Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Vai trò của hệ thống chính trị tại huyện hóc môn, thành phố hồ chí minh...

Tài liệu Vai trò của hệ thống chính trị tại huyện hóc môn, thành phố hồ chí minh

.PDF
84
21
79

Mô tả:

LỜI CẢM ƠN Lời đầu tiên Tác giả xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới GS.TS. Lê Thanh Thập - người hướng dẫn khoa học đã tận tâm, nhiệt tình, chỉ bảo hướng dẫn tác giả trong suốt quá trình xây dựng và hoàn thành luận văn. Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Quý thầy cô trong Khoa Triết học Học Viện khoa học xã hội, các đồng chí đang công tác tại Ủy ban nhân dân huyện Hóc Môn đã cung cấp tư liệu và góp phần hướng dẫn tác giả tìm hiểu về Vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn. Đồng thời, Tác giả cũng xin bày tỏ lòng biết ơn đến những người thân trong gia đình, bạn bè, đồng nghiệp đã động viên, ủng hộ, giúp đỡ tác giả trong suốt quá trình học tập và thực hiện đề tài. Xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 15 tháng 03 năm 2018 Tác giả luận văn Nguyễn Quang Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 Chương 1. LÝ LUẬN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN 1.1. Lý luận chung về hệ thống chính trị nước ta .......................................................... 7 1.2. Lý luận chung về hệ thống chính trị cấp huyện ................................................. 15 1.3. Nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cấp Huyện trong giai đoạn hiện nay. .. 26 Chương 2. THỰC TRẠNG VAI TRÒ CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TẠI HUYỆN HÓC MÔN, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH ............................................................ 38 2.1 Đặc điểm tự nhiên - xã hội của huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh ........ 38 2.2 Đặc điểm hệ thống chính trị huyện Hóc Môn. .................................................... 39 2.3 Thực trạng vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn đối với sự phát triển của huyện. ................................................................................................................. 41 2.4 Nguyên nhân của những thành tựu và hạn chế trên ............................................ 55 2.5 Một số yêu cầu đặt ra đối với hệ thống chính trị huyện Hóc Môn ..................... 59 Chương .3 QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ TẠI HUYỆN HÓC MÔN,THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH HIỆN NAY ............................................................................................ 62 3.1. Quan điểm cơ bản nhằm nâng cao vai trò hệ thống chính trị tạihuyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay ............................................................................ 62 3.2. Những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của hệ thống chính trị tại huyệnHóc Môn, thành phố hồ chí minh hiện nay ..................................................... 66 3.2.5. Thực hiện quy chế dân chủ, tăng cường sự kiểm tra giám sát của nhân dân ...... 73 KẾT LUẬN ............................................................................................................... 78 DANH MỤC TÀI LIỆU MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của chủ thể giai cấp cầm quyền. Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp, hoạt động trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức làm nền tảng, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của Nhân dân. Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân, vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tư tưởng được phát huy… Tuy vậy hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị - xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Trong các cấp của hệ thống chính trị có thể thấy vị trí của hệ thống chính trị cấp huyện là rất quan trọng, bởi cấp huyện là cấp gần với cơ sở nhất, là cầu nối đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luâ ̣t của Nhà nước vào thực tiễn. Thực tế , trong những năm qua hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đóng góp rất quan trọng vào thắng lợi của sự nghiệp đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, tuy nhiên bên cạnh những đóng góp đó vẫn còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong hoạt động của hệ thống chính trị cấp huyện, trong công tác lãnh đạo, quản lý, tổ chức. Tình trạng quan liêu, tham nhũng, mất đoàn kết nội bộ còn diễn ra ở mô ̣t số nơi. Vì vậy, viê ̣c nâng cao vai trò 1 của hệ thống chính trị đang là vấn đề bức thiết đối với nước ta trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay. Huyện Hóc Môn là huyện ngoại thành của TP Hồ Chí Minh, có diện tích tự nhiên: 10.943,4ha gồm 11 xã, 01 thị trấn với 87 ấp – khu phố, 1.430 tổ nhân dân – tổ dân phố. Toàn huyện có 85.826 hộ dân với 421.578 nhân khẩu (tính đến 30/6/2015); ngoài ra có khoảng 52.000 nhân khẩu lưu trú không thường xuyên. Đời sống của người dân trên huyện còn nhiều khó khăn. Đặc thù trên đòi hỏi các cấp ủy đảng và chính quyền của huyện cần đặc biệt quan tâm đến xây dựng, củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị. Mục tiêu là tăng cường khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh của huyện để từng bước nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, đảm bảo quốc phòng - an ninh, xây dựng cuộc sống văn minh, góp phần vào sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội của đất nước. Để thực hiện nhiệm vụ đó, giải pháp đầu tiên có ý nghĩa quyết định nhất là cần phải kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị huyện. Những năm qua, dưới sự lãnh đạo của Ban Chấp hành Đảng bộ huyện, việc kiện toàn hệ thống chính trị huyện đã đạt được nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống chính trị huyện đã được kiện toàn theo hướng gần dân, vì dân hơn; phương pháp công tác và phương thức lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ được đổi mới. Năng lực chỉ đạo, điều hành và quản lý của chính quyền có nhiều tiến bộ, hiệu lực, hiệu quả được nâng lên; Cải cách hành chính; phòng, chống tham nhũng; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí ở huyện Hóc Môn giai đoạn 2011 – 2015 gắn với mục tiêu xây dựng chính quyền đô thị của Thành ủy bước đầu có chuyển biến tích cực. Hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục được đổi mới cả về nội dung lẫn phương thức, bảo đảm thiết thực và hiệu quả hơn. Nội bộ cấp uỷ đoàn kết, thống nhất, sự đồng thuận trong Đảng, chính quyền và Nhân dân ngày càng tăng. 2 Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu nói trên, hệ thống chính trị huyện Hóc Môn vẫn đứng trước những khó khăn, thách thức không nhỏ: Tình trạng quan liêu, cục bộ, mất đoàn kết nội bộ xảy ra ở một số nơi. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ thống chính trị cơ sở chưa được xác định rành mạch, trách nhiệm không rõ; nội dung và phương thức hoạt động chậm đổi mới; đội ngũ cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng và vẫn còn một số cán bộ, công chức chưa hướng dẫn tận tình, còn gây phiền hà khi tiếp xúc, giải quyết hồ sơ hành chính cho nhân dân và doanh nghiệp; còn một số cán bộ công chức bị kiểm điểm, xử lý kỷ luật.Trong khi đó, các thế lực thù địch tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược “Diễn biến hòa bình”, triệt để lợi dụng các vấn đề dân tộc, tôn giáo, những khó khăn trong đời sống của nhân dân và những hạn chế, yếu kém của hệ thống chính trị để nói xấu Đảng, Nhà nước, hòng làm mất lòng tin của nhân dân vào chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Để góp phầ n khắ c phu ̣c những ha ̣n chế , củng cố và hoàn thiê ̣n nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cấ p huyê ̣n ở điạ phương min ̀ h, tôi chọn:“Vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh” làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Chính trị học. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Xuất phát từ vai trò hệ thống chính trị, việc nghiên cứu hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị cấp huyện nói riêng đã được nhiều tác giả quan tâm trên những bình diện khác nhau. Một số ấn phẩm có giá trị ở cả tầm lý luận và thực tiễn như: Đề tài KX.10.02 “Các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta giai đoạn 2005 - 2020”, do PGS.TS Trần Đình Hoan làm chủ nhiệm đã được nghiệm thu cấp nhà nước. Đề tài đã dựa trên cơ sở tổng kết lý luận và thực tiễn hơn 30 năm đổi mới đất nước, đã bước đầu phân tích và đánh giá tương quan giữa cải cách kinh tế và đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn vừa qua; phân tích sự cần thiết khách quan phải tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước; xác định rõ các mục tiêu cơ bản cần hướng tới, bảo đảm định 3 hướng đúng đắn cho quá trình đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị; Xây dựng và xác định được một hệ thống các quan điểm và nguyên tắc đổi mới hệ thống chính trị nước ta trong tình hình mới; Xác định được phương hướng, giải pháp chủ yếu để tiếp tục đổi mới, hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta trong giai đoạn phát triển tiếp theo của đất nước. Làm rõ thêm quan điểm của Đại hội IX: Xem công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt; xác định những phương hướng cơ bản nhằm xây dựng và kiện toàn bộ máy nhà nước. Đề tài KX - 05 “Hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta” là công trình nghiên cứu một cách tổng quát, đã nêu một cách khái quát thực trạng, những đặc trưng, quan điểm và nguyên tắc cơ bản về xây dựng hệ thống chính trị ở nước ta trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Nghiên cứu về hệ thống chính trị cấp cơ sở, cũng đã có một số công trình nghiên cứu, một số luận văn, luận án cũng như một số bài viết được đăng trên các tạp chí, tiêu biểu là cuốn sách: “Hệ thống chính trị ở cơ sở nông thôn nước ta hiện nay” do GS.TS Hoàng Chí Bảo làm chủ biên, Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2005. Kết quả của đề tài đã làm sáng tỏ và góp phần đưa nghị quyết Hội nghị Trung ương 5 khóa IX về “Đổi mới, nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn” vào cuộc sống. Công trình “Hệ thống chính trị cấp cơ sở và dân chủ hóa đời sống xã hội, nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số” do Nguyễn Quốc Phẩm chủ biên (2000), đã phân tích thực trạng hệ thống chính trị cấp cơ sở vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số thuộc các tỉnh miền núi phía Bắc nước ta. Công trình đã đánh giá các thành tựu, hạn chế và chỉ ra những nguyên nhân của nó; đồng thời đề xuất những phương hướng, giải pháp nhằm đổi mới hệ thống chính trị của khu vực này. Công trình “Một số vấn đề về xây dựng hệ thống chính trị ở Tây Nguyên”, do Phạm Hảo và Trương Minh Dục đồng chủ biên (2003), từ nghiên cứu hoạt động của hệ thống chính trị các cấp ở Tây Nguyên (nhất là cấp xã vùng đồng bào dân tộc thiểu số), 4 các tác giả đã đề ra một số phương hướng và giải pháp kiện toàn hệ thống chính trị ở Tây Nguyên, nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển của khu vực trong giai đoạn thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bài viết: “Phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, hoàn thành tốt các mục tiêu, kế hoạch đề ra” của Nguyễn Phú Trọng (Tạp chí Cộng sản, số 829/2011), bài viết đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội đất nước, nguyên nhân của những khó khăn, thách thức hiện nay và xu hướng phát triển trong thời gian tới. Từ đó, định hướng các giải pháp chủ yếu mà cả hệ thống chính trị phải đồng tâm hiệp lực lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhằm tạo sự chuyển biến thực sự trong việc đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, nâng cao chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, nhấn mạnh định hướng chính sách, biện pháp bảo đảm an ninh lương thực gắn với bảo vệ môi trường sinh thái, bảo đảm an ninh năng lượng và giữ vững ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội. Ngoài ra, một số công trình, luận văn, luận án, bài viết trên các tạp chí khoa học chuyên ngành cũng bàn về vấn đề này dưới nhiều hình thức và mức độ khác nhau như: “Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân” của Văn phòng Quốc hội (Nghiên cứu lập pháp, số 8/2001); “Hệ thống chính trị cơ sở vùng sâu, vùng xa và những vấn đề đặt ra cần được giải quyết” của Hồ Minh Đức (Dân vận, số 1 và 2/2002); “Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đối với việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân ở nước ta hiện nay” của Nguyễn Thị Hiền Oanh (Nxb Lý luận chính trị, H.2005); “Đổi mới nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây hiện nay”, luận văn triết học của tác giả Nguyễn Trọng Long(2007)… Ở Thành phố Hồ Chí Minh, chưa có một công trình nghiên cứu nào về hệ thống chính trị cấp huyện và cho tới nay chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu về vai trò của hệ thống chính trị ở một huyện cụ thể như huyện Hóc Môn, do vậy đề tài mà tác giả lựa chọn không trùng lặp với bất cứ một công trình, luận văn, luận án nào đã công bố và bảo vệ. Vì vậy, chúng tôi mạnh dạn nghiên cứu vấn đề trên trong khuôn khổ một 5 Luận văn Thạc sỹ chuyên ngành Chính trị học với hy vọng góp phần nhất định vào việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn cho việc đổi mới, nâng cao chất lượng hoạt động của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn 3.1.Mục đích Luận văn nghiên cứu vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn hiện nay, qua đó đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hệ thống đó. 3.2.Nhiệm vụ Hệ thống hoá quan niệm về vai trò của hệ thống chính trị. Phân tích thực trạng và những vấn đề đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay. Đề xuất một số quan điểm và giải pháp nhằm nâng cao vai trò của hệ thống chính tri tại ̣ huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn 4.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn nghiên cứu hệ thống chính trị và vai trò của hê ̣ thố ng chin ́ h tri ̣ tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 4.2.Phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu hệ thống chính trị và vai trò của hê ̣ thố ng chin ́ h tri ̣ tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2010 đế n nay. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn 5.1. Cơ sở lý luận 6 Luâ ̣n văn dựa trên quan điểm lý luâ ̣n của Chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng hệ thống chính trị; quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam trong việc đổi mới tổ chức, nội dung và phương hướng hoạt động của hệ thống chính trị. 5.2.Phương pháp nghiên cứu Quá trình nghiên cứu giải quyết những nội dung trong luận văn, tác giả sử dụng tổng hợp các phương pháp của phép biện chứng duy vật (như phân tích và tổng hợp, lịch sử và lô gic, hệ thống và cấu trúc…), các phương pháp điều tra xã hô ̣i ho ̣c, thống kê, so sánh, nghiên cứu văn bản, hê ̣ thố ng hóa, khái quát hóa… 6. Đóng góp mới về khoa học và ý nghỉa thực tiễn của luận văn 6.1. Đóng góp mới về khoa học: Mô ̣t là, làm rõ thực trạng vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Hai là, từ việc xác định rõ những vấn đề đang đặt ra trong hoạt động của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh, luận văn đề ra quan điểm và một số giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, thành phố Hồ Chí Minh nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển hiện nay. 6.2.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Mô ̣t là, thông qua nghiên cứu ở một địa bàn cụ thể, luận văn góp phần làm sáng tỏ đặc thù của hệ thống chính trị cấp Huyện và hệ thống chính trị huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh và đề xuất những giải pháp tiếp tục nâng cao vai trò của hệ thống chính trị cấp huyện. Hai là, luận văn có thể dùng làm tư liệu tham khảo cho lãnh đạo địa phương cũng như những ai quan tâm đến vấn đề này. 7 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương I: Hệ thống chính trị và hệ thống chính trị cấp huyện ở nước ta hiê ̣n nay. Chương II: Thực trạng vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. Chương III: Quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao vai trò của hệ thống chính trị tại huyện Hóc Môn, Thành phố Hồ Chí Minh. 8 Chương 1 LÝ LUẬN HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN 1.1. Lý luận chung về hệ thống chính trị nước ta 1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị Thuật ngữ "hệ thống chính trị" xuất hiện từ rất sớm trong lịch sử, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị và hệ thống chính trị là sản phẩm của quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp, là sản phẩm của một giai đoạn lịch sử nhất định. Khi nghiên cứu về thiết chế chính trị và cách thức tổ chức của một xã hội, C.Mác và Ph.Ăngghen đã tiếp cận khái niệm hệ thống chính trị như một chế độ chính trị theo tính hệ thống của nó và sử dụng những thuật ngữ tương đương như: "hệ thống cai trị", "hệ thống đẳng cấp chính trị","cơ cấu chính trị", "hình thức chính trị", "thiết chế xã hội và chính trị","cơ cấu chính quyền".v.v.. Kế thừa và phát triển những tư tưởng về dân chủ và hệ thống chính trị của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin tiếp tục hoàn thiện khái niệm dân chủ và hệ thống chính trị trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.Trên thực tế, V.I.Lênin chưa sử dụng khái niệm "hệ thống chính trị" trong các bài nói, bài viết của mình, nhưng ông thường dùng khái niệm "chuyên chính vô sản" để nghiên cứu về thiết chế chính trị của xã hội. Hệ thống chuyên chính vô sản theo quan niệm của V.I.Lênin bao gồm: Nhà nước của giai cấp công nhân, Đảng Cộng sản – chính đảng của giai cấp công nhân giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và các tổ chức quần chúng mà tiêu biểu là công đoàn. Như vậy, nếu xét theo nội hàm, những thuật ngữ mà C.Mác và Ph.Ăngghen đưa ra và được V.I.Lênin kế thừa, phát triển với thuật ngữ hệ thống chính trị hiện đại có liên quan chặt chẽ với nhau và được hiểu là những khái niê ̣m tương đồng. Đối với khoa học chính trị hiện đại, hệ thống chính trị là một phạm trù rất quan trọng, bởi vì nó tổng hợp những vấn đề của thực tiễn chính trị. Hơn nữa, những vấn đề đó không phải được xem xét rời rạc, lộn xộn, biệt lập mà là xem xét trong một chỉnh thể có tính hệ thống, có hình thái phát sinh, phát triển, có chủ thể, đối tượng, với các mối quan 9 hệ chức năng, theo những vị trí, vai trò nhất định; có "đầu vào" và "đầu ra"; có nội dung và hình thức, có hiện tượng và bản chất... Vì vậy, hiện nay quan niệm về hệ thống chính trị quan niê ̣m còn rất khác nhau, phụ thuộc vào khuynh hướng, trường phái chính trị học khác nhau. Trong mọi xã hội có giai cấp, đối kháng giai cấp, quyền lực của giai cấp cầm quyền được thực hiện bằng một hệ thống các thiết chế và tổ chức chính trị nhất định, đó là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức trong xã hội bao gồm các đảng chính trị, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội hợp pháp được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức nhằm tác động vào các quá trình của đời sống xã hội, để củng cố, duy trì và phát triển chế độ đương thời phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền. Như vậy, hệ thống chính trị gắn liền với sự phân chia giai cấp trong xã hội, nhưng giai cấp không phải là hiện tượng vĩnh hằng. Loài người đã và sẽ trải qua các thời kỳ khác nhau của xã hội: xã hội chưa có giai cấp và đối kháng giai cấp; xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp; và cuối cùng, lại trở về xã hội không có giai cấp và đối kháng giai cấp, nhưng ở một trình độ cao hơn. Từ một xã hội này chuyển sang một xã hội khác phải trải qua những thời kỳ quá độ khác nhau và để chuyển từ một xã hội có giai cấp và đối kháng giai cấp sang một xã hội không còn giai cấp và đối kháng giai cấp tất yếu phải trải qua một thời kỳ quá độ chính trị lâu dài - thời kỳ chuyên chính cách mạng của giai cấp vô sản, thời kỳ tồn tại hệ thống chính trị của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. 1. 1.2. Đặc điểm hệ thống chính trị ở nước ta hiê ̣n nay Hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay về mặt thành tố bao gồm: Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội. Các bộ phận này được kết nối với nhau theo những quan hệ, cơ chế và nguyên tắc vận hành nhất định, trong một môi trường văn hóa chính trị đặc thù. Trong đó, Đảng Cộng sản Việt Nam là hạt nhân của hệ thống chính trị, giữ vai trò lãnh đạo nhà nước và xã hội; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là trụ cột, là 10 trung tâm của hệ thống chính trị; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị xã hội là cơ sở chính trị của nhà nước và xã hội. Về mặt tổ chức bộ máy, hệ thống chính trị nước ta được tổ chức thành 4 cấp gắn liền với nền hành chính quốc gia: cấp Trung ương; cấp tỉnh, thành phố; cấp huyện, quận, thị xã và cấp xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức theo mô hình có đỉnh quyền lực. So với nhiều nước trên thế giới, ngay cả những nước có cùng mô hình hệ thống chính trị, thì hệ thống chính trị Việt Nam vẫn có những đặc điểm khác biệt. Những đặc điểm chủ yếu của hệ thống chính trị Việt Nam là: Một là, hệ thống chính trị ở Việt Nam là hệ thống chính trị nhất nguyên, chỉ do một Đảng Cộng sản lãnh đạo. Nó thể hiện ở chỗ, chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh được coi là nền tảng tư tưởng chung của cả hệ thống; chủ nghĩa xã hội là mục tiêu chung; không chấp nhận các khuynh hướng chính trị trái với chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trái với mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong hệ thống chính trị, Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là thành viên, nhưng đồng thời cũng giữ vai trò lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị. Sự lãnh đạo của Đảng đối với xã hội nói chung, hệ thống chính trị nói riêng xuất phát từ điều kiện cụ thể của nước ta như: truyền thống lịch sử; phẩm chất vốn có của Đảng; những thành tựu to lớn mà Đảng ta đem lại cho nhân dân trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Hai là, các tổ chức chính trị - xã hội do Đảng Cộng s ản thành lập, có lịch sử đấu tranh vẻ vang, có vai trò to lớn trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, bảo vệ và xây dựng đất nước. Các đoàn thể quần chúng luôn gắn mình với sự nghiệp cao cả của Đảng và lịch sử hào hùng của dân tộc, thể hiện rõ là các tổ chức quần chúng có chức năng xã hội gắn với đời sống của các tầng lớp nhân dân, vừa tổ chức nhân dân trực tiếp thực hiện quyền làm chủ; vừa giúp Đảng, Nhà nước trong việc tuyên truyền chủ trương, chính sách tới nhân dân, vừa truyền đạt tiếng nói, nguyện vọng của dân đến Đảng, Nhà nước. Với lịch sử lâu dài, vẻ vang, với vai trò to lớn qua các thời kỳ và kinh nghiệm tổ chức quần chúng, các đoàn thể này xứng đáng là chủ thể của hệ thống chính trị. 11 Ba là, hệ thống chính trị nước ta là hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa được xây dựng theo mô hình Xô viết, mặc dù đang trong quá trình đổi mới, hoàn thiện nhưng ảnh hưởng của chế độ tập trung quan liêu, bao cấp trong mô hình ấy đang còn khá nặng nề cả trong cách nghĩ, cách làm của đảng viên và nhân dân, cũng như trong tổ chức và thực thi quyền lực nhà nước. Bốn là, nền hành chính nhà nước, một bộ phận quan trọng của hệ thống chính trị còn rất non trẻ, lại hầu như không được kế thừa gì từ quá khứ (chế độ thực dân phong kiến), bị ảnh hưởng của mô hình tập trung quan liêu cao độ, nhưng phải thực hiện rất nhiều nhiệm vụ lịch sử mới mẻ và to lớn như: đưa nước ta từ một nước nông nghiệp lạc hậu, sản xuất nhỏ là chủ yếu đi lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, thực hiện công nghiệp hóa đồng thời với hiện đại hóa đất nước, xây dựng một nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân... Những đặc điểm này vừa quy định kết cấu, tổ chức, vận hành và các mối quan hệ, vừa cho thấy những khó khăn thách thức mà chúng ta phải giải quyết, vừa đặt ra những yêu cầu đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính trị ở nước ta khác với các hệ thống chính trị khác trên thế giới. 1.1.3. Vị trí, vai trò của hệ thống chính trị ở nước ta hiê ̣n nay Ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ thực hiện quyền làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của Nhân dân. 1.1.3.1 Vị trí, vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau: 12 Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện nhằ m hiê ̣n thực hóa Cương lĩnh, đường lối, chủ trương của Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua bô ̣ máy nhà nước và các đoàn thể quần chúng. Cương liñ h, đường lối, chủ trương của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá bằng pháp luật, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì thế , Đảng luôn quan tâm đến việc tổ chức, xây dựng bộ máy nhà nước, đồng thời kiểm tra việc Nhà nước thực hiện các nghị quyết của Đảng. Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo thông qua công tác cán bộ, đó là xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước, Mă ̣t trâ ̣n,các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức quầ n chúng khác. Ngoài ra, sự lañ h đa ̣o của Đảng đươ ̣c thực hiê ̣n bằng giáo dục, thuyết phục, bằ ng nêu gương của các tổ chức Đảng và của các đảng viên nhằ m vận động, lôi kéo thúc đẩ y phong trào quần chúng thực hiện tốt quy chế dân chủ từ cơ sở... 1.3.2 Vị trí, vai trò của Nhà nước Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực hiện ý chí và quyền lực của Nhân dân, thay mặt Nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị, hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do nhân dân trực tiếp 13 bầu ra, quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra hiến pháp và luật pháp (lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại, nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao với toàn bộ hoạt động của nhà nước.Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của nhà nước. Chính phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp. Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ quan được lập ra trong hệ thống tổ chức nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác. Toà án các cấp là cơ quan nhân danh nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật. Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. 1.1.3.3 Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chin ́ h tri ̣ – xã hô ̣i và các đoàn thể có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất 14 nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa Nhân dân với Đảng và Nhà nước. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chin ́ h tri,̣ đó là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân; tuyên truyền vận động Nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của Nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ Nhân dân. Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và Nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ. Hệ thống chính trị có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của Nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư. 1.2. Lý luận chung về hệ thống chính trị cấp huyện ở nước ta hiê ̣n nay 1.2.1. Quan niệm về hệ thống chính trị cấp huyện ở nước ta hiê ̣n nay Cấp huyện và hệ thống chính trị cấp huyện là cấp trên cơ sở thuộc hệ thống phân cấp quản lý Nhà nước gồm bốn cấp như hiện nay. Trong cả nước hiện nay có 663 huyệnquận - thị xã, thành phố thuộc Tỉnh, thì có tới 538 là huyện, do vậy có thể thấy huyện là đơn vị chiếm đa số trong tổng số đơn vị cùng cấp ở nước ta. Nói tới hệ thống chính trị cấp huyện- quận - thị xã, thành phố (thuộc Tỉnh), trong đó huyện chiếm tới gần 82% trong tổng số các đơn vị hành chính cấp huyện, qua đó có thể nhận thấy cấp huyện ở nước ta chủ yếu là ở nông thôn, hệ thống chính trị địa phương ở nước ta chủ yếu là hệ 15 thống chính trị cấp huyện. Do vậy phải coi đây là một điểm quan trọng cần phải đột phá trong đổi mới hệ thống chính trị, trong đó cần xác định vai trò của Đảng bộ huyện hoặc Huyện ủy, chính quyền huyện (Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân), mối quan hệ giữa huyện và cơ sở, của Mặt trận Tổ quốc huyện và các đoàn thể, các tổ chức chính quyền cấu thành hệ thống chính trị, các phương thức tổ chức, hoạt động cùng các mối quan hệ giữa chúng. Như trên đã trình bày, hệ thống chính trị ở nước ta có đặc điểm nổi bật là tính nhất nguyên chính trị và một Đảng duy nhất cầm quyền lãnh đạo, đó là Đảng cộng sản. Chỉ có một hệ thống chính trị duy nhất và thống nhất trong cả nước mà Đảng cộng sản là hạt nhân lãnh đạo. Các khái niệm trung ương- địa phương- cơ sở chỉ là những cấp độ khác nhau. Do đó hệ thống chính trị cấp huyện có nghĩa là cấp địa phương của hệ thống chính trị nói chung có tính toàn vẹn, duy nhất. Vì hệ thống chính trị cấp huyện nằm trong hệ thống chính trị quốc gia nên tất yếu nó cũng bao gồm các tổ chức trong đó: Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và tổ chức, các đoàn thể chính trị - xã hội (trên cơ sở Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý và Mặt trận tập hợp lực lượng thực hiện đại đoàn kết dân tộc, hiệp thương chính trị, hợp tác và hỗ trợ xã hội). Việc chưa làm rõ chức năng, nhiệm vụ, phương thức tổ chức và hoạt động của các tổ chức trong cùng cấp của hệ thống chính trị đã ảnh hưởng lớn tới hiệu quả hoạt động - đây là một trong những yếu kém nổi bật nhất trong hệ thống chính trị ở nước ta. Hiệu quả hoạt động phải được xác định ở chỗ: từng tổ chức phải mạnh, từ đó tạo ra sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống. Sự yếu kém của bất kì một tổ chức nào đều có thể làm yếu kém một tổ chức khác và hạn chế hiệu quả hoạt động của cả hệ thống nói chung. Có thể khái quát tính chất của hệ thống chính trị cấp huyện như sau: Mô ̣t là, tính hệ thống của hệ thống chính trị cấp huyện được thể hiện trên các mặt, cụ thể sau: + Các tổ chức thành viên của hệ thống chính trị ở cấp huyện cùng tồn tại và hoạt động trên cùng một địa bàn lãnh thổ - dân cư đó là đơn vị hành chính cấp Huyện. 16 + Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất đặt dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy về những nội dung cơ bản như: đường lối, chủ trương, quản lí phát triển kinh tế- xã hội và công tác tổ chức cán bộ. + Các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất tiến hành các mặt hoạt động trong khuôn khổ pháp luật của Nhà nước và sự quản lý, điều hành của chính quyền địa phương; theo các nguyên tắc cơ bản về tổ chức và hoạt động của Nhà nước, đó là nguyên tắc Đảng lãnh đạo, nguyên tắc tất cả quyền lực thuộc về Nhân dân. + Mặc dù có chức năng, nhiệm vụ, cách thức tổ chức và phương thức hoạt động khác nhau nhưng các thành viên của hệ thống chính trị thống nhất cùng hướng tới các mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn huyện, chăm lo đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân địa phương, tất cả vì mục tiêu chung của xã hội là thực hiện “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”. Trong sự thống nhất của hệ thống chính trị, Đảng là bộ phận hạt nhân, giữ vai trò lãnh đạo hệ thống; chính quyền là lực lượng chủ đạo, giữ vai trò quản lý, điều hành và Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể là tổ chức đại diện quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân. Các cấp ủy, các tổ chức đảng vừa là hạt nhân lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo chính quyền và là cầu nối giữa Nhân dân với chính quyền. Chính quyền là cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương, trực tiếp quản lý, tổ chức đời sống mọi mặt ở địa phương, phát huy mọi tiềm năng nhân tài và vật lực trên địa bàn phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội. Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở địa phương là cầu nối giữa Nhân dân với Đảng và chính quyền, đại biểu cho lợi ích của các tầng lớp Nhân dân, là hậu thuẫn của Đảng, chính quyền huyện. Hai là, tính thống nhất của hệ thống chính trị cấp huyện: Quan hệ giữa Đảng và chính quyền: Bản chất của mối quan hệ giữa Đảng và chính quyền cấp huyện là Đảng lãnh đạo chính quyền (thông qua Huyện ủy và thường vụ). Chính quyền triển khai thực hiện nghị quyết của huyện ủy bằng phương thức quản lý nhà nước; tổ chức, tạo điều kiện thuận lợi để nhân dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội và các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội. Mối quan hệ này được thực hiện thông qua mối quan hệ cụ thể giữa 17 Huyện ủy với Hội đồng nhân dân huyện; giữa huyện ủy với Ủy ban nhân dân huyện; Bí thư Huyện ủy với Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện… Huyện ủy thực hiện sự lãnh đạo đối với Ủy ban nhân dân, Hội đồng nhân dân huyện bằng các chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết và các biện pháp khác; bằng việc bố trí cán bộ và quyền kiểm tra việc chấp hành chủ trương, chính sách, chỉ thị, nghị quyết của Đảng. Sự lãnh đạo của cấp ủy còn thông qua những đảng viên phụ trách và công tác trong Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. Chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân phải phục tùng, chịu sự lãnh đạo của Bí thư. Huyện ủy ra nghị quyết và Hội đồng nhân dân tiếp thu, soạn thảo và ra quyết định có tính chất pháp lý. Trên cơ sở đó Ủy ban nhân dân điều hành, tổ chức thực hiện theo chức năng, quyền hạn như luật định. Căn cứ vào nghị quyết của Đại hội Đảng bộ và của Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách hàng năm của địa phương, báo cáo thường vụ và Huyện ủy thông qua, sau đó trình Hội đồng nhân dân xem xét, quyết định. Hiện nay, ở rất nhiều nơi bí thư Huyện ủy kiêm luôn Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Đây cũng là mô hình mà nhiều địa phương thực hiện vì nó đem lại hiệu quả và tập trung quyền lực, tinh giảm số lượng cán bộ lãnh đạo. Bí thư vừa là người quyết định chủ trương vừa trực tiếp chủ trì hoạt động của Hội đồng nhân dân. Chủ tịch ủy ban nhân dân huyện với tư cách là người đứng đầu cơ quan quyền lực Nhà nước ở địa phương đồng thời là phó Bí thư huyện ủy, chịu sự lãnh đạo của Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân. Bí thư có quyền yêu cầu chủ tịch huyện báo cáo, có quyền chỉ thị, chỉ đạo, đôn đốc chủ tịch huyện thực hiện trách nhiệm của mình. Quan hệ giữa những người đứng đầu tổ chức Đảng và chính quyền là quan hệ thường xuyên, hàng ngày nhằm giải quyết những công việc đòi hỏi sự thống nhất quan điểm, biện pháp tiến hành và mục tiêu cần đạt. Do vậy, nhất thiết bí thư, chủ tịch phải là những cán bộ có khả năng lãnh đạo, quản lý, tổ chức giỏi, có phẩm chất và đạo đức trong sáng, có uy tín trước Đảng, trước nhân dân. Huyện ủy không chỉ lãnh đạo chính quyền mà còn lãnh đạo các đoàn thể nhân dân. Mối quan hệ ở đây là quan hệ lãnh đạo - phục tùng; Ban chấp hành các đoàn thể có trách nhiệm báo cáo hoạt động của tổ chức mình với Huyện ủy và đoàn thể cấp trên để xin ý kiến chỉ đạo. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan