LỜI MỞ ĐẦU
1.Lý do chọn đề tài
Ngày nay trên thế giới xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa đang
diễn ra hết sức mạnh mẽ, đòi hỏi các quốc gia tham gia vào hội nhập,
mở rộng mối quan hệ với các nước nhằm tăng cường hợp tác phát triển
kinh tế vì vậy đã có nhiều hình thức liên kết kinh tế được sử dụng nhằm
đẩy nhanh quá trình tự do hóa thương mại song phương và đa phương.
Các hình thức liên kết đó có thể là liên kết toàn cầu, liên kết kinh tế khu
vực hoặc liên kết tiểu vùng.
Vì vậy Việt Nam đã chủ động tham gia hội nhập vào các Tổ chức
Thương mại trên thế giới (WTO), tham gia vào tổ chức Liên Hiệp Quốc
(UN), khu vực (ASEAN) cũng như các nước láng giềng trong đó có mối
quan hệ Việt Nam–Trung Quốc . Đây là mối quan hệ lâu đời và đang
phát mạnh mẽ trên nhiều lĩnh vực văn hóa, kinh tế chính trị, an ninh
quốc phòng.
Trong đó quan hệ kinh tế giữa hai nước luôn được coi trọng. Hai
bên đã đưa ra tuyên bố chung, công bố nhiều thỏa thuận hợp tác thương
mại và nhiều vấn đề khác. Hai bên khẳng định sẽ tiếp tục tăng cường
phối hợp và hợp tác trong khuôn khổ đa phương: tăng cường hợp tác
trong các thể chế khu vực, liên khu vực và quốc tế, thúc đẩy hợp tác toàn
diện ASEAN–Trung Quốc nhanh chóng triển khai “Hiệp định về mở
rộng và đi sâu hợp tác song phương” đẩy nhanh tiến trình xây dựng “Hai
hành lang, một vành đai kinh tế”.
Hành lang kinh tế: Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng
Ninh và Nam Ninh –Lạng Sơn –Hà Nội –Hải Phòng, đây là tuyến huyết
1
mạch nối liền giữa các tỉnh miền núi phía bắc của Việt Nam và các tỉnh
miền Tây Trung Quốc nhằm khai thác lợi thế của các tỉnh vùng biên
giới, cải thiện đời sống nhân dân vùng biên, đồng thời thống nhất hoạt
động biên giới với chiến lược phát triển chung. Hành lang kinh tế: Côn
Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh đã và đang thu hút
được sự quan tâm của nhiều học giả các nhà nghiên cứu trong và ngoài
nước. Hành lang này có vai trò như thế nào đối với sự phát triển của đất
nước ta, nó đã phát triền ra sao ? và chúng ta phải làm gì để hành lang
này phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Đây là lý do em chọn đề tài “vai trò
của Hành lang kinh tế: Côn Minh –Lào Cai – Hà Nội –Hải Phòng –
Quảng Ninh trong hợp tác thương mại giữa hai nước Việt –Trung ”. Đề
tài của em đã có nhiều người đi trước nghiên cứu và dựa trên những
nghiên cứu đó em tiếp thu, tham khảo ý kiến của các chuyên gia và đặt
nó vào bối cảnh hiện nay để thấy được tầm quan trọng của nó đối với
quan hệ thương mại của hai nước nói riêng và với nước khác nói chung.
Ngoài phần mở đầu, kết luận thì khóa luận được kết cấu thành 3
chương :
Chương 1: Hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải
Phòng Quảng Ninh và vai trò của nó.
Chương 2: Thực trạng phát triển của hành lang Côn Minh–Lào
Cai–Hà Nội–Hải Phòng –Quảng Ninh
Chương 3: Các giải pháp và triển vọng của hành lang kinh tế Côn
Minh –Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh
2
3
CHƯƠNG 1
HÀNH LANG KINH TẾ CÔN MINH–LÀO CAI–HÀ NỘI–HẢI
PHÒNG–QUẢNG NINH VÀ VAI TRÒ CỦA NÓ
1.1. KHÁI NIỆM HÀNH LANG
1.1.1 khái niệm chung:
Hành lang kinh tế là một tuyến đường nối liền về mặt địa lý tự
nhiên các vùng lãnh thổ của một hoặc nhiều quốc gia nhằm mụch đích
liên kết hỗ trợ lẫn nhau để khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của các
khu vực địa –kinh tế nằm trên một dải theo trục giao thông thuận lợi
nhất đối với sự lưu thông hàng hóa và liên kết kinh tế giữa các vùng biên
trong cũng như các vùng cận kề hành lang này [1 (Tr.19-20)].
Tuyến liên kết này được hình thành trên cơ sở hệ thống kết cấu hạ
tầng đa dạng có khả năng tạo ra sự phát triển của nhiều ngành nghề kinh
tế, từ đó làm thay đổi căn bản diện mạo kinh tế của một vùng nhất định
thuộc một hoặc nhiều quốc gia mà hành lang kinh tế đi qua và góp phần
đáng kể vào tăng trưởng kinh tế của những quốc gia đó.
Thực chất thuật ngữ “hành lang kinh tế” được dùng chủ yếu để chỉ
một khu vực rộng lớn trải dài hai bên trên một tuyến giao thông huyết
mạch đó là (đường cao tốc, đường sắt, đường thủy) đã có hoặc chuẩn bị
được xây dựng. Ở tuyến đường trục này cho phép giao thông một cách
thuận tiện từ điểm đầu đến điểm cuối và ngay cả bên trong hành lang
phát triển đó, có vai trò đặc biệt quan trọng để liên kết toàn khu vực và
thúc đẩy phát triển kinh tế dọc theo hành lang này.
Hành lang phát triển có thể là trục đường giao thông, đường bộ,
đường biển, các mạch ống dẫn dầu, mạng viễn thông và trong nhiều
trường hợp thì mục tiêu xây dựng hành lang phát triển nhằm phát triển
4
một ngành nào đó như hành lang dược phẩm, hành lang du lịch. Tuy
nhiên trong nhiều trường hợp hai khái niệm này được
sử dụng như nhau dùng để chỉ sự phát triển của một khu vực địa lý nhất
định liên kết bởi một trục tuyến giao thông[nguồn
1.1.2. Giải thích hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nôi–
Hải Phòng Quảng Ninh
Hành lang kinh tế này nằm trong chiến lược giữa hai nước Việt–
Trung về hợp tác xây dựng “Hai hành lang, một vành đai” đã được Việt
Nam đưa ra tháng 5/2004, trong chuyến thăm Trung Quốc của nguyên
Thủ tướng Phan Văn Khải. Đó là hành lang kinh tế “Côn Minh –Lào Cai
–Hà Nội–Hải Phòng”; hành lang “Nam Ninh–Lạng Sơn–Hà Nội–Hải
Phòng” và một “vành đai kinh tế vịnh Bắc Bộ” nó hình thành trên cơ sở
lấy trục giao thông và các hoạt động kinh tế làm nòng cốt, phát huy tác
động lôi kéo và lan toả ra bên ngoài trong quá trình phát triển. Mục đích
trong tương lai là: Tăng tốc các tuyến đường cao tốc và hệ thống đường
sắt tiêu chuẩn quốc tế. Về không gian lãnh thổ, vành đai kinh tế vịnh
Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc bao gồm thành phố Hải Phòng,
Quảng Ninh của Việt Nam và tỉnh Hải Nam, khu vực tự trị dân tộc
choang (Quảng Tây) của Trung Quốc .Hành lang kinh tê “Côn Minh –
Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh”(tên tếng Anh: Kuming –
Lao Cai –Ha Noi –Hai phong – Quang Ninh economic corridor) là tuyến
trục giao thông liên kết kinh tế giữa vùng Tây Nam Trung Quốc rộng
lớn với các tỉnh phía Bắc của Việt Nam là cầu nối khu vực này với khu
vực khác của vùng Đông Nam Á và khu vực khác trên thế giới. Trục
giao thông này bao gồm tuyến đường sắt, đường bộ, đường thủy kết nối
các trung tâm kinh tế như Côn Minh (Vân Nam Trung Quốc) thông qua
5
cửa khẩu quốc tế Hà Khẩu, đến trung tâm kinh tế Hà Nội (Việt Nam) và
qua cảng Hải Phòng, cảng Cái Lân (Quảng Ninh) thông thương với các
khu vực khác. Đây là hành lang tạo thành một khu vực tăng trưởng kinh
tế theo chiều sâu có hai cực tăng trưởng kinh tế là Côn Minh, Hà Nội, có
điểm lan toả là cảng Hải Phòng cảng Cái Lân (Quảng Ninh) và có tuyến
lan toả, có cảng nội địa và hải cảng. Khu vực kinh tế theo mô hình này
rất dễ thích ứng, thuận lợi cho giao thông buôn bán giữa các quốc gia
bên ngoài và sự phân công ngành nghề thuân lợi. Do vậy việc xây dựng
và phát triển hành lang này là rất cần thiết và phù hợp với thời kỳ hội
nhập. Việc xây dựng tuyến hành lang này đã dựa trên những điều kiện
thuận lợi sẵn có của nó như về điều kiện tự nhiên, điều kiện kinh tế xã
hội và kết cấu hạ tầng.
1.1.3. Vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên.
Một là, vị trí địa lý
Vị trí địa lý của các tỉnh nằm trong tuyến hành lang kinh tế Côn
Minh – Cai –Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh mang sẽ tạo điều kiện
thuận lợi cho các địa phương phát triển thương mại, đẩy mạnh hợp tác đầu
tư.
Mặc dù các tỉnh trên hành lang có trình độ phát triển khác nhau,
nhưng sự phát triển này mang tính liên kết và được sự hỗ trợ của các trung
tâm kinh tế Côn Minh, Hà Nội, Hải Phòng. Các trung tâm kinh tế này sẽ là
trụ cột chính thúc đẩy sự phát triển của toàn hành lang và đóng vai trò liên
kết các tỉnh trên toàn tuyến.
Một điều thuận lợi nữa là, tuyến hành lang này mở tiếp giáp với các
khu vực Đông Nam Á và có khả năng vươn ra những khu vực thị trường
xa hơn. Một mặt là cửa ngõ thông thương với Trung Quốc rộng lớn, các
6
nước trong khu vực như Lào, Thái Lan, Mianma. Mặt khác có thể tiếp cận
với các khu vực khác trên thế giới.
Như vậy vị trí thuận lợi đó sẽ giúp cho hai bên Việt –Trung có thể
tiếp cận thị trường, đẩy mạnh hoạt động buôn bán hai nước đồng thời
hàng hoá có thể thâm nhập vào các thị trường khác.
Hai là, tài nguyên thiên nhiên
Hành lang kinh tế này là khu vực có nguồn tài nguyên thiên nhiên vô
cùng phong phú và đa dạng tạo điều kiện phát triển nhiều ngành nghề
cũng như tạo nên môi trường thuận lợi thu hút đầu tư từ các tỉnh của hai
nước cũng như nước ngoài cụ thể :
Tài nguyên khoáng sản: Vân Nam có nguồn tài nguyên thiên nhiên
phong phú, được coi là “vương quốc kim loại” bao gồm 92 loại kim loại
khác nhau, trong đó có 54 loại có mặt trong danh sách về trữ lượng lớn
nhất của Trung Quốc. Vân Nam có các mỏ thiếc, đồng, nhôm, kẽm, chì có
trữ lượng rất lớn. Ngoài ra có các loại tài nguyên phục vụ cho công nghiệp
hóa chất. Đây là kiện thuận lợi cho nền công nghiệp chế biến kim loại và
công nghiệp hoá chất của Vân Nam phát triển sớm [1 (Tr.44)].
Còn đoạn hành lang phía Việt Nam tập trung rất nhiều tài nguyên
khoáng sản, rải khắp từ Lào Cai cho đến Vĩnh Phúc với các nhóm
khoáng sản kim loại bao gồm: Quặng sắt, quặng Mangan, mỏ đồng có
trữ lượng rất lớn. Ngoài ra còn có các mỏ chì, kẽm, vàng, bạc, thuỷ
ngân. Khoáng sản phi kimloại như Apatit (Lào Cai) có trữ lượng lớn
nhất tập trung ở Cam Đường (1,4 tỷ tấn) các mỏ đá vôi ở (Hải Phòng,
Ninh Bình, Hòa Bình), đá Granit, cao lanh ở (Thanh Hoá, Hòa Bình).
Vùng đồng bằng Bắc Bộ đã phát hiện hơn 500 mỏ và điểm quặng gần 40
loại khoáng sản khác nhau. khoáng sản cháy cứng có than đá (Quảng
7
Ninh) than nâu, than bùn. Khoáng sản kim loại màu, khoáng sản kim
loại quí như vàng, khoảng sản nguyên liệu sứ như: Fenspat, Kaolin, sét.
Khoáng sản kim loại lỏng có nước khoáng. Với khu vực giàu tài nguyên
khoáng sản cả về trữ lượng lẫn số lượng cho phép phát triển mạnh ngành
công nghiệp chế biến và khai thác khoáng sản [1 (Tr.46)].
Tài nguyên sinh vật và đa dạng sinh vật: Hành lang này trải dọc
lưu vực sông Hồng và nằm trên các khu vực địa hình chia sẻ phức tạp
nên sở hữu nhiều vùng đất thổ nhưỡng và khí hậu khác nhau, do đó có
thảm động thực vật rất đa dạng và phong phú. Vì vậy nơi đây có khả
năng phát triển nền nông nghiệp đa ngành, đa sản phẩm hết sức độc đáo
và đặc trưng.
1.1.4. Điều kiện kinh tế -xã hội
Mặc dù khu vực biên giới còn nhiều khó khăn, tuy nhiên cực đầu
và cực cuối của hành lang là những trung tâm kinh tế lớn của hai nước
như Hải Phòng, Hà Nội, Ngọc Khuê, Côn Minh. Sự phát triển nhanh
của các trung tâm kinh tế này sẽ là động lực phát triển toàn hành lang,
thúc đẩy tăng trưởng kinh tế nhanh ở các vùng khác khó khăn hơn.
Chẳng hạn như trước đây Vân Nam chưa đưa ra chính sách về biên mậu
tự do thông thoáng thì vùng biên cương lúc đó còn nghèo nàn heo hút
nhưng kể từ khi tỉnh Vân Nam đưa ra chính sách về biên mậu theo đúng
tinh thần tự do thông thoáng thì kinh tế của các tỉnh tăng trưởng khá, bộ
mặt vùng biên cương đóng cửa trước đây đã thay đổi căn bản. Mậu dịch
Vân Nam gần đây được đánh giá là “phát triển chưa từng có” và “thời
kỳ hoàng kim đang đến” [1(Tr.47)]. Sự phát triển nhanh chóng ở khu
vực này có thể tác động tích cực đến vùng núi khó khăn phía bắc Việt
Nam. Trong những năm gần đây, vùng hành lang phía Tây Bắc Việt
8
Nam đã có những bước phát triển căn bản về kinh tế, đời sống của nhân
dân được cải thiện rõ rệt, quá trình đô thị hoá được đẩy mạnh do nhà
nước Việt Nam có những chủ trương đầu tư, dành ưu đãi đáng kể trong
chiến lược phát triển khu vực này.
Vùng Đồng Bằng Bắc Bộ của Việt Nam thuộc hành lang kinh tế
này là một
trong những khu vực có nền kinh tế phát triển cao nhất trong cả nước
với thủ đô Hà Nội là một trong những trung tâm kinh tế nơi có hoạt
động thương mại sôi động và chứa đầy tiềm năng phát triển dồi dào.
Vùng này sẽ là thị trường có sức mua lớn nhất trong hành lang và là đầu
mối thương mại từ đó tạo luồng hàng đi nơi khác để thúc đẩy sự cạnh
tranh của hàng hoá trên thị trường của các quốc gia khác cũng như các
khu vưc vực khác trên thế giới. Đây cũng là vùng tập trung tiềm năng về
lao động và khoa học kỹ thuật nên có ảnh hưởng tích cực đối với các
vùng khác trên hành lang.
Nhìn chung tình hình phát triển kinh tế của các vùng trên hành
lang có nhiều thuận lợi để tạo ra mối liên kết bền vững, hỗ trợ cho nhau
thúc đẩy phát triển chung của toàn tuyến.
1.1.5. Kết cấu hạ tầng:
Kết cấu hạ tầng là điều kiện quan trọng nhất đối với một hành lang
kinh tế hay hành lang phát triển. Các yếu tố như hệ thống giao thông,
thông tin liên lạc, năng lượng, cảng biển, khu mậu dịch biên giới, khu
kinh tế cửa khẩu ..là những yếu tố có ý nghĩa rất lớn đến sự thúc đẩy tốc
độ trao đổi thương mại trên hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà
Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh. Hành lang này nằm trên những tuyến
đường sắt, đường bộ, đường thuỷ và có những cảng biển nước sâu rất
9
thuận lợi cho hoạt động thương mại giữa hai nước phát triển hơn nữa cụ
thể:
Về tuyến đường sắt:
Đường sắt Vân Nam –Việt Nam là đường sắt duy nhất của tỉnh
Vân Nam thông với các nước xung quanh. Đường sắt khổ 1m Vân Nam,
phía Bắc nối liền với các tuyến đường sắt tiêu chuẩn (1,435m) Qúy
Dương–Côn Minh–Thành Đô và Nam Ninh–Côn Minh. Còn phía nam
thông với đường sắt khổ 1m của Việt Nam là đường đi chính cho việc
đẩy mạnh phát triển kinh tế địa phương, mở rộng thương mại với Việt
Nam từ trước tới nay và thông qua Việt Nam để đưa hàng hóa sang nước
khác. Trung Quốc đã xây dựng tuyến đường mới tiêu chuẩn quốc tế khổ
1,4m từ Côn Minh–Hà Khẩu hoàn thành vào năm 2007. Hạ tầng giao
thông là một trong những vần đề trọng tâm và cấp bách nhất, nhằm là
nâng cao năng lực vận tải đường sắt. Phía Việt Nam, Lào Cai đã xúc tiến
xây dựng mới ga hàng hóa và một cảng cạn với công suất 1.000
container/ngày. Từ cuối năm 2004, Tổng công ty Đường sắt Việt Nam
và Tổng công ty Hàng hải Việt Nam đã tổ chức đôi tàu chuyên chở
container tốc hành Hải Phòng–Lào Cai làm giảm thời gian lưu lượng toa
xe và container từ 7 ngày xuống còn 1 ngày. Năm 2006, ga quốc tế Lào
Cai sẽ được tách thành ga hàng hóa và ga hành khách. Đồng thời Việt
Nam ưu tiên nâng cấp, cải tạo tuyến đường sắt hiện có dài 260 Km từ Hà
Nội đi Lào Cai, tuyến này sẽ nâng năng lực vận tải lên 4 triệu tấn vào
năm 2007tuyến [16]. Tiếp đến là nâng cấp tuyến đường sắt từ Yên Viên
–Hải Phòng. Năm 2010 Việt Nam cũng có kế hoạch xây mới tuyến
đường sắt từ Lào Cai đi Hải Phòng đạt tiêu chuẩn kết nối [16].
10
Theo số liệu ước tính của Trung Quốc, nhu cầu vận tải qua tuyến
đường sắt Vân Nam –Việt Nam từ năm 2005 sẽ tăng đến 3-4 triệu
tấn/năm và đến năm 2010, sẽ khoảng 7-8 triệu tấn/năm và chủ yếu là
hàng quá cảnh [16].
Về đường bộ:
Hiện phía Trung Quốc đã xây dựng tuyến đường khá hiện đại từ
Côn Minh đến Hà Khẩu (giáp Lào Cai ) và thông suốt vào năm 2008.
Đây là tuyến giao thông vận tải quan trọng nhất của Vân Nam sang Việt
Nam, cùng với đường bộ Hà Khẩu –Lào Cai thông xe vào tháng 1 năm
2001 đã tạo điều kiện tăng tốc quá cảnh cho xe cộ và người hai nước
Việt Nam –Trung Quốc. Ngoài ra cửa khẩu Thiên Bảo và Kim Thủy của
Vân Nam đều có đường ô tô thông vào biên giới và đi sâu vào nội địa
Việt Nam.
Hợp tác vận tải đường bộ giữa Lào Cai và Hà Khẩu đã có những
thuận lợi quan trọng với chính sách cho phép ô tô chở hàng hóa của Việt
Nam vào sâu nội địa Trung Quốc tới 250km, thời gian mở cửa khẩu
cũng kéo dài tới 10 giờ đêm. Tỉnh Lào Cai đang kiến nghị Bộ Giao
Thông Vận tải Trung Quốc cho phép xe Việt Nam được đi và về trong
toàn bộ phạm vi Châu Hồng Hà (cách Lào Cai 300km ) và xe chở mặt
hàng tươi sống được đi thẳng đến thành phố Côn Minh (thủ phủ Vân
Nam ) cách Lào Cai 460km. Như vậy hàng hóa Việt Nam qua các cửa
khẩu sẽ không phải chuyển tải, giảm tối đa chi phí.
Phía Việt Nam, chính phủ đang khẩn trương nâng cấp quốc lộ 70.
Quốc lộ 70 bắt đầu từ Đoan Hùng (Phú Thọ ) qua làng Đát (địa phận
tỉnh Yên Bái), phố Ràng và kết tại Bản Phiệt (thuộc địa phận tỉnh Lào
Cai ) dài 190 Km đang được nâng cấp mặt đường, mở rộng một số đoạn
11
cua trong giai đoạn 2006-2010. Quốc lộ này được sử dụng vốn trái phiếu
chính phủ. Từ đầu năm 2005, bắt đầu khởi công xây dựng cầu mới qua
sông Hồng nối liền khu thương mại Kim Thành của Việt Nam với khu
thương mại Hà Khẩu của Trung Quốc vvv….sẽ đẩy mạnh tuyến đường
cao tốc như Hà Nội – Lạng Sơn, Hạ Long – Móng Cái, Lào Cai – Hà
Nội – Hải Phòng. Nhiều đoạn trong các tuyến đường nêu trên, như Hà
Nội –Hải Phòng – Hạ Long, theo Quyết định 412/QĐ-TTg của Thủ
tướng Chính phủ, tuyến cao tốc Hà Nội – Hải Phòng sẽ được đầu tư
bằng hình thức BOT (xây dựng, vận hành và chuyển giao) được khởi
công năm 2008. Đoạn còn lại, Nội Bài – Hạ Long và Hải Phòng bắt đầu
từ Thăng Long, Nội Bài sẽ được đầu tư tiếp sau trong giai đoạn 2010 –
2020 cùng với việc phát triển quy mô hàng qua cảng Cái Lân và cụm
cảng Hải Phòng, đoạn Nội Bài –Uông Bí sẽ được xây dựng với quy mô
4 đến 6 làn xe [3]. Theo dự kiến, sau năm 2010, sẽ tiếp tục đầu tư thêm
đoạn Hạ Long – Mông Dương – Móng Cái với tổng chiều dài là 175 km
và sẽ cho nâng cấp tiếp đoạn Cửa Ông – Móng Cái đạt tiêu chuẩn cấp III
[3], để nhằm phục vụ việc vận chuyển hàng hóa theo dọc tuyến hành
lang, thúc đẩy trao đổi buôn bán với các nước khác.
Cùng với phát triển giao thông là phát triển chuỗi đô thị dọc hành
lang này, nhất là các điểm cửa khẩu đầu nối với Trung Quốc. Việt Nam
cần phải hình thành các đô thị -cửa khẩu đối đẳng với Trung Quốc, tạo
thành các điểm kết nối mạnh, làm khởi điểm lan tỏa phát triển cho toàn
bộ tuyến hành lang và vùng kinh tế phía sau.
Tuyến đường cao tốc Hà Nội –Lào Cai: giai đoạn I tổng mức đầu
tư là 1.217 triệu USD tương đương với 20.000 tỷ đồng được đầu tư bằng
các nguồn vốn vay của ADB ( vay ưu đãi ADF và vay tín dụng thông
12
thường OCR) và vốn đối ứng từ ngân sách nhà nước (NSNN). Đoạn Nội
Bài –Yên Bái (123Km) 4 làn xe, đoạn Yên Bái –Lào Cai (121Km) 2 làn
xe có vận tốc tổi thiếu 80 Km [14].
Giai đoạn II dự kiến đầu tư 19 Km còn lại đoạn Bến Đền- Cầu
Kim Thành (Cầu Kim Thành được khởi công bằng vốn ngân sách nhà
nước, tổng mức khoảng 96.52 tỷ đồng ). Đồng thời đoạn đường Nội Bài
–Lào Cai sẽ được mở rộng toàn tuyến 4-6 làn xe.
Về đường hàng không: Sân bay quốc tế Nội Bài của Việt Nam
được Phát triển thành điểm trung chuyển hành khách, hàng hóa có sức
cạnh tranh trong khu vực đạt tiêu chuẩn quốc tế với năng lực 15 triệu
hành khách/ năm. Việt Nam còn dự kiến nâng cấp sân bay Cát Bi (Hải
phòng ) xây dựng sân bay Vân Đồn (Quảng Ninh ).
Đường hàng không mới chỉ đưa vào khai thác tuyến Hà–Nội–Côn
Minh. Để nâng cao năng lực giao thông nói chung và tiến tới khai thác
vận tải đa phương tiện trong hành lang kinh tế, chính phủ cho phép tỉnh
Lào Cai phối hợp với tổng cục hàng không Việt Nam nghiên cứu xây
dựng sân bay Lào Cai để thành lập tuyến bay Côn Minh – Lào Cai –Hà
Nội năm 2012[16].
Về đường thủy:
Hai bên đang triển khai nghiên cứu thực hiện dự án cải tạo, khai
thác tuyến đường thủy dọc theo sông Hồng theo khuôn khổ hiệp định
hợp tác tiểu vùng sông MêKông.
Về cảng biển:
Cảng Hải Phòng bao gồm 4 cảng: Hoàng Diệu, Vật Các, Chùa Vẽ
và Đoạn xá, là thương cảng tổng hợp quan trọng nhất ở khu vực phía
Bắc.
13
Đến năm 2010, tập trung chỉ đạo, nạo vét luồng vào cảng, bảo đảm
loại tàu 1 Vạn tấn ra vào cảng thường xuyên; tập trung đầu tư theo chiều
sâu, đổi mới trang thiết bị bốc. Mở rộng nâng cấp cảng Hải Phòng, tiếp
tục xây dựng các bến bãi Container đồng thời phát triển vận tải đa
phương thức chủ yếu là đường bộ và đường sắt. Năm 2008, Việt Nam
khởi công xây dựng cảng nước sâu Lạch Huyện Hải Phòng, đảm bảo
công suất 25 triệu tấn/năm 2010 và 40 triệu tấn vào năm 2020 [116 ].
Cảng Hải Phòng cùng với cảng Cái Lân (Quảng Ninh) tạo thành cụm
cảng có qui mô ngày càng lớn góp phần đưa hàng hóa đi các vùng khác
trên thế giới cũng như tham gia vào vận tải quá cảnh cho phía nam
Trung Quốc. Cảng Cái Lân đã được xây dựng là cảng nước sâu ở phía
Bắc, hiện nay đã triển khai nạo vét luồng vào cảng đoạn từ Hòn Một
đến Cửa Lục đảm bảo đón tàu có trọng tải đến 5 vạn tấn vào cảng và tiếp
tục gọi vốn đầu tư các bến còn lại [22] .
Như vậy hệ thống giao thông của Quảng Ninh đã cơ bản đáp ứng
được yêu cầu vận tải và thương mại đối với tuyến hành lang Côn Minh –
Lào Cai – Hà Nội – Hải Phòng – Quảng Ninh cho cỡ tàu tới
50.000DWT vào làm hàng; cảng Cái Lân sẽ đóng vai trò là cảng trung
tâm là cửa ngõ chính cho hành lang Côn Minh –Lào Cai – Hà Nội –Hải
Phòng–Quảng Ninh. Tuy nhiên cảng Cái Lân đi đôi với việc bảo vệ cảnh
quan môi trường khu du lịch và di sản thiên nhiên Hạ Long và vùng Bái
Tử Long.
Về cảng nội địa; Việt Nam đã tiến hành khởi công dự án đầu tư
xây dựng cảng nội địa ICD Lào Cai tại cụm công nghiệp Đông Phố Mới,
thành phố Lào Cai, tỉnh Lào Cai. Dự án được thực hiện thành các giai
đoạn trong đó giai đoạn đầu có tổng mức đầu tư là 78 tỷ đồng trên diện
14
tích khoảng 4.7 ha [18]. Cụm cảng nội địa ICD Lào Cai sẽ đóng vai trò
một trung tâm phân phối hàng hóa, cung cấp dịch vụ Logistics tổng hợp,
dịch vụ vận tải, giao nhận; là điểm thông quan nội địa để xuất, nhập
khẩu; nhận,gửi hàng hóa bằng container; và là một đầu mối giao thông
vận tải hàng hóa quan trọng.
Hình 2.2. Cửa khẩu quốc tế Lào Cai là cửa ngõ quan trọng với
hành trình ngắn nhất nối Việt Nam, ASEAN với Vân Nam và từ
Vân Nam đi các tỉnh miền Tây Nam – Trung Quốc.
Có thể nói với những điều kiện thuận lợi như đã phân tích ở trên
thì hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng
Ninh có vai trò to lớn trong quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước
Việt –Trung cũng như trong bối cảnh hội nhập.
1.2. VAI TRÒ CỦA HÀNH LANG KINH TÊ CÔN MINH-LÀO
CAI-HÀ NỘI-HẢI PHÒNG-QUẢNG NINH
1.2.1 Vai trò thúc đẩy hội nhập của hai nước Việt Nam –Trung
Quốc
15
Hội nhập kinh tế với khu vực và thế giới là một trong những định
hướng chiến lược quan trọng của Việt Nam và Trung Quốc nhằm tận
dụng cơ hội toàn cầu hóa để phát triển kinh tế, rút ngắn khoảng cách so
với các nước trên thế giới. Chính vì vậy việc xây dựng hành lang kinh tế
này sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập của hai nước ngày càng sâu.
Tuyến hành lang huyết mạch có vai trò quan trọng trong việc thúc
đẩy trao đổi hàng hóa giao lưu kinh tế giữa các khu vực khác nhau.
Hàng hóa của hai nước Việt Nam và Trung Quốc có thể dễ dàng thâm
nhập ra thị trường thế giới. Không chỉ dừng lại ở việc trao đổi hàng hóa
mà hành lang còn đóng vai trò là cầu nối thương mại giữa các nước lại
với nhau, chẳng hạn như nối liền ASEAN –Trung Quốc, tạo lực mạnh
phát triển kinh tế, thúc đẩy hợp tác với các nước trong một châu lục và
các châu lục khác. Ngoài ra còn góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập
trong bối cảnh tự do hóa thương mại ở mỗi nước. Chẳng hạn ở Việt
Nam mỗi tỉnh đều có một lợi thế riêng của mình đây là điều kiện cần để
phát triển kinh tế của từng vùng miền, vùng biên giới. Vì vậy các tỉnh đã
biết liên kết lại phối hợp với nhau để khai thác lợi thế cũng như tiềm
năng của các tỉnh. Do đó khi tuyến hành lang được xây dựng nó đã tạo
ra các mạch giao thông và trên cơ sở đó hình thành nên các cụm dân cư.
Đây là cơ sở hình thành thị trường trao đổi hàng hóa, góp phần phát triển
kinh tế hàng hóa. Và cũng chính các tuyến trên hành lang này sẽ liên kết
các cụm dân cư trở thành những khu vực thị trường rộng lớn, thúc đẩy
phát triển thương mại.
Trong bài phát biểu khai mạc tại hội nghị hợp tác hành lang kinh tế
Vân Nam –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh lần thứ 3 do
UBND thành phố Hải Phòng tổ chức chính thức ngày 19/11/2007, chủ
16
tịch UBND thành phố Trịnh Quang Sử đã khẳng định: “Hành lang kinh
tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh là bước đi
quan trọng nhằm thúc đẩy tiến trình tự do hóa thương mại của khu vực,
là bộ phận quan trọng của khu mậu dịch tự do ASEAN-Trung Quốc,
trong đó Hải Phòng được xác định là cực tăng trưởng của vùng kinh tế
động lực phía Bắc Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh”. Hành lang này là
bước đi quan trọng là vì việc xây dưng và phát triển hành lang kinh tế
không chỉ đầu tư xây dựng kết cầu hạ tầng mà còn khai thác tối đa
nguồn lực cũng như nguồn tài nguyên thiên nhiên của khu vực toàn hành
lang. Tạo điều kiện thuận lợi để hòa mình vào dòng chảy chung của hội
nhập.
Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –
Quảng Ninh tạo mối liên kết của vùng lãnh thổ nhất định với khu vực
khác. (1) liên kết song phương giữa Việt Nam và Trung Quốc; (2) liên
kết các nước Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng (3) liên kết khu vực các
nước ASEAN với Trung Quốc. Ngoài ra, hành lang kinh tế này sẽ góp
phần đẩy mạnh sự hợp tác kinh tế, tự do hóa thương mại trong khuôn
khổ hợp tác APEC, ASEAN +3 (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản)...
Do vậy việc hình thành và phát triển hành lang kinh tế Côn Minh–Lào
Cai–Hà Nội–Quảng Ninh là hết sức cần thiết, mang lại lợi ích to lớn cho
Việt Nam và Trung Quốc cũng như các nước trong và toàn khu vực.
Hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng là cầu
lục địa nối liền miền Tây Nam Trung Quốc với Đông Nam Á và Nam Á.
Hành lang kinh tế Côn Minh–Lào Cai–Hà Nội–Hải Phòng–Quảng Ninh
là tuyến hành lang mở, tiếp giáp với các khu vực phát triển của vùng
Đông Nam Á và có khả năng vươn ra những khu vực thị trường khác xa
17
hơn. Hành lang này một mặt là cửa ngõ thông thương với thị trường
Trung Quốc rộng lớn, các nước trong khu vực như Lào, Thái Lan,
Myanmar, mặt khác, qua cảng Hải Phòng, tiếp cận với các khu vực thị
trường khác của thế giới.
1.2.2. Thúc đẩy sự phát triển của hai nước Việt Nam –Trung
Quốc
Việc xây dựng hành lang kinh tế sẽ khơi thông lĩnh vực hợp tác
kinh tế Vân Nam và Việt Nam, làm cho các nhân tố về tài nguyên, sản
xuất công nghiệp được luân chuyển dễ dàng, tăng thêm giá trị thông qua
sự hợp tác quốc tế về các lĩnh vực: thương mại, công nghiệp, nông
nghiệp, khai khoáng, du lịch, dịch vụ. Xoá bỏ đi những khó khăn, hình
thành cơ cấu kinh tế thương mại lớn, bổ sung ưu thế cho nhau, để cùng
nhau phát triển. Như vậy hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội
–Hải Phòng –Quảng Ninh nó có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng thúc
đẩy hoạt động xuất nhập khẩu hai nước đặc biệt thúc đẩy chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo khu vực xây dựng kết cấu hạ tầng hiện đại, xóa bỏ thời
kỳ đóng cửa vùng biên mà thay bằng thời kỳ hội nhập với bên ngoài.
Hợp tác xây dựng tuyến hành lang giữa hai nước Việt Nam–Trung Quốc
nhằm phát triển kinh tế hai nước, nâng cao đời sống của nhân dân, rút
ngắn khoảng cách giữa các vùng miền góp phần vào tăng trưởng chung
của kinh tế mỗi nước.
1.2.2.1. Thúc đẩy mở rộng thị trường và lưu thông hàng hóa
giữa hai nước và thế giới.
Việc xây dựng hành lang kinh tế, lấy việc xây dựng hạ tầng giao
thông làm nòng cốt sẽ khắc phục được hạn chế về ách tắc giao thông cản
trở trong sự hợp tác kinh tế thương mại giữa Vân Nam và Việt Nam.
18
Đồng thời kết hợp chặt chẽ các hoạt động kinh tế như xây dựng giao
thông phát triển sản xuất, đầu tư và thương mại trong khu vực, thúc đẩy
lưu thông hàng hoá, lưu thông kỹ thuật, để sự hợp tác kinh tế của hai đi
vào chiều sâu.
Hành lang kinh tế tạo điều kiện để các địa phương trong vùng mở
rộng thị trường xuất nhập khẩu, giảm chi phí trung gian do đó nâng cao
sức cạnh tranh của hàng hóa và dịch vụ trao đổi. Hành lang kinh tế Côn
Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải Phòng –Quảng Ninh thúc đẩy quá trình
chuyển dịch nền kinh tế từ tự cung tự cấp, trước đây sang sản xuất hàng
hóa chỉ phục vụ trong vùng nhưng hiện nay một số mặt hàng đã xuất
khẩu ra bên ngoài đem lại lợi nhuận và hiện đại hóa nông thôn.
Trong quan hệ buôn bán trên tuyến hành lang kinh tế hai bên Việt
Nam –Trung Quốc có điểm tương đồng về nhu cầu đối với mặt hàng, cụ
thể là các yêu cầu về chất lượng, phù hợp với yêu cầu sản xuất, chi phí
vận tải thấp, thanh toán bằng việc sử dụng đồng nội tệ.
Sự phát triển của thị trường do tuyến hành lang kinh tế tạo ra có
tác động thúc đẩy nhanh quá trình phân công lao động xã hội, tạo thêm
nhiều ngành nghề mới góp phần giải quyết việc làm cho các tỉnh miền
núi phía Bắc (Việt Nam) và các vùng lân cận. Đặc biệt phát triển những
ngành công nghiệp khai thác và chế biến khoáng sản là rất quan trọng để
thực hiện mục tiêu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Hơn nữa việc trao đổi thương mại trên hành lang kinh tế còn tạo ra
sự biến đổi mạnh mẽ về cơ cấu kinh tế của các tỉnh phía Bắc Việt Nam.
Và các ngành đã có sự thay đổi từ tình trạng tự cung tự cấp sang sản
xuất hàng hóa.
19
1.2.2.2 Thúc đẩy phát triển kinh tế -xã hội của các vùng thuộc
hành lang kinh tế.
Một là, thúc đẩy phát triển nông nghiệp và nông thôn
Hành lang kinh tế là sự hợp tác giữa hai nước Việt Nam và Trung
Quốc trên nhiều lĩnh vực vì vậy khi hành lang này phát triển kéo theo sự
hợp tác trao đổi kinh nghiệm khoa học kỹ thuật tiên tiến hiện đại từ đó
áp dụng khoa học kỹ thuật vào trong nông nghiệp để cải tạo con giống,
cây trồng, vật nuôi, tăng năng suất lao động thúc đẩy phát triển nông
nghiệp, nông thôn. Thông qua các hoạt đông của hành lang sản phẩm
nông nghiệp có được thị trường tiêu thụ, hạ giá thành và nâng cao chất
lượng.
Qua hợp tác Việt Nam có điều kiện nhập máy móc thiết bị hiện
đại, vật tư, giống cây trồng vật nuôi cần thiết học hỏi được kinh nghiệm
trồng trọt, chăn nuôi của Trung Quốc để phát triển vùng nông nghiệp.
Sự phát triển hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội –Hải
Phòng –Quảng Ninh còn tạo điều kiện thúc đẩy quá trình đô thị hoá
nông thôn, tạo thêm nhiều ngành nghề công nghiệp, dịch vụ thu hút lao
động nông nghiệp giải quyết việc làm. Chẳng hạn như ở Quảng Ninh đã
thu hút lao động trong ngành nông nghiệp, trong những năm gần đây
giải quyết việc làm mới cho 2,4 vạn lao động [10]. Góp phần thúc đẩy
quá trình công nghiệp hoá ở vùng núi phía Bắc nước ta.
Hai là, thúc đẩy phát triển các ngành công nghiệp
Hành lang kinh tế Côn Minh –Lào Cai –Hà Nội – Hải Phòng –
Quảng Ninh sẽ tạo ra môi trường thuận lợi để các địa phương trong vùng
thu hút đầu tư, chuyển giao công nghệ, khai thác hiệu quả nguồn tài
nguyên và nhân lực để phát triển các ngành công nghiệp địa phương
20
- Xem thêm -