây nguyên thời kỳ đổi mới” của Đỗ Văn Dương [15]... Trong các công trình trên, hầu hết các tác giả thống nhất quan điểm cho rằng: dân chủ ở cơ sở là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ, quyền tự quyết của mình được tiến hành từ cấp xã xuống đến thôn/ tổ dân phố theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” đối với các nội dung có liên quan đến đời sống kinh tế, chính trị, văn hóa - xã hội của người dân ở cơ sở bằng những hình thức nhất định, phù hợp với các nguyên tắc và quy định của pháp luật [15, tr. 19]. Tác giả Lê Thi cho rằng, dân chủ ở cơ sở không phải là hình thức, mà là một cấp độ của chế độ dân chủ. Nội dung của dân chủ cơ sở được thể hiện dưới các hình thức dân chủ trực tiếp và dân chủ gián tiếp. Củng cố và mở rộng dân chủ 9 ở cơ sở là một quá trình nâng cao sức mạnh và hiệu quả hoạt động của nhà nước, trước hết ở cấp xã, phường, thị trấn. Đây cũng là quá trình hoàn thiện hệ thống pháp luật, nâng cao hiệu quả tích cực của các cơ quan nhà nước [86, tr. 20]. Về chủ thể thực hiện dân chủ ở cơ sở, các công trình nghiên cứu đã chỉ ra ba laoij chủ thể chủ yếu sau: chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo là đảng bộ các cấp từ tỉnh đến xã, nòng cốt là Ban chấp hành đảng bộ, cấp ủy các cấp; chủ thể tổ chức thực hiện là HĐND, UBND, UBMT Tổ quốc các cấp, các cá nhân Chủ tịch UBND xã, trưởng thôn, Tổ trưởng tổ dân phố, công chức cấp xã được giao nhiệm vụ; chủ thể trực tiếp thực hiện là các tầng lớp nhân dân trên địa bàn xã, phường, thị trấn [15, tr. 124-125]. Về nội dung thực hiện dân chủ ở cơ sở, nhiều công trình đã phân tích và chỉ ra một số nội dung chủ yếu sau: Nhân dân thực hiện quyền được biết các nội dung liên quan đến đời sống kinh tế - xã hội ở xã, phường, thị trấn; nhân dân được bàn và quyết định một số công việc ở cơ sở; nhân dân tham gia ý kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền ra quyết định; nhân dân thực hiện quyền giám sát. Về mối quan hệ giữa thực hành dân chủ với phát triển nông thôn, trong cuốn sách “Thể chế dân chủ và phát triển nông thôn Việt Nam hiện nay” [78], tác giả Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông cho rằng, phát huy dân chủ là một trong những động lực chủ yếu để phát triển nông thôn cả trong lịch sử và hiện tại của dân tộc. Cũng trong công trình này, các tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của hệ thống chính trị trong ổn định chính trị, thực hiện quyền làm chủ của nhân dân; vai trò lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền nhà nước ở nông thôn. Về mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Nhân dân làm chủ, trong bài viết “Một số vấn đề rút ra từ đổi mới nhận thức về vai trò của “Dân” trong cơ chế “Đảng lãnh đạo, nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ” [76], tác giả Phạm Ngọc Quang cho rằng: Xuất phát từ nhận thức mới về 10 vai trò của dân đối với Đảng, đã đến lúc phải khẳng định rằng, tự nó, Đảng không có quyền, mọi quyền lực mà Đảng có được là do nhân dân uỷ quyền cho. Đảng và Nhà nước là thiết chế bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân. Nhân dân làm chủ bằng Nhà nước, thông qua Nhà nước là cơ chế có hiệu quả nhất. Xét về thực chất, Nhà nước ta là Nhà nước của Nhân dân, do Nhân dân, vì Nhân dân. Tự nó, mọi cơ quan nhà nước không có quyền. Mọi quyền lực nhà nước có được đều do nhân dân uỷ quyền cho nó. Mặc dù không trực tiếp bàn tới bản chất mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý với Nhân dân làm chủ, song từ phân tích trên đã gợi ý cho luận án hướng nghiên cứu về bản chất của mối quan hệ này, đặc biệt là xác định vị trí của nhân dân trong mối quan hệ. Bàn về vai trò của nhân dân trong giám sát hoạt động của bộ máy Đảng, chính quyền cấp cơ sở, tác giả Đào Trí Úc trong công trình "Cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước một số vấn đề lý luận và thực tiễn" cho rằng, cơ chế giám sát của nhân dân đối với hoạt động của bộ máy Đảng và Nhà nước thông qua hai hình thức: Một là, thông qua các tổ chức đại diện như Quốc hội, HĐND, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân…; hai là, nhân dân trực tiếp giám sát. Tuy nhiên, tác giả cũng nhận định trên thực tế, quyền dân chủ, quyền giám sát của nhân dân hiện nay còn mang tính hình thức, do đó, kết quả không đạt được như mong muốn. Về kinh tế, nhìn chung có sự phát triển, nhưng nhịp độ tăng trưởng kinh tế chưa đạt được yêu cầu đề ra. Tổ chức và hoạt động của Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân còn chưa đổi mới thực sự; tình trạng vi phạm dân chủ, tệ quan liêu, tham nhũng trong bộ máy đảng, chính quyền vẫn chưa được khắc phục triệt để. Cho nên, cần phải tăng cường mối liên hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, lắng nghe ý kiến của nhân dân, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng, Nhà nước nhưng 11 nhất thiết phải có sự giám sát của nhân dân đối với hoạt động của Đảng và Nhà nước. Để đạt mục đích đó, các tác giả đã tập trung làm rõ vai trò của nhân dân trong việc giám sát hoạt động của bộ máy của Đảng và Nhà nước và các thiết chế tổ chức trong hệ thống chính trị; từ đó, đánh giá đúng thực trạng của các cơ chế và các hình thức giám sát hoạt động của các thiết chế trong hệ thống chính trị nước ta. Đồng thời nêu ra một số quan điểm, yêu cầu, nguyên tắc và khuyến nghị về xây dựng các cơ chế và hình thức, các căn cứ pháp lý để nhân dân thực hiện có hiệu quả vai trò giám sát hoạt động của Đảng và Nhà nước. Về vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, tác giả Lê Thi cho rằng, năng lực làm chủ của người dân không phải tự nhiên mà có. Nó liên quan đến hai vấn đề là quyền được thông tin và trình độ học vấn, sự hiểu biết về xã hội của người dân [xem: 86, tr. 20]. Một số công trình nghiên cứu về cộng đồng làng xã, tâm lý nông dân và tác động của nó đến thực hiện dân chủ cơ sở như: Đỗ Long, “Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân” [45]; Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông, “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay” [80]; Lê Hữu Xanh, “Tác động của tâm lý làng xã trong việc xây dựng đời sống kinh tế xã hội ở nông thôn đồng bằng Bắc bộ nước ta hiện nay” [101]; Đỗ Long, Vũ Dũng (đồng chủ biên), “Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường” [46]; John Kleinen, “Làng Việt - Đối diện tương lai, hồi sinh quá khứ” [54]; Nguyễn Bình Yên, “Ảnh hưởng của tư tưởng phong kiến đối với con người Việt Nam hiện nay” [102]; Phạm Giang, “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” [27]; Đề tài khoa học cấp Bộ, "Mối quan hệ giữa yếu tố tâm lý xã hội với quá trình thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nông thôn hiện nay" (Qua khảo sát một số tỉnh Vùng đồng bằng Bắc Bộ) [37]... Các công trình nghiên cứu trên đã làm rõ căn cứ lý luận trong nghiên cứu tâm lý nông dân; những đặc trưng cơ bản của đời sống làng xã Việt Nam; ảnh hưởng của tâm lý nông dân với thực hiện dân 12 chủ cơ sở. Trong công trình “Quan hệ cộng đồng và cá nhân trong tâm lý nông dân”, tác giả Đỗ Long đã xem xét nhân cách người nông dân Việt Nam qua các lăng kính đạo đức học và tâm lý học, chỉ ra những hạn chế trong nhân cách này; đồng thời phân tích những biểu hiện mới trong nhu cầu, nhận thức, tình cảm, năng lực, nhóm và chuẩn mực nhóm của nhân cách người nông dân giai đoạn hiện nay. Trong công trình “Cộng đồng làng xã Việt Nam hiện nay”, các tác giả Nguyễn Văn Sáu, Hồ Văn Thông đã làm rõ một số vấn đề cơ bản về cộng đồng làng xã Việt Nam từ khi hình thành đến nay; mối quan hệ giữa tổ chức Đảng, chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức trong cải cách hành chính, thực hiện dân chủ ở cơ sở... Đặc biệt, các nhà khoa học cũng đã chỉ ra một số hạn chế liên quan đến thể chế chính trị ở nông thôn như hiệu lực của thể chế còn yếu kém, thiếu sức mạnh… dẫn đến quyền lực của Nhà nước, của nhân dân, của pháp luật không được tôn trọng. Đây là nguyên nhân cơ bản làm cho chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước chưa phát huy hết hiệu quả, hiệu lực. Nghiên cứu về tâm lý nông dân Việt Nam trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế thị trường, các tác giả Đỗ Long, Vũ Dũng trong công trình “Tâm lý nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường” đã cho rằng, “trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường với các nhu cầu của họ về đất đai, về ứng dụng khoa học kỹ thuật, về thuê mướn sức lao động… nhưng do tâm lý bao cấp, tự người nông dân đã đặt ra những rào cản cho mình” [46, 104]. Đồng thời, các tác giả cũng bước đầu làm rõ tâm trạng cũng như các nguyện vọng của nông dân trong thời kỳ đầu phát triển kinh tế thị trường. Đây chính là một trong những giai đoạn ảnh hưởng lớn đến mối quan hệ cá nhân và cộng đồng ở nông thôn Việt Nam. 13 Đánh giá về truyền thống dân chủ trong lịch sử Việt Nam, tác giả Phạm Giang, trong công trình “Lấy dân làm gốc ở thời Trần” đã chỉ ra các đặc điểm, hình thức thực hiện dân chủ thời nhà Trần. Tác giả đã khái lược tư tưởng lấy dân làm gốc trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Đặc biệt là dưới triều đại nhà Trần, các vua tôi đã biết huy động sức mạnh của dân tộc lúc bấy giờ, tạo nên sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi vĩ đại, ghi vào sử sách nước nhà ba lần đại thắng quân Nguyên Mông. Qua đó, tác giả phân tích và nêu lên tư tưởng của người xưa đã biết vận động, lắng nghe và rất quan tâm đến việc “lấy dân làm gốc”, như việc vua nhà Trần ý thức đặt ra những giới hạn quyền lực của triều đình, đặt ra chức Gián quan... Ít có triều đại phong kiến nào như triều đại nhà Trần đã tổ chức nên Hội nghị Diên Hồng để lấy ý kiến của nhân dân lo cho việc nước, khi đất nước lâm nguy. Hội nghị thể hiện quyết tâm sắt đá kháng chiến vì chính nghĩa của toàn dân trước quân Nguyên Mông xâm lược, biểu hiện sự kết hợp giữa tinh thần bất khuất của nhân dân và vì nhân dân. Ở thời kỳ này, các vua Trần chú trọng lắng nghe ý kiến, tranh thủ sự đồng thuận của đông đảo nhân dân. Vì vậy, “lịch sử khẳng định: Biết đặt quyền lợi nhân dân lên trên, nhà Trần đã thực sự là người đại diện xứng đáng cho dân tộc” [27, tr.114]; “Trần Quốc Tuấn tổng kết: “Vua tôi đồng lòng, anh em hoà thuận, cả nước chung sức, giặc phải bị bắt” [27, tr.115] và “Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc. Đó là thượng sách giữ nước”[27, tr.113]. Có thể khẳng định rằng, ở bất cứ thời nào, các nhà “cầm quyền” biết dựa vào dân, phát huy và huy động sức mạnh từ nhân dân (dân chủ là vô địch) để giữ nước, phát triển đất nước, là biện chứng của phạm trù dân giàu thì nước mạnh, là nguồn gốc của sự ổn định chính trị, làm cho cuộc sống bình yên, toàn dân đoàn kết là tiền đề cho mọi thắng lợi. Từ những khái quát trên có thể thấy, đã có nhiều công trình nghiên cứu về vai trò của quần chúng nhân dân theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có thực hiện dân chủ ở cơ sở. 14 Một số công trình đã làm rõ khái niệm, nội dung, bản chất, sự ra đời Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam thời kỳ đổi mới; tác động của các nhân tố chủ quan, khách quan đến thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, nhất là ở nông thôn. Đây là những tư liệu cần thiết mà tác giả sẽ kế thừa trong quá trình thực hiện luận án. 1.1.2. Những nghiên cứu về thực trạng vai trò của nhân dân trong thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng trong bài “Không ngừng phát huy dân chủ ở cơ sở, khơi dậy tiềm năng, sức mạnh to lớn của nhân dân”, Tạp chí Cộng sản, số 139 (7/2018) đã đánh giá một số thành tựu cơ bản qua 20 năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở như: (1) Nhận thức về dân chủ và thực hành dân chủ của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân ngày càng được nâng lên; (2) Việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở đã góp phần phát huy vai trò, tiềm năng, sức sáng tạo của nhân dân tham gia bàn bạc những công việc của địa phương, đất nước. Những thành tựu trên là do cấp ủy, chính quyền, các tổ chức chính trị xã hội đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, triển khai thực hiện, đẩy mạnh tuyên truyền, quán triệt và tổ chức thực hiện; sự đồng tình, ủng hộ của các tầng lớp nhân dân [Xem: 93, tr. 6]. Tác giả Trần Quang Nhiếp trong công trình “Nhìn lại mười năm thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở” [71] cho rằng, qua mười năm thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn đã đạt được những kết quả rất tích cực, góp phần tạo động lực thúc đẩy, phát huy quyền làm chủ của người dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước, khắc phục một phần tệ quan liêu, tham nhũng, mất dân chủ, xa rời quần chúng nhân dân của một bộ phận cán bộ, công chức; đóng góp tích cực vào cải cách hành chính; tăng cường mối quan hệ giữa Đảng với dân. Tác giả đã chỉ ra bốn thành tựu nổi bật là: (1) Nhận thức của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể xã hội về dân chủ và dân chủ trực 15 tiếp của nhân dân có nhiều chuyển biến tích cực; (2) Góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội ở địa phương; (3) Tác động tích cực vào xây dựng đời sống văn hóa ở cơ sở; (4) Góp phần xây dựng hệ thống chính trị cơ sở ngày càng vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Tác giả Nguyễn Văn Hiển trong công trình “Về thi hành Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn 2007” [31] đã chỉ ra một số thành tựu chủ yếu về phát huy vai trò của người dân như: “Nhận thức của người dân về các quyền dân chủ; năng lực, trách nhiệm của nhân dân trong giám sát, tham gia góp ý kiến cho việc quản lý, điều hành của chính quyền, cán bộ ngày càng cao. Nhân dân ở nhiều địa phương đã tích cực tham gia xây dựng, thực hiện hương ước, quy ước qua nhiều hình thức khác nhau [31, tr.131-132]. Về những hạn chế, tác giả cũng chỉ ra: Mặt bằng nhận thức của người dân về quy chế dân chủ ở cơ sở còn hạn chế, còn có tâm lý chông chờ, ỷ lại, thụ động trong nhận thức các quyền dân chủ; tình trạng cục bộ lợi ích trong thực hiện dân chủ cơ sở ở nhiều nơi…[Xem: 31, tr132-133]. Tác giả Nguyễn Hồng Chuyên trong công trình “Thực hiện pháp luật về dân chủ ở cấp xã theo yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam” [10] đã chỉ ra một số thành tựu và hạn chế trong thực hiện dân chủ ở cơ sở như: Về thành tựu: Công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã đã được quan tâm thực hiện; nhận thức, hiểu biết pháp luật về thực hiện dân chủ ở cấp xã của cán bộ và nhân dân đã được nâng cao; chính quyền cấp xã đã thực hiện niêm yết, thông báo những nội dung công khai để nhân dân biết... Về hạn chế: công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật thực hiện dân chủ ở cấp xã chưa đáp ứng được sự mong đợi của cán bộ và nhân dân; kiến thức, hiểu biết của một bộ phận nhân dân về nội dung của pháp luật dân chủ ở cấp xã còn hạn chế; việc thực hiện các nội dung dân biết, dân bàn, dân giám sát ở một số nơi còn mang tính hình thức... [10, tr. 34-42].
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan