Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Vai trò của ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển và một số vấn đề...

Tài liệu Vai trò của ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển và một số vấn đề đặt ra đối với việt nam

.PDF
47
471
83

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI KHOA KINH TẾ ------------ VŨ THỊ THU HƯƠNG VAI TRÒ CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI VIỆT NAM Chuyên ngành: Kinh tế chính trị Mã số: 5.02.01 LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ CHÍNH TRỊ Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Phạm Văn Dũng HÀ NỘI - 2005 LỜI MỞ ĐẦU 1. Lý do lựa chọn đề tài Lực lượng sản xuất ngày càng phát triển đạt đến trình độ xã hội hoá cao, các quá trình kinh tế không còn tồn tại một cách biệt lập mà có mối quan hệ hữu cơ, tác động qua lại lẫn nhau làm hình thành nên nền kinh tế toàn cầu. Sự gia tăng tính phụ thuộc của các quá trình kinh tế tất yếu dẫn đến sự ra đời các tổ chức kinh tế quốc tế. Trong các tổ chức kinh tế quốc tế nổi lên một định chế tài chính toàn cầu là Ngân hàng thế giới. Từ khi ra đời, hoạt động của Ngân hàng thế giới ngày càng mở rộng ra nhiều quốc gia và trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Vậy vai trò của Ngân hàng thế giới trong nền kinh tế thế giới như thế nào? Mục đích, nguyên tắc hoạt động của tổ chức đó ra sao? Nó có tác động đối với các quốc gia đặc biệt là những quốc gia đang phát triển như thế nào?... đó là những câu hỏi cần có câu trả lời. Việt Nam hiện nay đang trong quá trình đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới. Trong quá trình mở cửa hội nhập, việc thiết lập quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế đa phương là rất cần thiết, trong đó có Ngân hàng thế giới. Ngân hàng thế giới hiện nay là nhà tài trợ ODA lớn thứ hai ở Việt Nam. Nếu Việt Nam thiết lập quan hệ tốt với tổ chức này thì sẽ góp phần khai thác có hiệu quả các nguồn lực từ bên ngoài đáp ứng nhu cầu tăng trưởng và phát triển kinh tế. Xuất phát từ suy nghĩ đó, em chọn đề tài “Vai trò Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển và một số vấn đề đặt ra đối với Việt Nam ” nhằm đánh giá tác động của Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển và đề xuất một số giải pháp cho Việt Nam để mở rộng quan hệ với tổ chức này. 2. Tình hình nghiên cứu. Ở Việt Nam trong những năm gần đây đã có một số công trình nghiên cứu về Ngân hàng thế giới. Những công trình chủ yếu là: “Các thiết chế tài chính quốc tế và sự tác động đối với các nước đang phát triển” do Nguyễn Văn Thanh chủ biên đã đề cập đến những thành công và thất bại của Ngân hàng thế giới và Quỹ tiền tệ quốc tế trong 50 năm tồn tại và phát triển. Tuy nhiên, tác phẩm đó chỉ tập hợp những bài viết của những tác giả khác nhau ở trong và ngoài nước về các khía cạnh khác nhau của hai tổ chức này. “Các tổ chức tài chính quốc tế và quan hệ của Việt Nam” do Bộ Tài chính chủ biên giới thiệu sơ lược về lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức của Ngân hàng thế giới và quan hệ với Việt Nam. “Các định chế tài chính, tổ chức thương mại và thị trường ngoại hối” do Lê Văn Tư chủ biên giới thiệu khái quát về Ngân hàng thế giới. Nhìn chung, những công trình trên đây đã đề cập đến một số khía cạnh khác nhau của tổ chức này. Cho đến nay chưa có tác giả nào nghiên cứu một cách hệ thống về Ngân hàng thế giới. 3. Mục đích nghiên cứu Dưới góc độ kinh tế chính trị, mục đích nghiên cứu đề tài này là làm rõ tác động hai mặt của Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển và Việt Nam từ đó đưa ra những giải pháp cần thiết để Việt Nam tranh thủ những tác động tích cực, hạn chế tác động tiêu cực của Ngân hàng thế giới. 4. Đối tượng nghiên cứu Đề tài nghiên cứu về lịch sử hình thành, cơ cấu tổ chức và nhất là các chương trình, dự án hoạt động của Ngân hàng thế giới ở các nước đang phát triển và Việt Nam (lượng vốn phân bổ, điều kiện vay vốn, kết quả những chương trình dự án và tác động đối với nước nhận viện trợ) 5. Phạm vi nghiên cứu. Trong phạm vi của luận văn, tác giả nghiên cứu tác động của Ngân hàng thế giới đối với một số nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ, Braxin, Ácmennia, Tháilan, Inđônêsia, Bănglađét, Zimbabuê, Zambia và Việt Nam và đánh giá những tác động chủ yếu từ những năm 1980 trở lại đây. 6. Phương pháp nghiên cứu Đề tài sử dụng những phương pháp nghiên cứu của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những phương pháp cụ thể là: trừu tượng hoá khoa học, phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử… 7. Những đóng góp mới của luận văn: Luận văn có những đóng góp mới sau: - Làm rõ tác động hai mặt của các chương trình hỗ trợ của Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển. - Đề xuất một số quan điểm và giải pháp để phát triển quan hệ giữa Ngân hàng thế giới và Việt Nam. 8. Bố cục của luận văn. Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba chương: Chương 1: Tổng quan về Ngân hàng thế giới. Chương 2: Tác động của Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển Chương 3: Quan điểm định hướng và những giải pháp nhằm phát triển quan hệ giữa Ngân hàng thế giới và Việt Nam. MỤC LỤC Lời mở đầu Những từ viết tắt Tổng quan về Ngân hàng thế giới Chương 1 1.1. Lịch sử hình thành ngân hàng thế giới 1 1.2. Cơ cấu tổ chức và cơ chế hoạt động của Ngân hàng thế giới 3 1.2.1. Các tổ chức của Nhóm Ngân hàng thế giới 3 1.2.1.1. Ngân hàng quốc tế cho tái thiết và phát triển (IBRD) 3 1.2.1.2. Công ty tài chính quốc tế (IFC) 4 1.2.1.3. Hiệp hội phát triển quốc tế (IDA) 5 1.2.1.4. Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương (MIGA) 6 1.2.1.5. Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tư (ICSID) 7 1.2.2. Cơ cấu tổ chức của nhóm Ngân hàng thế giới 8 1.2.3. Quyền bầu cử và cơ chế ra quyết định của Ngân hàng thế giới 11 1.3. Mục tiêu hoạt động của Ngân hàng thế giới 12 1.4. Hoạt động của Ngân hàng thế giới tại các quốc gia đang phát triển 13 1.4.1. Hoạt động cho vay 13 1.4.2. Đồng tài trợ và quỹ uỷ thác 14 1.4.3. Viện trợ không hoàn lại 15 1.4.4. Hỗ trợ kỹ thuật 15 Chương 2 Tác động của Ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển Tác động về kinh tế 18 2.1.1. Những tác động tích cực 18 2.1. 2.1.1.1. Cung cấp vốn đa phương lớn nhất với điều kiện ưu đãi cho các nước đang phát triển 18 2.1.1.2. Cải thiện cơ sở hạ tầng vật chất cho nền kinh tế ở các nước đang phát triển 22 2.1.1.3. Phát triển nông nghiệp, nông thôn ở những nước đang phát triển 28 2.1.1.4. Giúp các nước tạo lập và duy trì sự ổn định kinh tế vĩ mô 33 2.1.1.5. Khuyến khích sự phát triển mạnh mẽ của đầu tư tư nhân và đẩy mạnh cải cách doanh nghiệp nhà nước 38 2.1.1.6. Khuyến khích các nước đang phát triển đẩy mạnh cải cách kinh tế theo hướng tự do, mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế mạnh mẽ hơn 40 2.1.1.7. Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo 41 2.1.1. Những tác động hạn chế 43 2.2. Tác động chính trị , xã hội 47 2.2.1. Những tác động tích cực 47 2.2.1.1. Về xã hội 47 Về chính trị 62 2.2.2. Những tác động hạn chế 68 2.2.1.2. 2.2.2.1. Về xã hội 68 2.2.2.2. Về chính trị 73 Chương 3 Quan điểm định hướng và những giải pháp nhằm phát triển quan hệ giữa Ngân hàng thế giới và Việt Nam 3.1. Hoạt động của Ngân hàng thế giới tại Việt Nam 77 3.1.1. Khái quát về mối quan hệ giữa Việt Nam và Ngân hàng thế giới 77 3.1.2. Tác động của Ngân hàng thế giới đối với Việt Nam 79 3.1.2.1. Những tác động tích cực 80 3.1.2.2. Những hạn chế trong việc thực hiện dự án 95 3.2. Những quan điểm định hướng trong việc phát triển quan hệ giữa Việt Nam với Ngân hàng thế giới 97 3.2.1. Phát triển quan hệ với Ngân hàng thế giới là một vấn đề tất yếu, có tính chiến lược và lâu dài 97 3.2.2. Phát triển quan hệ với Ngân hàng thế giới cần luôn tính đến tác động hai mặt của nó 98 3.2.3. Chủ động thực hiện cải cách và tạo lập những điều kiện cần thiết để hợp tác có hiệu quả với Ngân hàng thế giới 3.3. Các giải pháp nhằm mở rộng quan hệ với Ngân hàng thế giới 99 101 3.3.1. Tham gia hợp tác toàn diện với Ngân hàng thế giới trên tất cả các mặt hoạt động khác nhau 101 3.3.2. Thực hiện cải cách một số lĩnh vực trọng yếu trong nền kinh tế hiện nay 102 3.3.3. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính trong quản lý và thực hiện dự án với Ngân hàng thế giới 104 3.3.4. Đào tạo và nâng cao trình độ đối với những cán bộ làm trong lĩnh vực có liên quan đến Ngân hàng thế giới 104 Kết luận 106 Danh mục tài liệu tham khảo 107 NHỮNG TỪ VIẾT TẮT IBRD ICSID Ngân hàng quốc tế cho tái thiết và phát triển Trung tâm quốc tế giải quyết các tranh chấp đầu tư IDA Hiệp hội phát triển quốc tế IFC Công ty tài chính quốc tế IMF Quỹ tiền tệ quốc tế MIGA Cơ quan bảo lãnh đầu tư đa phương OED Ban đánh giá hoạt động WB Ngân hàng thế giới CHƢƠNG 3: QUAN ĐIỂM ĐỊNH HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN QUAN HỆ GIỮA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM 3.1. HOẠT ĐỘNG CỦA NGÂN HÀNG THẾ GIỚI TẠI VIỆT NAM 3.1.1. Khái quát về mối quan hệ giữa Việt Nam và Ngân hàng thế giới Ngày 18 tháng 8 năm 1956, Việt Nam dưới danh nghĩa của Chính quyền Sài gòn Nam Việt Nam đã gia nhập Ngân hàng thế giới. Việt Nam đã đóng góp vào các tổ chức của WB như sau: góp vào Ngân hàng quốc tế cho tái thiết và phát triển IBRD 54,3 triệu đôla, trong đó góp bằng đô la là 552.942 đô la; góp vào hiệp hội phát triển quốc tế IDA 1,616 triệu đô la trong đó góp bằng đô la là 151.000 đô la và góp vào công ty tài chính quốc tế IFC 166.000 đô la. Do đó, ở trong IBRD, Việt Nam có 968 cổ phần, tương ứng 1218 phiếu bầu, chiếm 0,08% tổng số phiếu bầu. Ở IDA, Việt Nam có 14.778 cổ phần, tương ứng với 19.203 phiếu bầu, chiếm 0,14% tổng số phiếu bầu. Trước năm 1975, Việt Nam không có quan hệ tín dụng với tổ chức này [2,156]. Ngày 21 tháng 9 năm 1975, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã tiếp quản tư cách hội viên tại WB của chính quyền Sài gòn cũ. Năm 1978, WB cho Việt Nam vay một khoản tín dụng trị giá 60 triệu đô la để thực hiện dự án thuỷ lợi Dầu Tiếng. Tháng 1 năm 1985, quan hệ tín dụng giữa Việt Nam và WB bị đình chỉ do phía Việt Nam mắc nợ quá hạn [2,156]. Sau khi Việt Nam trả các khoản nợ quá hạn, đến tháng 10 năm 1993, WB đã chính thức nối lại quan hệ tín dụng với Việt Nam. Song Việt Nam là một quốc gia nghèo đang phát triển, có mức thu nhập bình quân đầu người thấp, cho nên đến nay Việt Nam chưa có quan hệ vay vốn với Ngân hàng quốc tế cho tái thiết và phát triển mà chỉ có quan hệ tín dụng ưu đãi và một số khoản hỗ trợ kỹ thuật với Hiệp hội phát triển quốc tế. Từ khi nối lại quan hệ tín dụng với Việt Nam, hoạt động của WB tại Việt Nam bao gồm những nội dung sau: 77 + Về vốn cho vay: Tính đến năm 2005, WB đã cam kết tài trợ cho Việt Nam tổng cộng 51 dự án, chương trình với tổng số vốn cam kết gần 5,6 tỷ đô la trong đó số tiền đã được giải ngân là 2,9 tỷ đô la (chiếm 51% tổng số vốn đã cam kết). Các dự án tập trung vào nông nghiệp, cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế và một số lĩnh vực khác. Tỉ lệ vốn vay của Việt Nam theo ngành từ năm 1993-2003 như sau: Năng lượng 23%; Giao thông 19%; Phát triển nông thôn 22%; Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo 13%; Giáo dục 8%; Phát triển đô thị 8%; Y tế và dân số 5%; Tài chính ngân hàng 3%. Ngoài ra, WB còn cung cấp viện trợ không hoàn lại trị giá 2,7 triệu đô la của Quỹ phát triển thể chế và 15 khoản viện trợ không hoàn lại trị giá 18,9 triệu đô la theo các quỹ uỷ thác tại WB [12,19]. Kết thúc năm tài chính 2005, Việt Nam nhận được 700 triệu đô la vốn cam kết của IDA và trở thành một trong số 3 nước nhận được tín dụng IDA lớn nhất. + Về hoạt động hỗ trợ kỹ thuật: Ngoài việc cho các dự án vay, WB còn cung cấp cho Việt Nam một số khoản hỗ trợ kỹ thuật của chính WB và một số khoản hỗ trợ kỹ thuật do một số nước uỷ thác. Tính đến tháng 1 năm 2000, tổng số hỗ trợ kỹ thuật của WB dành cho Việt Nam là 71 khoản với giá trị là 86 triệu đô la [13,374]. Sự hỗ trợ kỹ thuật của WB tập trung vào lĩnh vực chuẩn bị dự án, phát triển thể chế nhằm xây dựng, nâng cao năng lực một số ngành, cơ quan có liên quan đến dự án; xây dựng và phát triển chính sách nhằm nâng cao khuôn khổ pháp lý cho các dự án cơ sở hạ tầng thuộc ngành điện và vệ sinh môi trường. WB đã xây dựng chiến lược hỗ trợ cho Việt Nam giai đoạn 2001 – 2003 với mục tiêu hỗ trợ Việt Nam thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo và tăng trưởng công bằng thông qua các chương trình, dự án và hỗ trợ kỹ thuật trong 7 lĩnh vực ưu tiên: - Tăng cường sự ổn định vĩ mô và tính cạnh tranh. - Tăng cường khu vực tài chính. - Đổi mới hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước. - Tăng năng suất lao động thông qua cơ sở hạ tầng. - Thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn. - Phát triển nguồn nhân lực và công bằng xã hội. 78 - Cải cách hành chính, tăng cường tính công khai và sự tham gia của cộng đồng. Hiện nay, trên cơ sở Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo của Chính phủ Việt Nam, WB xây dựng chương trình cho Việt Nam vay giai đoạn 2003-2006, WB đưa ra 3 phương án cho Việt Nam vay: phương án thấp (khoảng 300 triệu đô la mỗi năm), phương án cơ bản (khoảng 600 triệu đô la mỗi năm) và phương án cao (khoảng 800 triệu đô la mỗi năm) tuỳ thuộc vào tiến độ thực hiện chiến lược toàn diện về xoá đói giảm nghèo của Chính phủ và tiến độ chuẩn bị và thực hiện các dự án của WB. Trong giai đoạn này, các hoạt động của WB tập trung hỗ trợ cho Việt Nam 3 chủ đề sau đây: - Hỗ trợ cho quá trình chuyển nền kinh tế việt Nam sang kinh tế thị trường: theo đó, các hoạt động WB tại Việt Nam sẽ chuyển đổi từ việc lập kế hoạch sang thực hiện chương trình cải cách chính sách trong các lĩnh vực:phát triển lĩnh vực tài chính, cải cách doanh nghiệp nhà nước, hỗ trợ khơi dậy khu vực kinh tế tư nhân năng động trong nước, quản trị doanh nghiệp và sự tham gia của khu vực tư nhân vào cơ sở hạ tầng. Tất cả các hoạt động của tín dụng IDA sẽ hỗ trợ về chính sách, thể chế và cơ sở hạ tầng cho quá trình chuyển đổi đang diễn ra ở Việt Nam - Tăng cường phát triển công bằng, bền vững và có sự tham gia của mọi người dân trong xã hội. Theo đó, WB sẽ hỗ trợ những lĩnh vực ưu tiên sau đây: (i) thu hẹp khoảng cách lạc hâu về phát triển ở những lĩnh vực không có lợi thế hoặc bị tụt hậu; (ii) nâng cao mức sống cho người dân tộc thiểu số; (iii) thực hiện bình đẳng về giới và nâng cao vai trò của phụ nữ; (iv) làm cho các dịch vụ cơ bản của xã hội trở nên dễ tiếp cận và phục vụ được cả người nghèo; (v) giảm bớt ảnh hưởng của thiên tai và các đột biến khác; và (vi) tăng cường sự bền vững môi trường. - Tăng cường quản trị nhà nước có hiệu quả: trong khuôn khổ rộng lớn này, WB sẽ tập trung vào các hoạt động quản lý tài chính công, thông tin, tính minh bạch và phát triển pháp lý. Từng lĩnh vực sẽ nhận được hỗ trợ kỹ thuật và các dự án của IDA cho chương trình quản lý tài chính công, Chính phủ điện tử… 3.1.2. Tác động của Ngân hàng thế giới đối với Việt Nam 79 Là một nước đang phát triển, Việt Nam nằm trong chính sách chung của WB với các nước này. Tuy nhiên, những đặc điểm riêng của Việt Nam làm cho quan hệ giữa WB và Việt Nam còn có những sắc thái riêng. 3.1.2.1. Những tác động tích cực Một cách tổng quát, những hoạt động của WB tại Việt Nam trong thời gian vừa qua được cả phía Việt Nam và WB đánh giá cao. Theo đánh giá của WB, Việt Nam được xếp vào những quốc gia thực hiện tốt và đem lại kết quả tích cực: tốc độ tăng trưởng thu nhập bình quân đầu người tăng; ổn định kinh tế vĩ mô được duy trì; tỉ lệ nghèo đói giảm xuống; hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học; tỉ lệ mù chữ giảm xuống, tỉ lệ trẻ em đến độ tuổi đi học nhập trường cao; sức khoẻ và đời sống của người dân được cải thiện, tuổi thọ bình quân tăng, tỉ lệ trẻ em bị suy dinh dưõng giảm, sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em có sự cải thiện rõ rệt… Khi đánh giá kết quả các dự án đã hoàn thành ở Việt Nam, OED đánh giá hiệu quả phát triển của các dự án của WB tiếp tục coi là tốt, tỉ lệ các dự án hoàn thành đạt yêu cầu cao. Trong 8 dự án đã hoàn thành mà OED đánh giá, 100% đạt yêu cầu cả về mục tiêu phát triển và tiến độ thực hiện. Trong 25 dự án hiện tại, 100% các dự án thiết kế đều đạt được mục tiêu phát triển, xét về tiến độ thực hiện: 19/25 dự án được xếp hạng đạt yêu cầu, chỉ có 6/25 dự án được xếp hạng không thoả đáng. Số dự án có nguy cơ là 6, chiếm 24% tổng số dự án nhưng lại chỉ chiếm 19% tổng vốn cam kết, cao hơn mức trung bình trong danh mục vốn cho vay của WB [8; tr 1 phụ lục B1]. Việt Nam đánh giá cao sự hỗ trợ của WB trong thời gian vừa qua. Các dự án đã góp phần hỗ trợ Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường vững chắc và có hiệu quả hơn. Những tác động tích cực của WB tại Việt Nam được thể hiện ở những khía cạnh sau: 3.1.2.1.1. Hỗ trợ cho Việt Nam chuyển sang nền kinh tế thị trường Việt Nam đang trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Sự cam kết ngày càng mạnh mẽ của Chính phủ thực hiện cải cách nền kinh tế hướng về thị trường mở cửa và điều này phù hợp với quan điểm hỗ trợ của WB đối với các nước đang phát triển. Chính vì có sự thống nhất về quan 80 điểm cho nên những hỗ trợ của WB đối với Việt Nam đã đáp ứng được nhu cầu cải cách của nền kinh tế Việt Nam và đem lại những kết quả tích cực. Trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường, cải cách về chính sách và thể chế là một điều rất quan trọng để tạo điều kiện cho sự ra đời của kinh tế thị trường và đảm bảo nó hoạt động có hiệu quả. Nhận thức được điều đó, trong thời gian qua, WB đã hỗ trợ tập trung vào chủ đề này thông qua các hoạt động sau đây: * Cải thiện môi trƣờng đầu tƣ cho khu vực tƣ nhân, từ đó tạo nhiều việc làm và đem lại thu nhập bình quân đầu người cao hơn. WB hỗ trợ Chương trình Phát triển dự án MêKông (MPDF). Ngoài việc cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay (các doanh nghiệp vừa và nhỏ là nòng cốt của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam), Chương trình đã tiến hành nhiều nghiên cứu về môi trường đầu tư để chỉ ra những trở ngại đối với đầu tư của khu vực tư nhân trong nước. WB vừa hoàn tất một nghiên cứu đánh giá tác động của Luật doanh nghiệp mới. Công ty tài chính quốc tế IFC đã nghiên cứu toàn diện sự phát triển của khu vực tư nhân và những trở ngại đối với sự tăng trưởng tiếp theo của khu vực tư nhân để thông báo cho các nhà hoạch định chính sách về các bước tiếp theo có thể tiến hành để hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân, hướng tới một khuôn khổ pháp lý thống nhất cho sự tham gia của các doanh nghiệp thuộc bất kỳ hình thức sở hữu nào. WB thảo luận với các quan chức Chính phủ về chương trình phát triển kinh tế tư nhân trong khuôn khổ Chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo bao gồm các vấn đề chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân theo hướng tăng cường sự tham gia của tư nhân vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, những lĩnh vực then chốt của nền kinh tế và cả vấn đề cho tư nhân tiếp cận với đất đai thông qua việc tăng cường cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Đồng thời, trong các dự án đầu tư của mình, WB khuyến khích sự tham gia của khu vực tư nhân trong việc thực hiện các hợp đồng của dự án (dự án Tài chính nông thôn khuyến khích sự tham gia của các ngân hàng cổ phần vào việc cấp tín dụng cho nông dân nghèo, dự án Giao thông nông thôn thúc đẩy sự tham gia của các nhà thầu tư nhân, dự án điện Phú Mỹ với sự khuyến khích của các nhà đầu tư tư nhân cùng hùn vốn đầu tư với WB). 81 Những tác động trên đã góp phần cải thiện chung cho môi trường đầu tư của khu vực tư nhân. Quốc hội đã thông qua những sửa đổi trong Hiến pháp, biến khu vực tư nhân trở thành một bộ phận quan trọng trong nền kinh tế, thừa nhận quyền của doanh nghiệp và doanh nhân trong việc quyết định hình thức kinh doanh và hoạt động trong những lĩnh vực không bị cấm. Hội nghị Trung ương 5 khoá IX tháng 3-2002 đã thừa nhận khu vực tư nhân là một yếu tố đóng góp quan trọng vào tạo việc làm, thu nhập và ngân sách. Hội nghị kêu gọi các nhà lãnh đạo đất nước khuyến khích khu vực tư nhân và ra quyết định đề xuất những chính sách tạo điều kiện cho việc phát triển khu vực tư nhân. 50 loại giấy phép liên quan đến việc thành lập và các hoạt động của doanh nghiệp tư nhân bị bãi bỏ hoặc sửa đổi. Một Nghị định về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp tư nhân vừa và nhỏ đã được ban hành, tiến dần tới xoá bỏ chế độ hai giá đối với các tổ chức trong và ngoài nước. Luật doanh nghiệp ra đời khuyến khích tư nhân đầu tư, biểu hiện từ khi Luật Doanh nghiệp ra đời, cứ mỗi tháng có 1600 doanh nghiệp mới đăng ký. Thực hiện áp dụng mức thuế thu nhập thống nhất 28% đối với mọi loại hình sở hữu. * Cải cách doanh nghiệp nhà nƣớc. Để nâng cao tính hiệu quả và tăng cường nguồn tài chính cho giảm nghèo, WB đã hỗ trợ kỹ thuật đối với lĩnh vực cải cách doanh nghiệp nhà nước trong một loạt các hoạt động đi kèm với Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo bao gồm tăng cường cổ phần hoá, giải thể và bán đứt doanh nghiệp nhà nước; điều chỉnh khuôn khổ pháp lý để nâng cao hiệu quả và tính minh bạch của việc cổ phần hoá; Tiến hành kiểm toán chẩn bệnh và kế hoạch cơ cấu lại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn (kế hoạch cơ cấu lại 3 tổng công ty Cà phê (Vinacafe), Dệt may (Vinatex), Xuất nhập khẩu thuỷ sản (Seaprodex)); đưa ra các thông tin đáng tin cậy về hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước hàng năm; mở rộng hệ thống an sinh cho công nhân thuộc doanh nghiệp nhà nước phải thôi việc do cải cách. Với sự tài trợ của DFID, một chuyên gia chuyên trách về doanh nghiệp nhà nước đã làm việc tại văn phòng ở Hà Nội. Một dự án do ASEM tài trợ và chính phủ thực hiện nhằm theo dõi việc thực hiện kế hoạch chuyển đổi các doanh nghiệp nhà nước. Các tổ công tác của Chính phủ và các nhà tài trợ về lĩnh vực doanh nghiệp nhà nước được thành lập và kèm theo đó là các chương trình đối 82 thoại giữa Chính phủ và các nhà tài trợ nhằm chia sẻ thông tin, những hiểu biết và kiến thức liên quan đến lĩnh vực này. Các hoạt động trên đây đã góp phần đẩy nhanh được tiến độ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam. Tính đến hết tháng 10 năn 2004, Việt Nam đã cổ phần hoá được 2242 doanh nghiệp nhà nước và bộ phận doanh nghiệp nhà nước trong đó một bộ phận lớn doanh nghiệp được cổ phần hoá sau năm 2000. Kết quả thực hiện cổ phần hoá đáng khích lệ, một bộ phận lớn doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá làm ăn hiệu quả, có tính chủ động cao trong giải quyết những vấn đề tài chính, năng động trong kinh doanh, đảm bảo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Kết quả tái cơ cấu lại 3 tổng công ty là Vinatex, Vinacafe và Seaprodex đã đem lại những kết quả tích cực. Sau quá trình tái cơ cấu, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của Vinatex và Vinacafe đều khả quan hơn trước. Kim ngạch xuất khẩu của Vinatex đã tăng trưởng 30%/năm từ năm 2003. Xuất khẩu của Vinacafe tăng gần 41,6% về lượng và gần 41% về giá trị so với cùng kỳ năm trước và hầu hết các đơn vị xuất khẩu cà phê đều có lãi [17,1]. * Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng và phát triển khu vực tài chính: Trong lĩnh vực cải cách hệ thống ngân hàng, WB tiến hành hỗ trợ kỹ thuật thông qua: một đánh giá toàn diện về hệ thống ngân hàng, tiến hành kiểm toán chẩn bệnh các ngân hàng thương mại nhà nước, đánh giá chẩn đoán đầy đủ về hệ thống báo cáo của ngân hàng; tái cơ cấu lại 2 ngân hàng thương mại quốc doanh lớn; đào tạo đội ngũ nhân viên ngân hàng; xây dựng và nâng cao năng lực quản lý cho Ngân hàng nhà nước Việt Nam. Đối với hoạt động cho vay, WB đã đầu tư dự án Hiện đại hoá hệ thống ngân hàng và hệ thống thanh toán có giá trị là 49,9 triệu đô la và dự án này hoàn thành đạt kết quả tốt nhất trong số các dự án đã hoàn thành của WB tại Việt Nam. Kết quả dự án này rất tốt, các ngân hàng được hiện đại theo mô hình tập trung hoá tài khoản và kết nối trực tuyến. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã kết nối 55 tổ chức tín dụng và 217 chi nhánh trong 5 tỉnh thành phố và mỗi ngày thực hiện từ 10 đến 14 ngàn giao dịch. Có 4 ngân hàng thương mại kết nối hệ thống trong 5 tỉnh thành phố lớn (Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng, Cần Thơ) với hàng trăm chi nhánh (riêng VCB và ngân hàng 83 thương mại cổ phần Hàng hải đã kết nối với tất cả các chi nhánh). Tổng số có 70 môđun nghiệp vụ đã triển khai cho 6 ngân hàng. Các hệ thống của các ngân hàng thương mại thực hiện từ 6 đến 7 triệu giao dịch mỗi ngày. Đồng thời, dự án này còn huy động vốn đóng góp của chính các ngân hàng thương mại 41,3 triệu đô la. Dự án này không chỉ đem lại việc tiết kiệm tiền mà các ngân hàng thương mại giảm thời gian thanh toán từ 30 ngày tính theo thời điểm giữa năm 1995 xuống còn không đầy 24 giờ hiện nay và thúc đẩy lưu thông chu chuyển vốn nhanh, tạo điều kiện thúc đẩy các hoạt động kinh doanh và nâng cao chất lượng dịch vụ của các ngân hàng thương mại [53, 23]. Trong lĩnh vực tài chính, dự án tài chính nông thôn 1 cũng đem lại kết quả thành công khá nổi bật. Mục tiêu của dự án này là làm lành mạnh hoá tài chính nông thôn thông qua sự tài trợ hướng vào nông nghiệp và các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn cùng với những hỗ trợ kỹ thuật… từ đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội để cải thiện cuộc sống của họ. Để đạt được những mục tiêu đó, dự án đã cung cấp luồng vốn tín dụng cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp vừa và nhỏ đầu tư vào nông nghiệp và các lĩnh vực khác trong nông thôn thông qua các tổ chức tín dụng tham gia. Dự án làm lành mạnh hoá tài chính nông thôn thông qua các chương trình hỗ trợ kỹ thuật và đào tạo nhân viên Ngân hàng nhà nước Việt Nam trong việc quản lý và giám sát hoạt động tổng thể đặc biệt tập trung vào việc nâng cao năng lực đánh giá và sự uỷ quyền cho các tổ chức tín dụng tham gia; nâng cao năng lực của các tổ chức tín dụng tham gia thông qua các chương trình đào tạo, các cuộc hội thảo và thảo luận nhằm đem kỹ năng mới nhất của hệ thống ngân hàng quốc tế đến với Việt Nam đồng thời nâng cao năng lực đánh giá vốn vay, kế toán, kiểm toán, quản lý hồ sơ, huy động nguồn lực… Dự án còn mở rộng cách tiếp cận của người nghèo nông thôn đối với dịch vụ tài chính thông qua cung cấp tín dụng cho Ngân hàng người nghèo để cho người nghèo ở nông thôn vay, mở rộng sự hoạt động của các ngân hàng lưu động tới những vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn, hẻo lánh… Sau sáu năm thực hiện, từ 1996 đến 2002, dự án đã đạt được tất cả các mục tiêu của nó. Thông qua Quỹ phát triển nông thôn và Quỹ cho người nghèo nông thôn đã 84 khuyến khích đầu tư tư nhân với 600.000 khoản cho vay nhỏ đối với 260.000 người vay mượn nhỏ; 375.000 hộ gia đình nghèo tiếp cận với dịch vụ tài chính chính thức trong đó 60.000 hộ gia đình được vay trực tiếp từ quỹ người nghèo nông thôn và 315.000 hộ gia đình nhận được dịch vụ tài chính từ 159 xe ngân hàng lưu động của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; tạo điều kiện cho sự lành mạnh hoá của tất cả các tổ chức tín dụng tham gia thông qua việc thực hiện. Tổng giá trị của các khoản tín dụng mà dự án đã cung cấp là 445 triệu đô la, lớn hơn gấp 3 lần so với dự tính ban đầu của dự án, tính trung bình cứ 1đô la của quỹ IDA đã tạo ra đầu tư 3,97 đô la tính đến 31/12/2001. Hiệu quả sử dụng các khoản tín dụng trên tốt biểu hiện tỉ lệ hoàn trả các khoản cho vay khi tới hạn là 98%, 99% người vay vốn tăng thu nhập của họ một cách đáng kể, 15% tổng số tiền của dự án dùng để hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho họ mở rộng hoạt động và tạo ra gần 2950 chỗ làm việc mới cho người dân [54,18]. * Tăng cƣờng hội nhập kinh tế thế giới Thông qua Tín dụng hỗ trợ giảm nghèo, WB đã hỗ trợ cho quá trình hội nhập kinh tế thế giới để mở rộng mặt hàng xuất khẩu sử dụng nhiều lao động bằng cách: đề nghị chính phủ xoá bỏ các hạn chế định lượng về nhập khẩu đối với một số nhóm sản phẩm sữa; giảm thuế cho các mặt hàng nhập khẩu trong khối ASEAN cùng với lộ trình AFTA hàng năm; mở rộng sự tham gia của tư nhân vào xuất khẩu bằng cách đề nghị tăng lỉ tệ hạn ngạch xuất khẩu may mặc được đấu giá và thông qua tự do xuất khẩu gạo. WB tiến hành phân tích về xuất khẩu Việt Nam, thách thức và cơ hội, phân tích này đánh giá những chính sách đưa ra để nâng cao sự cạnh tranh của Việt Nam. WB còn hỗ trợ toàn diện về nghiên cứu phân tích cho Chính phủ, thiết lập và thực hiện một lộ trình hội nhập WTO với danh mục những biện pháp chính sách cụ thể kèm theo những đánh giá hậu quả của việc lựa chọn những chính sách và biện pháp khác nhau, hỗ trợ về thể chế cho các cơ quan của Việt Nam đang chuẩn bị cho lộ trình cải cách chính sách, dọn đường cho việc gia nhập WTO. Những hoạt động trên góp phần khuyến khích sự cải cách của Việt Nam theo xu hướng đó: phạm vi hạn chế định lượng đối với hàng hoá nhập khẩu đã giảm từ 85 20% lượng nhập và 22% sản lượng vào đầu năm 2003 xuống còn 13% và 4% cuối năm 2003, thuế bình quân đối với mặt hàng xuất nhâp khẩu từ các nước ASEAN giảm xuống còn 11%, hạn ngạch xuất khẩu đối với hàng may mặc sang châu Âu đã được đấu giá một phần đã tăng cường sự tham gia của tư nhân vào xuất khẩu hàng may mặc [8, tr1, phụ lục A6]. * Việc thiết kế các dự án dựa trên phƣơng thức thị trƣờng: Các dự án hầu hết được thiết kế nhằm tăng cường phát triển thể chế và chính sách hỗ trợ theo các phương thức thị trường. Các dự án đô thị của WB tại Việt Nam đã cung cấp dịch vụ đô thị và đề xuất các loại phí đánh vào người sử dụng. Các dự án năng lượng hỗ trợ cho hình thức đấu thầu cạnh tranh trong sản xuất điện, dịch vụ cung cấp tư nhân cấp xã và đề xuất cách tính giá theo cận biên dài hạn (LRMC). Các dự án nông thôn hỗ trợ việc phân bổ và đăng ký sử dụng đất, đề xuất ngân hàng hiện đại về tín dụng nông thôn. Các dự án giáo dục đã chuyển trợ cấp từ người sản xuất sang người sử dụng, đề xuất hình thức phân bổ cạnh tranh nguồn vốn cho giáo dục đại học Ngoài các chương trình, hoạt động hỗ trợ thể chế, WB còn hỗ trợ cải tạo cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế Việt Nam, tạo điều kiện vật chất cần thiết cho sự chuyển đổi sang nền kinh tế thị truờng. Các dự án mà WB hỗ trợ đã đem điện đến 2 triệu người ở 32 tỉnh nghèo và cộng đồng nông thôn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ tăng trưởng và cải thiện các thiết bị y tế và giáo dục. WB đã giúp Chính phủ sửa chữa 1000 km đường giao thông huyết mạch của đất nước, Quốc lộ 1. Và hiện nay, 600 km đường nữa đang được sửa chữa và 300 km đường sẽ được hoàn thành trong các dự án sắp tới [12,7]. WB đã làm việc với các đối tác để cải thiện hệ thống cấp nước để đến được 16 triệu người dân nghèo. Các dự án của WB đã giúp xây dựng 7000 phòng học, cung cấp 82 triệu sách toán và tiếng Việt đến các trường ở Việt Nam, 350.000 học sinh ở các xã nghèo nhất mượn sách giáo khoa miễn phí, cung cấp sách giáo khoa và thiết bị dạy học cho 320 phòng học dành cho trẻ em dân tộc thiểu số. Đồng thời, các dự án của WB còn xây dựng và nâng cấp 15 trung tâm y tế và kế hoach hoá gia đình, 137 phòng phẫu thuật và sinh sản ở các bệnh 86 viện huyện, xây dựng và nâng cấp 2606 trung tâm y tế cấp xã và 60 trạm y tế miền núi [12,7] 3.1.2.1.2. Hỗ trợ phát triển hoà nhập và bền vững Trong thời gian vừa qua, tăng trưởng kinh tế đã góp phần cải thiện nâng cao đời sống của người dân, thu nhập của họ tăng lên và nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo, tỉ lệ hộ gia đình nghèo đói đã giảm mạnh. Nhưng việc giảm nghèo được thực hiện khác nhau giữa các vùng của Việt Nam. Khu vực Tây Nguyên là khu vực nghèo nhất cả nước đồng thời cũng là khu vực giảm nghèo rất chậm trong những năm qua, tiếp đến là vùng núi phía Bắc và duyên hải Bắc Trung bộ. Các chương trình, dự án hỗ trợ của WB đối với Việt Nam tiếp tục hướng vào trọng tâm giảm nghèo bền vững theo những nội dung sau: * Giảm khoảng cách về trình độ phát triển của các vùng bị tụt hậu thông qua tăng cường dịch vụ cho những vùng đó. Các dự án của WB trong thời gian qua tập trung vào 3 vùng: miền núi phía Bắc, đồng bằng sông Cửu Long, và duyên hải Bắc Trung bộ bao gồm: Dự án Hạ tầng cơ sở ở nông thôn có sự tham gia của cộng đồng (vốn cho vay có giá trị 103 triệu đô la Mỹ) cấp tài trợ cho các xã nghèo để xây dựng cơ sở hạ tầng có quy mô nhỏ ở 540 xã trong 13 tỉnh nghèo nhất ở miền Bắc và duyên hải miền Trung; Dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phái Bắc (trị giá 110 triệu đô la Mỹ) dự kiến sẽ mang lại lợi ích cho khoảng 1 triệu người dân nghèo nông thôn trong 368 xã nghèo nhất với dự tính 85% số người hưởng lợi từ dự án là đồng bào dân tộc thiểu số; Dự án cải thiện mạng lưới đường bộ sẽ cải tạo hệ thống đường quốc lộ ở miền Bắc, xây dựng 6800 km đường liên xã và liên huyện ở 49 tỉnh; Dự án năng lượng nông thôn 1 đã giúp tăng cường khả năng sử dụng điện cho các hộ gia đình nông thôn từ 50% lên 82% trong nửa thập kỷ qua; Dự án Quản lý nguồn nước sông Cửu Long, dự án Phòng chống lũ lụt và giao thông sông Cửu Long, dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông Đồng bằng sông Cửu Long; Các hoạt động phân tích và tư vấn đã bắt đầu cập nhật chiến lược nông thôn 1998 và đánh giá tác động của đầu tư vào thuỷ lợi lên giảm nghèo [8, tr1, phụ lục C3] 87 * Dự án cơ sở hạ tầng và đời sống dựa vào cộng đồng: Dựa vào những kinh nghiệm thành công trước đây về việc sử dụng các biện pháp dựa vào cộng đồng trong dự án giảm nghèo các tỉnh miền núi phía Bắc, trong các dự án cơ sở hạ tầng nông thôn dựa vào cộng đồng, WB tiếp tục phân cấp và đẩy mạnh sự tham gia của người dân trong các dự án tiếp theo. Đồng thời, một nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá kinh nghiệm của những dự án phân cấp, các dự án có sự tham gia của cộng đồng để tìm ra các nguyên tắc chính cho việc thiết kế các chương trình tương lai chẳng hạn đảm bảo sự tham gia của cộng đồng và cơ chế quản lý, hướng đối tượng nghèo một cách hiệu quả hơn thông qua lập bản đồ nghèo, các cơ chế tài trợ, xây dựng năng lực thể chế và cải cách chiến lược nhằm thúc đẩy phân cấp hiệu quả ở Việt Nam. * Đáp ứng nhu cầu cho những ngƣời nghèo ở đô thị: Mặc dù bất bình đẳng diễn ra trầm trọng nhất là sự bất bình đẳng giữa thành thị và nông thôn, song ngay trong các thành phố vẫn có những bộ phận nghèo trầm trọng, đặc biệt những người này nằm trong số những người nhập cư. Như là một phần trong chương trình tín dụng hỗ trợ giảm nghèo, WB hợp tác chặt chẽ với chính phủ để thiết kế và thực hiện những chương trình để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ công tới người dân đô thị bao gồm cả những người nhập cư, đề nghị sửa đổi những quy định của chính phủ để cung ứng dịch vụ công cơ bản theo khu vực không tính đến tình trạng di cư của người dân (đăng ký giấy khai sinh, hộ khẩu cho người nhập cư, mở rộng sự tiếp cận của người nhập cư đến thị trường đất đai và nhà ở chính thức). Trong những năm tới, WB cho vay đối với dự án sau: Dự án nâng cấp đô thị sẽ cung cấp cơ sở hạ tầng cơ bản và cải thiện đời sống cho khoảng 865.000 dân cư nghèo và nâng cao chất lượng dịch vụ cơ sở hạ tầng cho 1.135.000 cư dân nữa thuộc 4 thành phố [8,tr3, phụ lục C3]; Dự án phát triển cấp nước đô thị sẽ cải thiện tình trạng thiếu nước sinh hoạt hiện nay ở những thành phố lớn; Dự án vệ sinh môi trường của các thành phố ven biển sẽ mở rộng cung cấp nước và dịch vụ vệ sinh cho những thị trấn nhỏ và những vùng nông thôn chưa được hưởng; Dự án phát triển giao thông đô thị mới cho Hà Nội nhằm cải thiện các phương tiện giao thông công cộng (xe 88
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan