ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ THÙY
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƢỢNG
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
PHẠM THỊ THÙY
VAI TRÒ CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA LỰC LƢỢNG
SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: TRIẾT HỌC
Mã số: 60.22.80
LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC
Ngƣời hƣớng dẫn khoa học
PGS.TS PHẠM ĐÌNH NGHIỆM
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của tôi, chưa được ai
công bố, dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. PHẠM ĐÌNH NGHIỆM. Tư liệu
trong luận văn là hoàn toàn trung thực.
Tp. Hồ Chí Minh, ngày…..tháng…..năm 2014
TÁC GIẢ
PHẠM THỊ THÙY
MỤC LỤC
Trang
PHẦN MỞ ĐẦU ........................................................................................... ..1
PHẦN NỘI DUNG ........................................................................................ 14
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƢỢNG
SẢN XUẤT ....................................................................................................................... 14
1.1 Khái niệm khoa học, công nghệ và lực lƣợng sản xuất ...................... 14
1.1.1 Khái niệm khoa học và khái niệm công nghệ ........................................ 14
1.1.2 Khái niệm lực lượng sản xuất và kết cấu của lực lượng sản xuất ........ 25
1.2 Luận điểm khoa học trở thành lực lƣợng sản xuất trực tiếp của
C.Mác – Ph. Ăngghen .................................................................................. 31
1.3 Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của khoa học và
công nghệ đối với sự phát triển của lực lƣợng sản xuất ........................... 40
Chƣơng 2: KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN LỰC
LƢỢNG SẢN XUẤT Ở VIỆT NAM – THỰC TRẠNG VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP . 49
2.1 Thực trạng khoa học và công nghệ ở Việt Nam và vai trò của nó đối
với sự phát triển lực lƣợng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ...................... 49
2.1.1 Đặc điểm về lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ....................... 49
2.1.2 Sự phát triển của khoa học và công nghệ Việt Nam và đóng góp của nó
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay ............... 55
2.1.3 Hạn chế trong hoạt động khoa học và công nghệ ở Việt Nam
hiện nay ......................................................................................................... 64
2.2 Giải pháp thúc đẩy sự phát triển của khoa học và công nghệ để phát
triển lực lƣợng sản xuất ở Việt Nam hiện nay .......................................... 78
KẾT LUẬN ................................................................................................ .108
TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................... .112
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong học thuyết hình thái kinh tế xã hội của C. Mác, lực lượng sản
xuất được coi là yếu tố nền tảng, cơ sở của sự phát triển xã hội. Lực lượng sản
xuất trong xã hội bao gồm các yếu tố cơ bản là người lao động và tư liệu sản
xuất. Trong sự phát triển của lực lượng sản xuất, C.Mác đã đưa ra dự báo về
vai trò của khoa học có thể trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Dự báo này đã trở thành hiện thực trong đời sống hiện nay. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ hiện đại với giai đoạn phát triển mới là các công
nghệ cao đang làm thay đổi một cách cơ bản không chỉ lực lượng sản xuất mà
cả các quan hệ xã hội, lối sống, quan hệ quốc tế... . Khoa học và công nghệ đã
trở thành yếu tố cốt tử của sự phát triển, là lực lượng sản xuất trực tiếp của
nền kinh tế toàn cầu. Trong việc hoạch định chính sách và chiến lược phát
triển của tất cả các nước trên thế giới hiện nay, từ những nước có nền kinh tế
hiện đại đứng hàng đầu thế giới, đến những nước có nền kinh tế chậm phát
triển đều có chung một quan điểm: sự phát triển khoa học và công nghệ là
một phương hướng quan trọng, có tính quyết định trong việc phát triển kinh tế
quốc gia. Lịch sử phát triển của nhân loại trong vài trăm năm từ vài trăm năm
trước đã cho thấy con đường mà các nước chậm phát triển cần phải đi theo
không thể là cái gì khác ngoài việc biến đổi nền kinh tế theo cơ cấu hợp lý,
phát triển năng động dựa trên cơ sở của khoa học và công nghệ hiện đại.
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào thời kỳ mới của sự phát triển, thời
kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa để nhanh chóng thoát khỏi
nghèo nàn, lạc hậu, khắc phục nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế, tiến kịp các
nước trong khu vực và thế giới, cải thiện đời sống nhân dân, tăng cường tiềm
lực an ninh, quốc phòng… Có thể nói rằng, mục tiêu của công nghiệp hóa,
2
hiện đại hóa là xây dựng nước ta thành một nước có cơ sở vật chất – kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Sau gần 30 năm đổi mới, Việt
Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng, từ một nền kinh tế lạc hậu với
90% dân số làm nông nghiệp, đã xây dựng được cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ
tầng kinh tế xã hội từng bước đáp ứng cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, quy mô nền kinh tế tăng nhanh, thu nhập đầu người vượt khỏi
ngưỡng thu nhập thấp, đưa Việt Nam trở thành nước phát triển có thu nhập
trung bình.
Trong chiến lược phát triển lực lượng sản xuất nói riêng và phát triển
đất nước nói chung hai yếu tố được quan tâm hàng đầu là phát triển con
người – nguồn nhân lực và yếu tố thứ hai là khoa học và công nghệ. Điều đó
đã được khẳng định cụ thể qua các nghị quyết của Đảng ta qua mỗi kỳ Đại
hội Đảng, gần đây nhất là nghị quyết của đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI. Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm 2011 – 2015 được xác
định trong nghị quyết này trong đó những nhiệm vụ trọng tâm là phát triển,
nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo, chất lượng nguồn nhân lực; phát
triển khoa học, công nghệ và kinh tế tri thức. Tại Lễ công bố ngày khoa học
và công nghệ Việt Nam 18/05/2014, thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã nói: “
Cạnh tranh giữa các quốc gia suy cho cùng là cạnh tranh nguồn vốn tri thức,
thể hiện qua chất lượng nguồn nhân lực và trình độ khoa học và công nghệ”.
Đây là một thách thức lớn của Việt Nam trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa.
Trong thời gian gần đây, khoa học và công nghệ đã có nhiều đóng góp
cho sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội của đất nước cũng như đóng góp của
nó thúc đẩy sự phát triển và làm thay đổi bộ mặt của lực lượng sản xuất ở
3
Việt Nam. Nhưng bên cạnh những thành tựu đạt được, cũng còn tồn tại những
trở ngại về cơ chế quản lý, về tài chính, về chính sách trọng dụng đãi ngộ với
nhà khoa học, phát huy năng lực nghiên cứu khoa học của đội ngũ những nhà
khoa học Việt Nam,… những nguyên nhân đó đã cản trở sự phát triển của
khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
Từ xu thế tình hình phát triển hiện nay của thế giới, từ yêu cầu nhiệm
vụ nhìn nhận đánh giá đúng về yếu tố khoa học và công nghệ trong lực lượng
sản xuất và sự phát triển của nó ở Việt Nam hiện nay đã thúc đẩy học viên
chọn đề tài làm công trình luận văn thạc sỹ của mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
n n
Tìn
n
u ngoài nướ : Có nhiều tác giả với nhiều tác phẩm
phân tích về vai trò của khoa học, kỹ thuật, công nghệ trong đời sống xã hội.
Trong khuôn khổ luận văn chúng tôi chỉ nêu ra ý kiến của những tác giả tiêu
biểu nhất là Ph.Bêcơn, C.Mác, Ph. Ăngghen và Alvin Toffler.
Trong các tác phẩm của tác giả Ph.Bêcơn, tiêu biểu là hai tác phẩm nổi
tiếng“New Or anon” và “New Atlant s”. Trong tác phẩm “New or anon”
ông đặt ra nhiệm vụ mới cho triết học và khoa học là xây dựng phương pháp
nhận thức mới và cải cách khoa học theo hướng đó. “New Atlant s”, tác phẩm
được Ph.Bêcơn viết vào năm 1962 trước khi ông qua đời với nội dung là sự
vận dụng khoa học vào việc tạo ra những phương tiện hữu ích phục vụ cho
cuộc sống trần gian của con người. ng hình dung về một xã hội lý tưởng biết
vận dụng khoa học vào quản lý xã hội và làm giàu cho cư dân, con người trở
nên minh mẫn về trí tuệ, xây dựng nên cho mình vương quốc thịnh vượng.
Một số tác phẩm tiêu biểu của C. Mác và Ph. Ăngghen đề cập đến
phân loại, vai trò của khoa học đối với lực lượng sản xuất. Trong tác phẩm
“
n
n
at n
n”, Ph. Ăngghen đã nêu lên nguyên tắc d ng làm cơ
sở để phân loại các ngành khoa học là dựa trên các hình thức vận động, đồng
4
thời ông cũng khẳng định thực tiễn sản xuất, đấu tranh xã hội là nguồn gốc,
mục đích, động lực của khoa học. Bộ “ ư ản” tác phẩm chính của C.Mác
thể hiện những phát hiện về quy luật vận động của xã hội, tìm ra động lực,
khuynh hướng của sự vận động ấy. Đặc biệt ông đi đến dự báo thiên tài là
khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Đến thế k XIX chủ ngh a
tư bản bằng nhịp độ phát triển nhanh chóng của mình đã đem tri thức khoa
học từ phòng thí nghiệm đến các l nh vực của hoạt động thực tiễn, khoa học
thể hiện ra như một lực lượng sản xuất thông qua con người, thông qua lao
động của con người. Luận điểm về vai trò khoa học trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp của chủ ngh a Mác sẽ còn được xem xét kỹ lưỡng hơn trong
chương I của luận văn.
Tác giả tiêu biểu nữa là Alvin Toffler trong hai tác phẩm “Làn sóng
t
a” và “
quyền l
ăn trầm quyền l
”. Cụ thể trong tác phẩm “
ăn trầm
”, ông khẳng định tri thức là sức mạnh, là quyền lực của tương lai,
là thứ lấy không bao giờ hết, d ng không bao giờ cạn và là quyền lực dân
chủ nhất. Trong tác phẩm“Làn són t
a” ông cho rằng những thay đổi
nhanh chóng của thế giới hiện thời không phải là hỗn loạn và ngẫu nhiên mà
là một quá trình biến đổi từ nền văn minh này sang nền văn minh khác. Lịch
sử nhân loại tiếp nối nhau qua ba làn sóng văn minh nông nghiệp, văn minh
công nghiệp và hậu công nghiệp mà tọa độ của nó là do những thành tựu của
khoa học và công nghệ.
Ngoài ra, có thể đề cập tới hai tác phẩm của hai tác giả Konrad Seitz và
Claude Alleegre dự báo về sự biến đổi xã hội do khoa học mang lại trong thế
k XXI.
Tác giả Konrad Seitz thông qua tác phẩm “Cuộ
ạy đua vào t ế kỷ
XXI” ông đã khẳng định vai trò của khoa học và công nghệ là sức mạnh của
các quốc gia để tiến vào thế k XXI.
5
Tác giả Claude Alleegre trong công trình “
oa
t
t
at ế
kỷ XXI Đào Bá Cung dịch đã khẳng định những tiến bộ khoa học trong thế
k XXI sẽ còn to lớn hơn trong quá khứ với khoa học liên quan đến sự sống,
Trái Đất, con người, bộ não; khoa học làm thay đổi cuộc sống hàng ngày, làm
đảo lộn hiểu biết và niềm tin của con người.
n
n n
n
u tron nướ
Nghiên cứu về các vấn đề liên quan đến đề tài rất phong phú, có thể
tạm chia thành ba mảng nghiên cứu chính như sau:
n
t,
trở t àn l
n ều
ôn tr n n
lượng sản xu t tr
ểu k
t ốn n
t k oa
n au tuy n
n
u về luận đ ểm
a C.M
t ếp”. Vớ luận đ ểm này ó t ể ây n n
n ầu ết
n àn
n
u đều đ đến
ản t ân nó là một yếu tố t n t ần, n ưn k
dụn vào sản xu t để tạo ra ôn
“k oa
đượ
p
ụ lao độn năn su t ao, t âm n ập và
làm t ay đổ yếu tố đố tượn lao độn và n ườ lao độn tron sản xu t t
nó đượ
ểu là trở t àn l
ỉ rõ n ữn
t àn l
ểu
n mà òn
lượn sản xu t tr
l
lượn sản xu t tr
l
lượn sản xu t.
lượn sản xu t tr
t ếp t
t
ỉ ra t ờ đ ểm tron lị
t ếp và k ẳn địn dù k oa
con ngườ vẫn
Cụ thể tác giả Lê Huy Thực với bài viết:
sản xu t tr
t ếp.C
ả k ôn
sử k oa
trở
ó trở t àn
ữ vị trí quan tr n n
oa
ỉ
trở t àn l
t tron
lượn
t ếp đăng trên Tạp chí triết học, số 2 năm 2003 tác giả đã tổng
hợp và rút ra ba ý kiến khác nhau trong giới hạn nghiên cứu, giảng dạy lý luận
ở nước ta hiện nay. Thứ nhất, khẳng định khoa học đã trở thành lực lượng sản
xuất trực tiếp. Thứ hai, nhận định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất
trực tiếp và cho rằng C. Mác đã dự báo điều này. Thứ ba, phản bác lại nhận
định khoa học đang trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp và cho rằng C. Mác
không dự báo như vậy.
6
Tác giả Nguyễn Cảnh Hồ với bài viết: Về mố quan
và l
lượn sản xu t tr
ữa k oa
t ếp đăng trên Tạp chí triết học, số 7 146 , tháng
7- 2003 đã phân tích hai góc độ nhìn nhận về khoa học. Khoa học là tri thức
là một yếu tố tinh thần, không phải là lực lượng sản xuất trực tiếp. Chỉ có sự
ứng dụng khoa học của con người mới có thể tác động lên lực lượng sản xuất
trực tiếp để làm cho nó phát triển, đặc biệt là thông qua việc chế tạo công cụ
lao động và tri thức trở thành kỹ năng lao động của con người. Từ đó tác giả
cho rằng có thể nói khoa học hoặc là hoặc không là lực lượng sản xuất đều
được.
Tác giả Phạm Thị Ngọc Trầm với bài viết Luận đ ểm khoa
t àn l
t
lượn sản xu t tr
ở V t Nam
t ếp
a C. M
và v n đề p
trở
t tr ển k n tế tr
n nay đăng trên Tạp chí triết học số 8 207), 2008 đã trình
bày về những điều kiện để khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là
khi sản xuất ở trình độ cao, khoa học kỹ thuật phát triển đủ sức giải quyết
những vấn đề do thực tiễn đặt ra, quá trình toàn cầu hóa và sự phát triển của
công nghệ thông tin là điều kiện thứ ba để khoa học ứng dụng vào sản xuất ở
nhiều nước. Biểu hiện khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp là khoa
học tham gia vào việc tạo ra công cụ lao động mới, trở thành kỹ năng của
người lao động đồng thời khoa học cũng tác động đến quan hệ sản xuất như
quản lý tổ chức, phân phối sản phẩm.
Tác giả Trần Đắc Hiến trong bài viết: Luận đ ểm k oa
l
lượn sản xu t tr
t ếp
a C. M
trở t àn
và s vận dụn ở nướ ta
n nay
đăng trên Tạp chí triết học số 236, 2011 cho rằng khoa học - công nghệ và
sản xuất đang có xu hướng nhất thể hóa ngh a là khẳng định khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp và đó là một đặc điểm của thời đại ngày
nay. Cho đến đầu thế k XIX khoa học vẫn chỉ đóng vai trò gián tiếp trong
qua trình sản xuất. Khoa học chỉ trở thành lực lượng sản xuất khi được con
7
người ứng dụng trong sản xuất, được vật chất hóa thành công cụ sản xuất và
được con người sử dụng trong lao động để tạo ra của cải vật chất, ngh a là khi
xuất hiện một dạng nghiên cứu mới là nghiên cứu sản xuất. Nghiên cứu sản
xuất diễn ra mạnh mẽ hơn với việc chuyển sang kinh tế tri thức hiện nay. Trên
cơ sở đó, tác giả đưa ra một số giải pháp để phát huy hiệu quả của khoa học
và công nghệ đối với sự phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện nay.
C ng nội dung này là bài viết “ Để k oa
sản xu t tr
n an
ón trở t àn l
lượn
t ếp ở nướ ta” của tác giả Hồ Anh Dũng, đăng trên Tạp chí
triết học, số 2, tháng 6 năm 1994. Trong bài viết này, tác giả khẳng định khoa
học trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp vào những năm 50 của thế k XX
khi khoa học gắn liền với kỹ thuật và công nghệ. Khoa học với tính cách là
một hình thái ý thức xã hội phải thông qua hoạt động của con người mới trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Để khoa học nhanh chóng trở thành lực
lượng sản xuất trực tiếp ở nước ta phải đặt lên hàng đầu nghiên cứu ứng dụng,
ưu tiên các công nghệ cao, phát triển giáo dục và đào tạo nhân tài.
Tác giả Phương Kỳ Sơn với bài viết: Con n ườ và k oa
tron l
lượn sản xu t
ôn n
n nay đăng trên Tạp chí khoa học xã hội số 3 49
năm 2001 đã khẳng định khoa học và công nghệ tham gia ngày càng nhiều
vào các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất nhưng phải xem lại vai trò của
yếu tố con người trong lực lượng sản xuất. C ng nội dung này là tác giả Hồ
Anh Dũng với bài viết: Cuộ
yếu tố on n ườ tron l
mạn k oa
kỹ t uật
n đạ và v n đề
lượn sản xu t, triết học số 1, 1993 tác giả khẳng
định mặc d khoa học, kỹ thuật, công nghệ tác động rất lớn vào sự phát triển
của lực lượng sản xuất nhưng lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn nhân loại
là người công nhân, yếu tố quyết định nhất trong lực lượng sản xuất là yếu tố
con người.
8
a , mản n
, kỹ t uật, ôn n
t u
n
u về va trò và t
tron đờ sốn x
ộ nó
độn k
un
n au
a k oa
ó n ều ôn tr n
ểu n ư sau:
Đầu tiên có thể kể đến Luận án tiến sỹ triết học của Lê Thị Huyền:
Quan đ ểm
a P ranx
tr ển k n tế tr t
n về va trò
a tr t
k oa
và v n đề p
t
tron t ờ đạ n ày nay, thành phố Hồ Chí Minh,
2012.Trong luận án này, qua việc phân tích các tác phẩm của Ph.Bêcơn tác
giả rút ra qua điểm của Phranxi Bêcơn về vai trò của tri thức khoa học trong
đời sống xã hội. Tri thức khoa học đóng vai trò hàng đầu trong việc phát triển
lực lượng sản xuất, thúc đẩy nhanh nhịp độ của tiến bộ xã hội, trở thành một
thiết chế xã hội.
Tác giả Huỳnh Ngọc Nhân với bài viết C
và n ữn
đạ
ến đổ tron kết
u vật
t k n tế x
mạn k oa
ộ
ôn n
a nền văn m n
n
được đăng trên Tạp chí những vấn đề kinh tế thế giới, số 4 24 , tháng
8/1993. Trong bài viết này, tác giả phân tích tác động đa dạng của cách mạng
khoa học công nghệ đối với các l nh vực trong đời sống xã hội những năm 90,
như biến đổi trong cơ sở vật chất kỹ thuật của nền sản xuất xã hội, thay đổi cơ
cấu ngành kinh tế, cơ cấu lao động theo ngành nghề, lao động của con người
trở nên đắt đỏ, giá trị con người trong xã hội được đề cao.
Tác giả Hoàng Đình Phu trong công trình nghiên cứu
ngh vớ
oa
và ôn
trị văn óa (Nxb Khoa học kỹ thuật, hà Nội, 1998) trình bày
khái quát về lịch sử khoa học và kỹ thuật trên thế giới, ý ngh a kinh tế xã hội
của cách mạng khoa học và công nghệ, tác động của khoa học và công nghệ
đối với văn hóa, triết học, đạo đức, nghệ thuật, lối sống và tính định hướng
của văn hóa đối với sự phát triển của khoa học và công nghệ.
Tác giả Nguyễn Nữ Thánh Tâm trong công trình luận văn thạc sỹ triết
học
p
t tr ển
a k oa
ôn n
và ản
ưởn
a nó đố vớ đạo
9
đ
x
ộ V t Nam
n nay,(thành phố Hồ Chí Minh, 2011) trình bày về
ảnh hưởng của khoa học đến nhiều mặt đời sống xã hội như kinh tế, y học,
văn học,.. trong đó tập trung phân tích về sự phát triển của khoa học và công
nghệ đối với đạo đức xã hội ở Việt Nam hiện nay như xã hội chạy theo đồng
tiền, nghiện game online…
Tác giả Vũ Đình Cự với công trình
oa
và ôn n
l
lượn
sản xu t àn đầu (Nxb Chính trị quốc gia, hà Nội, 1996) khẳng định vai trò
nền tảng của khoa học và công nghệ trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, mối
quan hệ chặt chẽ giữa khoa học, công nghệ và sản xuất hàng hóa.
Trong các Nghị quyết của Đảng Cộng sản Việt Nam từ đại hội Đảng
III đến nay đều xác định vai trò quan trọng của khoa học, kỹ thuật, công
nghệ trong sự phát triển đất nước. Tiêu biểu là Nghị quyết 26- NQ/TW ngày
30 tháng 3 năm 1991 của Bộ Chính trị khẳng định khoa học là công cụ đắc
lực đổi mới, quản lý đất nước, đưa trình độ lực lượng sản xuất lên bước phát
triển mới. Đại hội VII khẳng định khoa học và công nghệ giữ vai trò then
chốt trong sự phát triển lực lượng sản xuất. Đại hội Đảng lần thứ VIII chủ
trương phát triển các công nghệ cao ở Việt Nam, đặc biệt Nghị quyết 01NQ/HNTW ngày 24 tháng 12 năm 1996 khẳng định khoa học và công nghệ
phải trở thành nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa hiện đại hóa đất
nước. Gần đây Nghị quyết Trung ương 6 Đại hội XI về phát triển khoa học
và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa trong điều
kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ ngh a và hội nhập quốc tế đã
khái quát về thực trạng, nguyên nhân phát triển khoa học và công nghệ ở
Việt Nam hiện nay, định hướng phát triển khoa học và công nghệ đến năm
2020.
Qua n ều ôn tr n n
t
y
t
ả đ p ân tí
t
n
độn
u
a n ều t
a k oa
ả,
ún ta ó t ể
tron n ều lĩn v
đờ
10
sốn x
ộ n ư làm t ay đổ
t ến ộ
ax
ũn
u n àn k n tế, t ú đẩy n an n ịp độ
ộ , làm t ay đổ lố sốn quan đ ểm
ây n n n ữn t
độn t u
đố vớ đạo đ
t eo đồn t ền, s t ờ , ạo l
n
đố vớ l
x
ộ n ưx
a tăn ... Va trò
a k oa
ộ
ạy
và ôn
lượn sản xu t đượ đề ập n ều về mặt lý luận.
a, nhóm công trình về t
Nam
a on n ườ , đồn t ờ
trạn p
t tr ển
a k oa
ởV t
n nay
Trong mảng này gồm các công trình đáng lưu ý là tổng kết của Bộ
khoa học công nghệ Việt Nam. Cụ thể là các công trình:
n
V t Nam 1996-2000, Nxb Hà Nội, 2001;
Nam 2001, Nxb Hà Nội, 2002;
Hà Nội, 2003;
oa
Gần đây nhất là cuốn
đạ
óa và p
oa
và ôn n
oa
oa
và ôn n
V t Nam
và ôn n
oa
và ôn
và ôn n
V t Nam
V t
2, Nxb
, Nxb Hà Nội, 2005.
p ụ vụ ôn n
p óa,
n
t tr ển ền vữn , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012 tổng
kết chi tiết về các thành tựu của khoa học và công nghệ Việt Nam từ 2005 –
2011 trên các phương diện cơ bản như về nhân lực khoa học và công nghệ,
các tổ chức khoa học và công nghệ ở Việt Nam, các thành tựu đạt được
trong khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, thành tựu đạt được trong ứng
dụng khoa học vào sản xuất nông nghiệp, công nghiệp, thủy sản, tự động
hóa, y học...
Ngoài ra còn nhiều công trình của Bộ khoa học và công nghệ Việt Nam
khái quát về thực trạng phát triển khoa học và công nghệ trên thế giới hiện
nay, chính sách của các nước trong đẩy mạnh khoa học và công nghệ. Và
nhiều công trình, bài viết của các nhà nghiên cứu trong nước trình bày về một
giải pháp nào đó để phát triển khoa học và công nghệ ở Việt Nam hiện nay
như về đổi mới cơ chế quản ý khoa học và công nghệ, về nguồn vốn đầu tư,
về đổi mới giáo dục đào tạo…
11
Mặc dù các công trình nghiên cứu về vai trò của khoa học đối với các
l nh vực khác nhau của đời sống xã hội rất phong phú như đã trình bày ở trên,
nhưng chưa có đề tài nào đi sâu nghiên cứu vai trò của khoa học và công nghệ
đối với sự phát triển của lực lượng sản xuất ở Việt Nam hiện nay, vì vậy tác
giả chọn đề tài “Vai trò c a khoa h c và công ngh đối với s phát triển
l
a
lượng sản xu t ở Vi t Nam hi n nay” làm công trình luận văn của mình.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận văn
Mụ đí
a luận văn
Trình bày quan điểm của chủ ngh a Mác về vai trò của khoa học trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp.
Tìm hiểu thực trạng khoa học và công nghệ Việt Nam và đóng góp của
nó đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Tìm ra một số giải pháp chính để khoa học và công nghệ Việt Nam
phát triển hơn nữa trong thời gian tới.
Đề hoàn thành mụ đí
đ đề ra, luận văn tập trung giải quyết những
nhi m vụ ch yếu sau:
Th nh t, phân tích và làm rõ các khái niệm: khoa học, công nghệ, lực
lượng sản xuất và các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất; trình bày quan
điểm của chủ ngh a Mác – Lênin về vai trò của khoa học trong lực lượng sản
xuất, tìm hiểu về nhận định của Đảng cộng sản Việt Nam về vai trò của khoa
học và công nghệ đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Th hai, phân tích thực trạng phát triển khoa học và công nghệ ở Việt
Nam hiện nay và vai trò của nó đối với sự phát triển lực lượng sản xuất, tìm
hiểu về những hạn chế đối với sự phát triển khoa học và công nghệ ở Việt
Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên c u c a luận văn
Tác giả tập trung làm rõ luận điểm về vai trò của khoa học trong lực
12
lượng sản xuất của chủ ngh a Mác, sự tiếp nối trong quan điểm của Đảng
cộng sản Việt Nam về vai trò của khoa học và công nghệ qua các nghị quyết
của Đảng chủ yếu trong thời kỳ đổi mới đất nước từ Đại hội Đảng lần thứ VI
tới nay. Phần phân tích thực trạng phát triển khoa học và công nghệ ở Việt
Nam và vai trò của nó trong lực lượng sản xuất được thực hiện trong phạm vi
những số liệu chủ yếu trong 10 năm trở lại đây.
4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu của luận văn
Về
sở lý luận, luận văn được thực hiện dựa trên quan điểm của chủ
ngh a Mác – Lênin, quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về khoa học và
công nghệ đối với sự phát triển lực lượng sản xuất.
Về p ư n p
pn
n c u, tác giả luận văn sử dụng phương pháp
luận của chủ ngh a duy vật biện chứng và chủ ngh a duy vật lịch sử của triết
học Mác – Lênin đồng thời kết hợp sử dụng một số phương pháp nghien cứu
của các khoa học cụ thể khác như: lịch sử và lôgíc, phân tích – tổng hợp,
thống kê, diễn dịch – quy nạp, so sánh và khái quát hóa… trong quá trình thực
hiện đề tài luận văn.
5.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn góp phần khẳng định lý luận khoa học và cách mạng của Chủ
ngh a Mác – Lênin về hình thái kinh tế xã hội, cụ thể quan điểm coi khoa học
và công nghệ với tư cách là yếu tố trong lực lượng sản xuất. Luận văn góp
phần trình bày quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về khoa học và công
nghệ qua các nghị quyết Đại hội Đảng, cũng như khái quát về thực trạng khoa
học và công nghệ ở Việt Nam và tác động của nó trong lực lượng sản xuất,
xây dựng một số kiến nghị giải pháp để phát triển khoa học và công nghệ ở
Việt Nam trong thời gian tới.
Vì vậy kết quả của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo, nhất
là sinh viên chuyên ngành triết học, để góp phần nhìn nhận đánh giá đúng
13
đắn, khoa học về vị trí, vai trò, sự tác động của khoa học và công nghệ trong
sản xuất và đời sống, cũng như nhìn nhận khái quát về sự phát triển khoa học
và công nghệ ở Việt Nam hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
chính của luận văn được kết cấu gồm 2 chương, 5 tiết.
14
Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ
VÀ LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
1.1. KHÁI NIỆM KHOA HỌC, CÔNG NGHỆ VÀ LỰC LƢỢNG SẢN XUẤT
1.1.1 Khái niệ
h a học và khái niệm c ng nghệ
Theo nghiên cứu của Vũ Cao Đàm trong giáo trình sau đại học: Khoa
học và Công nghệ luận, trường đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội
thì từ “khoa học” bắt nguồn từ tiếng Pháp cổ có nguồn gốc Latin là Scientina
có ngh a là sự hiểu biết, trong đó gốc của Scio có ngh a là “ Tôi hiểu”. Trong
các ngôn ngữ khác như tiếng Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha và Ý thì từ
tương ứng với từ khoa học cũng mang ý ngh a này.
Theo Ph. Bêcơn (1561 - 1621 là một nhà triết học v đại thời cận đại,
ông hiểu từ khoa học theo ngh a rộng bao quát toàn bộ khả năng của con
người. Các khả năng ấy gồm ba nhóm: ký ức, tưởng tượng, lý trí và tương
ứng với chúng là ba l nh vực: lịch sử, thơ ca và triết học. Bộ môn lịch sử và
các dạng nghệ thuật dựa vào khả năng trí nhớ hay biểu tượng của con người.
Triết học là khoa học mang tính lý luận khái quát trí tuệ cao nhất.
Theo các nhà kinh điển của chủ ngh a Mác – Lênin, khoa học, kỹ
thuật, công nghệ bắt nguồn từ thực tiễn sản xuất, từ đấu tranh xã hội, từ nhu
cầu khám phá và cải tạo thế giới, thực tiễn chính là nguồn động lực thúc đẩy
sự phát triển của khoa học. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”, Ph.
Ăngghen nhận định: “Nếu trong xã hội xuất hiện một nhu cầu kỹ thuật thì
điều đó sẽ thúc đẩy khoa học tiến lên nhiều hơn một chục trường đại học”
[25, tr.271]
15
Nhiệm vụ của khoa học là đi tìm chân lý khách quan, khám phá bản
chất của chính sự vật, chỉ ra những thuộc tính, những mối liên hệ bên trong
của sự vật, cung cấp bức tranh chân thực về thế giới.
Về phân loại khoa học, Ph.Ăngghen nêu lên nguyên tắc d ng làm cơ sở
để phân loại các ngành khoa học là căn cứ vào các hình thái vận động của thế
giới vật chất gồm vận động cơ học, vận động vật lý, vận động hóa học, vận
động sinh học, vận động xã hội. Trong tác phẩm “Biện chứng của tự nhiên”,
Ph.Ăngghen chỉ rõ “Sự phân loại các khoa học, theo đó mỗi ngành khoa học
nghiên cứu một hình thức vận động riêng biệt hoặc một loạt những hình thức
vận động liên quan với nhau và chuyển hoá lẫn nhau, do đó, là sự phân loại, sự
sắp xếp của bản thân các hình thức vận động đó theo thứ tự vốn có của chúng,
và tầm quan trọng của việc phân loại ấy là ở chỗ đó” [25, tr.744 ]
Cũng theo quan điểm của các nhà kinh điển của chủ ngh a Mác –
Lênin, thì tri thức là kết quả của quá trình con người nhận thức thế giới, là sự
phản ánh thế giới khách quan với tính cách là sản phẩm lao động và tư duy
của con người. Tri thức được thể hiện dưới nhiều góc độ khác nhau: cảm tính,
lý tính, kinh nghiệm, lý luận, tri thức khoa học.
Sự phân biệt giữa tri thức kinh nghiệm và tri thức khoa học cho chúng
ta hiểu rõ hơn về bản chất của khoa học.Tri thức kinh nghiệm là những hiểu
biết được tích lũy trong đời sống hàng ngày thông qua quá trình con người tác
động cải tạo thế giới khách quan và chỉ dừng ở mức độ phục vụ cuộc sống mà
chưa đi sâu vào tìm hiểu bản chất của sự vật, hiện tượng. Còn tri thức khoa
học là những hiểu biết được tích lũy một cách có hệ thống, có mục tiêu và
được tiến hành dựa trên các phương pháp khoa học. Tri thức khoa học có thể
phát triển từ tri thức kinh nghiệm nhưng không phải sự kế tục đơn giản mà là
sự tổng kết những sự kiện ngẫu nhiên, rời rạc để khái quát hóa thành cơ sở lý
thuyết về mối liên hê, bản chất, là những kết luận về quy luật tất yếu đã được
16
khảo nghiệm, kiểm chứng dựa trên các luận cứ lý thuyết, quan sát hoặc thực
nghiệm. Tri thức khoa học không chỉ dừng ở việc phát hiện ra các sự vật, hiện
tượng mà còn giải thích bằng các giả thuyết, cơ sở lý thuyết đã có hoặc đề ra
cơ sở lý thuyết mới.
Với tính chất đúng đắn của tri thức khoa học là dựa vào lý trí và được
thực tiễn kiểm nghiệm, tri thức khoa học giữ vai trò quan trọng trong nhận
thức hiện thực và định hướng cho hoạt động của con người. Như vậy kết quả
của hoạt động khoa học bao gồm hoạt động nhận thức kết hợp với sự kiểm
nghiệm của thực tiễn là tri thức khoa học, tri thức khoa học có vai trò quan
trọng cho các hoạt động khác nhau của con người.
Cũng theo quan điểm của chủ ngh a Mác - Lênin, khoa học với tư cách
là một hệ thống chỉnh thể các khái niệm, quy luật, phạm tr có liên hệ nội tại
với nhau được nhìn nhận là một hình thái ý thức xã hội tồn tại bên cạnh các
hình thức ý thức xã hội khác như chính trị, pháp quyền, tôn giáo, đạo đức;
được nảy sinh trên cơ sở tồn tại xã hội và nó mang tính chân thực. Tính chân
thực này được chứng minh không chỉ bằng việc vận dụng vào thực tiễn mà
khoa học còn tạo ra phương thức chứng minh riêng của mình ph hợp với đối
tượng nghiên cứu của các khoa học cụ thể khác nhau.
Ngoài việc chỉ ra nguồn gốc, nhiệm vụ, phân loại các ngành khoa học,
các nhà kinh điển của chủ ngh a Mác – Lênin nhìn nhận khoa học với tư
cách ngày càng trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, là một động lực cho
sự phát triển xã hội. Luận điểm này tác giả trình bày rõ hơn ở phần tiếp
theo.
Theo Từ điển Triết học năm 1986 của Rodentan: “Khoa học là l nh vực
hoạt động nghiên cứu nhằm mục đích sản xuất ra những tri thức mới về tự
nhiên, xã hội và tư duy và bao gồm tất cả những điều kiện, những yếu tố của
sự sản xuất những nhà khoa học với những tri thức và những năng lực, trình
- Xem thêm -