Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học ứng dụng lý thuyết công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại huyện bì...

Tài liệu ứng dụng lý thuyết công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn tại huyện bình chánh

.PDF
21
164
113

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC LAO ĐỘNG – XÃ HỘI (CSII) KHOA CÔNG TÁC XÃ HỘI ------o0o------ BÀI TIỂU LUẬN HẾT MÔN Môn: LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI Đề tài: ỨNG DỤNG LÝ THUYẾT CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM CÓ HOÀN CẢNH KHÓ KHĂN TẠI HUYỆN BÌNH CHÁNH Giảng viên bộ môn : Ths. Vũ Thị Minh Phương Họ và Tên sinh viên : Nguyễn Trọng Hoàng Ân Lớp : Đ15CT2 MSSV : 1557601010084 Chuyên ngành : Công tác xã hội Khóa : 2015 - 2019 TP. Hồ Chí Minh, tháng 01 năm 2018 NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ...................................................................................................................................... ĐIỂM Ghi bằng số Chữ ký của giảng viên Ghi bằng chữ Giảng viên 1 Giảng viên 2 MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài ................................................................................................1 PHẦN NỘI DUNG I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG....................................................................................2 II. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ.......................................................................................3 1. Xác định vấn đề ..................................................................................................3 2. Nguyên nhân vấn đề ...........................................................................................3 3. Nguồn lực trợ giúp .............................................................................................3 4. Những điểm hạn chế liên quan ...........................................................................4 III. CÁC LÝ THUYẾT ĐƯỢC ÁP DỤNG ........................................................4 1. Thuyết nhu cầu ...................................................................................................4 2. Thuyết hệ thống ..................................................................................................7 3. Thuyết hành vi ....................................................................................................10 IV. VẬN DỤNG CÁC LÝ THUYẾT ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 1. Vận dụng thuyết nhu cầu ....................................................................................14 2. Vận dụng thuyết hệ thống ..................................................................................15 3. Vận dụng thuyết hành vi ....................................................................................16 PHẦN KẾT LUẬN ...............................................................................................17 TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................................................18 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Quá trình đô thị hóa tại TP. Hồ Chí Minh tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi, nó không chỉ đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và cơ cấu lao động, thay đổi sự phân bố dân cư mà còn tạo thêm nhiều việc làm và thu nhập cho người lao động. Quá trình đó đã đưa TP. Hồ Chí Minh trở thành đô thị lớn, một trung tâm kinh tế - chính trị - xã hội nhộn nhịp và phồn hoa nhất cả nước. Đồng thời đây cũng là đô thị đa văn hóa với hơn 8 triệu dân từ khắp các tỉnh thành trên cả nước đến sinh sống và làm việc. Sự phát triển quá nhanh của TP. Hồ Chí Minh đã tạo sức ép về kinh tế rất lớn lên mọi người dân sinh sống và làm việc tại đây, đặc biệt là đối tượng kinh tế khó khăn, các hộ gia đình nhập cư,... Những sức ép về kinh tế đó là tác nhân khiến cho thái độ sống của con người với nhau dần trở nên xa lạ hơn, mối quan hệ, tính cố kết cộng đồng ngày càng lõng lẽo. Cuộc sống hiện đại đã kéo những người ở đây vào guồng quay “cơm ăn, áo mặc” không có điểm đầu – điểm cuối, những bận rộn, hối hả, có khi là cả toan tính nhỏ nhặt đời thường,... Tuy không phải là tất cả, nhưng khi áp lực đồng tiền gắng nặng trên vai, thì đâu đó cũng có một bộ phận những người họ từ chối hoặc không còn thời gian để quan tâm tới các mối quan hệ xã hội, tình cảm cá nhân, gia đình. Lâu dần, thái độ hờ hững, lối sống vô cảm, thờ ơ cũng dần dần lớn lên và lan rộng ra trong mỗi người và trong xã hội. Đó cũng là một trong những nguyên nhân ngày càng xuất hiện những người vô gia cư không nơi nương tựa, những hệ lụy xã hội, nghèo đói, lạc hậu, mù chữ, các tệ nạn mại dâm, ma túy, cờ bạc, trộm cắp,... cũng dần xuất hiện nhiều hơn. Đáng tiếc hơn nữa, nạn nhân của những hệ lụy xã hội đó lại các em thanh thiếu niên, các bé trai, bé gái khôi ngô và ngờ nghệch, lẽ ra ở độ tuổi này, các em phải được đến trường, được ăn, được học và được vui chơi, nhưng những bất công xã hội đã “ngăn cản” không cho các em được có những quyền đó. Đi một vòng TP. Hồ Chí Minh, không khó để chúng ta bắt gặp các em nhỏ bán vé số, đánh giày, nhặt ve chai, xin tiền,... Sự thật là các em chỉ mới 6 tuổi, 7 tuổi, có em 8 tuổi, 10 tuổi,... Cùng trang lứa các em, các bạn ấy đang ngồi học trong lớp, đang đi chơi với bố mẹ ngoài công viên, đang cùng anh chị trong các trung tâm mua sắm. Còn các em, các em đang phải tự mình bước ra đường kiếm miếng cơm ăn, kiếm cái áo mặc và kiếm cái để để mưu sinh. Rồi trên con đường mưu sinh ấy, có khi các em còn bị xua đuổi, đánh đập, hành hạ, cướp giật, đối mặt với biết bao nhiêu là khó khăn, mà 1 cũng biết đâu được, các em có lúc mệt mỏi quá rồi lỡ sa chân vào những con đường tệ nạn. Nhận thấy được vấn đề, bản thân là một nhân viên công tác xã hội trong tương lai, em biết được vai trò của mình phải làm gì để giúp đỡ các em. Bài tiểu luận “Công tác xã hội với trẻ em có hoàn cảnh khó khăn” này sẽ là hành động đầu tiên của cá nhân em, lên tiếng nói giúp đỡ và bảo vệ quyền lợi cho các em – những mầm xanh của đất nước. Trong giới hạn của một bài tiểu luận môn học, em chỉ đưa ra được một ví dụ minh họa cụ thể và bằng những kiến thức đã nắm được thông qua các bài giảng trên lớp, kiến thức thực tiễn bản thân em sẽ cố gắng đưa ra được những giải pháp tốt nhất để hỗ trợ cho các em. PHẦN NỘI DUNG I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG Em Nguyễn Thị Xuân Mai sinh năm 2003, hiện đang sinh sống tại Ấp 6, Xã Vĩnh Lộc A, Huyện Bình Chánh, TP. Hồ Chí Minh. Vì không được ăn uống đầy đủ như nên so với các bạn cùng trang lứa em khá nhỏ nhắn và ốm yếu. Mai sống với cha và bà ngoại trong một ngôi nhà nhỏ được dựng lên từ những tấm tôn cũ. Mai đã mắc phải HIV do một lần trong lúc đi nhặt ve chia ở ngoài bãi cỏ, em đã dẫm phải kim tiêm. Từ đó, Mai luôn bị mọi người trong xóm kì thị và sự xa lánh từ của họ hàng. Chỉ có bà là luôn quan tâm, chăm sóc và ở bên cạnh em. Mẹ Mai đã mất khi vừa sinh em ra đời, cha Mai thì cũng từ đó bắt đầu bê tha nhậu nhẹt, không lo làm ăn và thường xuyên đánh đập hai bà cháu Mai. Em có đôi lần được tiếp xúc với Đoàn thanh niên tại địa phương, cũng có đi sinh hoạt đoàn, em cảm thấy rất vui vì được tham gia những trò chơi bổ ích. Có lần Mai đang sinh hoạt thì bị ba nhìn thấy. Về nhà em bị đánh đến gần chết đi sống lại do không đi bán mà ham chơi. Nhiều lần chính quyền đến can ngăn nhưng đều vô ích, ông ta vẫn chứng nào tật nấy. Mai muốn được đi học như những bạn đồng trang lứa khác, nhưng do hoàn cảnh không thuận lợi nên em phải đi bán vé số đồng thời cùng bà nhặt ve chai hàng ngày. Chính quyền đã đến động viên gia đình để xin phép cho Mai được đến trường học nhưng cha em nhất quyết không cho với lý do em phải đi làm kiếm tiền, nếu không cả nhà sẽ chết đói. Thấy gia đình mình quá khó khăn, nhiều lần Mai có trộm đồ ở chợ và bị bắt, bị đánh, đôi lần bị đưa 2 lên công an xã. Em còn bị rủ rê tập tành hút thuốc lá, đánh bạc,...với một số đối tượng không tốt trong vùng. Trong một buổi tối nọ, trên đường về nhà, em bị hai thanh niên lạ mặt chặn đường và thực hiện hành vi đồi bại. Đau đớn tủi nhục, Mai chạy về nhà nói với bà, gia đình lên công an trình báo và hiện em đang có ý định tự tử. Chính quyền nhờ nhân viên Công tác xã hội giúp đỡ để em có suy nghĩ tích cực hơn về cuộc sống hiện tại của mình. II. XÁC ĐỊNH VẤN ĐỀ 1. Xác định vấn đề của - Em mồ côi mẹ từ nhỏ, mắc phải căn bệnh HIV, bị mọi người trong họ hàng, hàng xóm kì thị, xa lánh; thường bị cha đánh đập, hành hạ dã man. - Mai không được đi học, không được vui chơi giải trí, phát triển bản thân mà phải đi bán vé số, nhặt ve chai hàng ngày. - Em đang trong tình trạng bị khủng hoảng trầm trọng về mặt tinh thần do hoàn cảnh gia đình, bị bọn xấu thực hiện hành vi đồi bại và em đang có ý định tự tử để thoát khỏi nỗi khốn khổ này. 2. Nguyên nhân vấn đề - Về nguyên nhân sâu xa, em bị thiếu đi tình yêu thương của mẹ, thường xuyên bị ngược đãi, đánh đập, hành hạ từ người cha. - Do hoàn cảnh gia đình khó khăn, thiếu thốn em phải ra ngoài đi bán vé số, nhặt ve chai và bị kẻ xấu hãm hại. 3. Những nguồn lực trợ giúp - Bà của Mai, vì trong gia đình chỉ có bà là người yêu thương em hết mực. - Chính quyền địa phương, Đoàn thanh niên, vì là một tổ chức có thể ngăn cản hành vi đánh đập của cha, cho em nơi sinh hoạt, vui chơi lành mạnh, giúp đỡ em và giới thiệu nhân viên công tác xã hội cho em. - Nhân viên Công tác xã hội . 3 4. Những điểm hạn chế liên quan - Cha thường xuyên đánh đập em, ảnh hưởng đến sự phát triển nhận thức và tư duy của M sau này. - Họ hàng, láng giềng luôn kì thị, ghét bỏ như vậy sẽ khiến em cảm thấy bị cô lập, không ai yêu thương. - Đối tượng xấu mà M tiếp xúc. III. CÁC LÝ THUYẾT ĐƯỢC ÁP DỤNG 1. Thuyết nhu cầu 1.1. Tiểu sử tác giả Abraham Maslow (1908 – 1970), sinh ra ở Brookly - New York, là con cả trong một gia đình người Do Thái có 7 anh em, nhập cư từ Nga. Bố mẹ ông không được ăn học đến nơi đến chốn nhưng họ quyết tâm đầu tư cho Maslow được học hành và khuyến khích ông nên học ngành Luật. Ông là một nhà tâm lý học nổi tiếng người Mỹ. Là người đáng chú ý nhất với sự đề xuất về Tháp nhu cầu và ông được xem là cha đẻ của chủ nghĩa nhân văn trong Tâm lý học. Maslow bắt đầu sự nghiệp giảng dạy tại Brooklyn College. Trong suốt thời gian này ông đã gặp gỡ nhiều nhà tâm lý học hàng đầu Châu Âu như Alfred Adler và Erich Fromm. Năm 1951, Maslow trở thành trưởng khoa Tâm lý học tại Brandeis University nơi mà ông bắt đầu với công tác nghiên cứu học thuyết của mình. Ông đã gặp Kurt Goldstein, người đã giới thiệu ông ta về ý tưởng của sự tự nhận thức về nhu cầu. Ông về hưu tại California. Chết vì đau tim năm 1979, thọ 62, sau nhiều năm sức khoẻ kém. 1.2. Nội dung cơ bản của thuyết nhu cầu Lý thuyết nhằm giải thích những nhu cầu nhất định của con người cần được đáp ứng như thế nào để một cá nhân hướng đến cuộc sống lành mạnh và có ích cả về thể chất lẫn tinh thần. Giúp cho chúng ta hiểu biết về những nhu cầu của con người bằng cách nhận diện một hệ thống thứ bậc các nhu cầu. Căn cứ theo tính đòi hỏi của nó và thứ tự phát sinh trước sau của chúng để quy về 5 loại sắp xếp thành thang bậc về nhu cầu của con người tư thấp đến cao. 4 - Nhu cầu sinh lý: + Đây là nhu cầu cơ bản để duy trì cuộc sống của con người như nhu cầu ăn uống, ngủ nghỉ, nhà ở, sưởi ấm và thoả mãn về tình dục. Là nhu cầu cơ bản nhất, nguyên thủy nhất, lâu dài nhất, rộng rãi nhất của con người. Nếu thiếu những nhu cầu cơ bản này con người sẽ không thể tồn tại được. Đặc biệt là với trẻ em vì chúng phụ thuộc rất nhiều vào người lớn để được cung cấp đầy đủ các nhu cầu cơ bản này. + Ông quan niệm rằng, khi những nhu cầu này chưa được thoả mãn tới mức độ cần thiết để duy trì cuộc sống thì những nhu cầu khác của con người sẽ không thể tiến thêm nữa. - Nhu cầu về an toàn: + An toàn có nghĩa là một môi trường không nguy hiểm, có lợi cho sự phát triển liên tục và lành mạnh của con người. + An toàn sinh mạng là nhu cầu cơ bản nhất, là tiền đề cho các nội dung khác như an toàn lao động, an toàn môi trường, an toàn nghề nghiệp, an toàn kinh tế, an toàn về chỗ ở và đi lại, an toàn tâm lý, an toàn nhân sự,… Đây là những nhu cầu khá cơ bản và phổ biến của con người. Để sinh tồn con người tất yếu phải xây dựng trên cơ sở nhu cầu về sự an toàn. + Nhu cầu an toàn nếu không được đảm bảo thì công việc của mọi người sẽ không thể tiến hành bình thường được và các nhu cầu khác sẽ không thực hiện được. Do đó chúng ta có thể hiểu vì sao những người phạm pháp và vi phạm các quy tắc bị mọi người căm ghét vì đã xâm phạm vào nhu cầu an toàn của người khác. - Nhu cầu tình yêu, sự thuộc về: + Do mỗi con người đều là một tế bào quan trọng của xã hội nên họ cần nằm trong xã hội và được thuộc về ai đó. + Nhu cầu này bắt nguồn từ những tình cảm của con người đối với sự lo sợ bị cô độc, bị coi thường, bị buồn chán, mong muốn được hòa nhập, lòng tin, lòng trung thành giữa con người với nhau. + Nội dung của nhu cầu này phong phú, tế nhị, phức tạp hơn. Bao gồm các vấn đề tâm lý như được xã hội thừa nhận, sự gần gũi, thân cận, tán thưởng, ủng hộ, mong muốn được hòa nhập, lòng thương, tình yêu, tình bạn, tình thân ái là nội dung cao nhất của nhu cầu này. Đó là nội dung lý lưởng mà nhu cầu về quan hệ và được thừa nhận luôn theo đuổi. Nó thể hiện tầm quan trọng của tình cảm con người trong quá trình phát triển của nhân loại. 5 - Nhu cầu được tôn trọng: + Nội dung của nhu cầu này gồm hai loại: Lòng tự trọng và được người khác tôn trọng. Lòng tự trọng bao gồm việc có năng lực, có bản lĩnh, có thành tích, độc lập, tự tin, tự do, tự trưởng thành, tự biểu hiện và tự hoàn thiện bản thân mình. Nhu cầu được người khác tôn trọng gồm khả năng giành được lòng tin, được uy tín, được thừa nhận, được tiếp nhận, có địa vị, có danh dự,… + Khi được người khác tôn trọng cá nhân sẽ tìm mọi cách để làm tốt công việc được giao. Do đó nhu cầu được tôn trọng là điều không thể thiếu đối với mỗi con người. - Nhu cầu phát huy bản ngã (thể hiện bản thân): + Maslow xem đây là nhu cầu cao nhất trong cách phân cấp về nhu cầu cơ bản của ông. Đó là sự mong muốn để đạt tới, làm cho tiềm năng của một cá nhân đạt tới mức độ tối đa và hoàn thành được mục tiêu nào đó. + Nội dung nhu cầu bao gồm nhu cầu về nhận thức (học hỏi, hiểu biết, nghiên cứu,…), nhu cầu thẩm mỹ (cái đẹp, cái bi, cái hài,…), nhu cầu thực hiện mục đích của mình bằng khả năng của cá nhân. 1.3. Vận dụng thuyết nhu cầu trong Công tác xã hội - Sự hiểu biết về thứ bậc nhu cầu của Maslow giúp nhà tham vấn xác định được những nhu cầu nào trong hệ thống thứ bậc nhu cầu còn chưa được thỏa mãn tại thời điểm hiện tại, đặc biệt là các nhu cầu tâm lý của thân chủ, nhận ra khi nào thì những nhu cầu cụ thể của thân chủ chưa được thỏa mãn và cần đáp ứng. - Qua lý thuyết nhu cầu của Maslow, nhân viên Công tác xã hội hiểu được con người có nhiều nhu cầu khác nhau bao gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Ai cũng cần được yêu thương, được thừa nhận, được tôn trọng, cảm giác an toàn, được phát huy bản ngã,… Do đó trong việc trợ giúp cho thân chủ, nhân viên Công tác xã hội không chỉ trợ giúp thân chủ thỏa mãn nhu cầu sinh lý cơ bản mà cao hơn nữa phải tập trung trợ giúp cho thân chủ nhằm giúp thân chủ thỏa mãn các nhau cầu tinh thần để sống lành mạnh hơn. - Nhân viên Công tác xã hội sử dụng thuyết nhu cầu để giúp đỡ thân chủ thỏa mãn các nhu cầu của họ. Điều này có nghĩa là nhân viên Công tác xã hội làm việc với thân chủ để giúp họ xác định các hành động có thể thực hiện được để thay đổi tình huống và tập trung vào các vấn đề tình cảm có thể đang cản trở thân chủ trong việc thỏa mãn nhu cầu của chính họ. 6 - Trong một số trường hợp, thân chủ không có khả năng thỏa mãn các nhu cầu cơ bản, việc kết nối họ với các nguồn lực là hoàn toàn hợp lý nhưng đây là công việc của các tổ chức từ thiện. Còn nhân viên Công tác xã hội tăng cường năng lực cho thân chủ bằng cách lắng nghe thân chủ, chú ý đến các nhu cầu tinh thần của thân chủ và giúp thân chủ hiểu được các tiềm năng của mình, sử dụng các tiềm năng đó để vượt lên nấc thang nhu cầu cao hơn. 2. Thuyết hệ thống 2.1. Tiểu sử tác giả Bertalanffy sinh ngày 19/09/1901 tại Vienna và mất 12/06/1972 tại NewyorkMĩ. Ông đã tốt nghiệp các trường đại học: Vienna (1948), London (1949), Montreal (1949). Ông là một nhà sinh học nổi tiếng. Lý thuyết của ông là một lý thuyết sinh học cho rằng: Mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Do đó con người là một bộ phận của xã hội và được tạo nên từ các phân tử , mà được tạo dựng từ các nguyên tử nhỏ hơn. 2.2. Nội dung lý thuyết 2.2.1. Khái niệm - Khái niệm “Hệ thống”: + Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố đối với cùng loại hoặc cùng chức năng có quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ làm thành một thể thống nhất. (Theo từ điển Tiếng Việt) + Hệ thống là một tập hợp các thành tố được sắp xếp có trật tự và liên hệ với nhau để hoạt đông thống nhất. (Theo định nghĩa của “Lý thuyết công tác xã hội hiện đại”) Một hệ thống có thể gồm nhiều tiểu hệ thống,đồng thời là một bộ phận của hệ thống lớn hơn. - Khái niệm “Tiểu hệ thống” + Tiểu hệ thống là hệ thống thứ cấp hoặc hệ thống hỗ trợ. Các tiểu hệ thống được phân biệt với nhau bởi các ranh giới là một bộ phận của hệ thống lớn. Con người được coi như là một tiểu hệ thống, gia đình là hệ thống trung mô và xã hội là hệ thống vĩ mô. 7 2.2.2. Nguyên tắc hoạt động của hệ thống: - Nguyên tắc 1: Mọi hệ thống đều nằm trong một hệ thống khác lớn hơn - Nguyên tắc 2: Mọi hệ thống đều có thể được chia thành một hệ thống khác lớn hơn - Nguyên tắc 3: Mọi hệ thống đều có tương tác với các hệ thống khác và thu nhận thông tin, năng lượng từ môi trường bên ngoài để tồn tại. - Nguyên tắc 4: Mọi hệ thống cần đầu vào hoặc năng lượng bên ngoài để tồn tại - Nguyên tắc 5: Mọi hệ thống đều tìm kiếm sự cân bằng với những hệ thống khác 2.2.3. Các cách thức mà hệ thống thực hiện - Đầu vào: Năng lượng được đưa vào hệ thống thông qua ranh giới (năng lượng trong Công tác xã hội là lượng thông tin, hoặc các nguồn khác từ ngoài vào). - Khối lượng: Năng lượng được sử dụng trong hệ thống như thế nào (qúa trình nhận thức và biến đổi trong thân chủ) - Đầu ra: Những tác động đến môi trường mà năng lượng đi qua thông qua ranh giới của một hệ thống( những tác động từ môi trường ảnh hưởng tới hành vi của thân chủ). - Phản hồi: Thông tin và năng lượng được chạy qua hệ thống do kết quả đầu ra có tác động tới môi trường, qua đó thấy rằng phản hồi có kết quả từ đầu ra của nó (hành vi của thân chủ được thể hiện ra bên ngoài do tác động của môi trường cà nó có ảnh hưởng tới môi trường. ngược lại môi trường tác động ngược trở lại làm thay đổi hành vi). - Entropy: Các hệ thống sử dụng năng lượng riêng nhằm duy trì sự vận hành, điều này cũng có nghĩa là trừ khi các hệ thống nhận được nguồn năng lượng đầu vào từ bên ngoài ranh giới sau đó hệ thống suy lụi và chết dần (có thể hiểu entropy là năng lương riêng của mỗi cá nhân khi tham gia hệ thống và để duy trì hệ thống. Tuy nhiên không thể thiếu các năng lượng đầu vào khác vì nếu không có chúng hệ thống không thể hoạt động bình thường). 2.2.4 Trạng thái của một hệ thống Các trạng thái của một hệ thống được xác định thông qua 5 đặc trưng: - Trạng thái ổn định: hệ thống tự duy trì sự ổn định của nó qua quá trình tiếp nhận thông tin ở đầu vào và sử dụng thông tin 8 - Trạng thái điều hòa hay cân bằng: Là khả năng duy trì bản chất cơ bản của một hệ thống và giữa các hệ thống với nhau. Dù có sự thay đổi nhất định từ những tác động bên ngoài vào, nhưng bản chất của hệ thống không thay đổi - Trạng thái sự khác biệt: Sự khác biệt ở đây được hiểu theo một số khía cạnh như sau: +Sự khác biệt nhất định giữa các tiểu hệ thống trong 1 hệ thống (mặc dù các tiểu hệ thống vận hành thống nhất trong một hệ thống) +Khác biệt giữa các hệ thống với nhau. +Sự khác biệt của một hệ thống hay các tiểu hệ thống trong những thời gian khác nhau, do chúng luôn luôn vận hành, biến đổi theo thời gian dưới những tác động từ ngoài vào. - Trạng thái tổng hòa giữa các hệ thống và các tiểu hệ thống với nhau: Quan điểm này cho rằng sự tổng hoà giữa các hệ thống là nhiều hơn việc tính tổng các thành phần. Tức ở đây nhấn mạnh đến việc các tiểu hệ thống hay các yếu tố trong nó kết hợp, vận hành thống nhất ra sao, có mối liên hệ mật thiết và ảnh hưởng lẫn nhau như thế nào, chứ không phải là sự cộng gộp đơn thuần mà không có sự liên kết ảnh hưởng hữu cơ chặt chẽ. -Trạng thái trao đổi: +Do có sự liên kết hữu cơ, ảnh huởng qua lại nên một phần của hệ thống thay đổi sẽ kéo theo sự thay đổi của các thành phần khác trong hệ thống. +Có những hệ thống linh hoạt có khả năng điều chỉnh các mối quan hệ bên trong và bên ngoài một cách dễ dàng và tồn tại lâu dài +Có những hệ thống cứng nhắc khi gặp biến động mạnh, trong môi trường không dữ được cân bằng dễ tan rã. 2.3. Lý thuyết hệ thống trong công tác xã hội Trong Công tác xã hội cá nhân có hai hình thức cơ bản của lý thuyết hệ thống được phân biệt là: lý thuyết hệ thống tổng quát và lý thuyết hệ thống sinh thái. Lý thuyết hệ thống sinh thái: - Trọng tâm là hướng đến những cái “tổng thể” và nó mang tính “hoà nhập” trong công tác xã hội. Pincus và Minahan áp dụng lý thuyết hệ thống vào thực hành công tác xã hội. Nguyên tắc về cách tiếp cận này chính là các cá nhân phụ thuộc vào hệ thống trong môi trường xã hội trung gian của họ nhằm thoả mãn được cuộc sống 9 riêng. Ba hình thức hệ thống tổng quát đó là: Hệ thống chính thức, hệ thống phi chính thức và hệ thống xã hội. + Hệ thống phi chính thức: Gia đình, bạn bè, người thân, cộng sự đồng nghiệp… + Hệ thống chính thức: Các nhóm cộng đồng, các tổ chức công đoàn… + Hệ thống xã hội: Bệnh viện, cơ quan, tổ chức đoàn thể nhà nước, nhà trường… - Tuy nhiên sự phân biệt trên chỉ mang tính tương đối vì với các nhân này hệ thống trợ giúp có thể là hệ thống chính thức nhưng với cá nhân khác lại là hệ thống không chính thức. Vì thế cách phân chia trên chỉ mang tính tương đối. Hoặc có thể đối với cá nhân này hệ thống A là hệ thống chính thức, nhưng đối với cá nhân khác lại là hệ thống không chính thức. Lý thuyết hệ thống sinh thái: - Tất cả chúng đều biến đổi thông qua môi trường. Ở đâu chúng ta có thể trao đổi và phát triển thông qua môi trường này thì sự thích ứng qua lại với môi trường khác cũng tồn tại. Các hệ thống của cuộc sống cũng phải duy trì một sự phù hợp tốt với môi trường. Chúng ta đều cần một đầu vào phù hợp nhằm duy trì và đảm bảo sự phát triển.Vấn đề của công tác xã hội xảy ra khi các hệ thống cá nhân sống trong đó không thích ứng được với môi trường sống của họ. - Thực chất trong cuộc sống mọi vấn đề chúng ta gặp phải đều có thể tạo ra những áp lực, nhưng quan trọng là sự ảnh hưởng và tính chất của nó ra sao. Cốt lõi của thuyết này nhấn mạnh đến tầm quan trọng về khả năng thích ứng, kiểm soát , nhận thức môi trường bên ngoài của mỗi cá nhân. 3. Thuyết hành vi 3.1. Tiểu sử các tác giả John Broadus Watson (1878- 1958), sinh ra trong một gia đình nghèo ở Greenville, Nam Carolina, mẹ ông rất tôn giáo. Cha của John, người mà anh ta gần gũi, không tuân theo cùng một quy tắc sống như mẹ. Năm1899, John tốt nghiệp Đại học Furman. Năm 1903 ông nhận bằng tiến sĩ và sau này trở thành phó giáo sư tâm lý học tại Đại học Johns Hopkins. Năm 1907, Chính tại JHU ông trở nên nổi tiếng với tư cách là người sáng lập chủ nghĩa Behaviorism. Năm 1913,Watson đã thuyết trình và xuất bản bài báo "Tâm lý học như những quan điểm hành vi đó". Năm 1915, Watson 10 trở thành Chủ tịch của Hiệp hội Tâm lý Mỹ. Năm 1916, Tiến sĩ Watson bắt đầu nghiên cứu bệnh tâm thần và bắt đầu làm quảng cáo tại Cơ quan J Walter Thompson. Năm 1924, Watson trở thành Phó chủ tịch Cơ quan J Walter Thompson. Ông đã xuất bản Behaviorism. Năm1945, Ông nghỉ hưu là Phó chủ tịch Cơ quan William Esty. Edward Chace Tolman (1886 - 1959), là một nhà tâm lý Mỹ. Sinh ra ở West Newton, Massachusetts, sinh viên học tại Viện Công nghệ Massachusetts và nhận bằng tiến sĩ từ Đại học Harvard năm 1915. Tolman không đồng ý với chủ nghĩa hành vi của Watson, vì vậy ông đã bắt đầu chủ nghĩa hành vi của riêng mình, mà đã trở thành chủ nghĩa hành vi có chủ ý. Chủ nghĩa ứng xử có chủ ý của Tolman tập trung vào hành vi có ý nghĩa. Trọng tâm này trái ngược với các chuyển động cơ đơn giản hành vi phân tử như uốn cơ bắp. Tolman coi hành vi phân tử như đã được loại bỏ khỏi khả năng nhận thức của con người đối với một phân tích có ý nghĩa về hành vi.Cách tiếp cận này của Tolman được giới thiệu lần đầu tiên trong cuốn sách của ông, Hành vi Cố ý trong Động vật và Đàn ông , xuất bản năm 1932. Để Tolman, rõ ràng là tất cả các hành vi của hành vi đều hướng tới mục tiêu, bao gồm cả các hành vi đối với động vật. Sự khác biệt chính giữa hành vi và chủ nghĩa hành vi mục tiêu cụ thể của Tolman là hành vi là mục tiêu theo định hướng. 3.2. Nội dung lý thuyết 3.2.1. Khái niệm - Khái niệm “hành vi”: + Hành vi của con người là một tập hợp nhiều hành động (hay việc làm cụ thể) liên kết với nhau một cách hết sức phức tạp và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố bên trong (như tính cách, di truyền…) và các yếu tố bên ngoài (như kinh tế, văn hoá, xã hội, chính trị, môi trường…) dưới nhiều góc độ và mức độ khác nhau. + Có 4 thành phần tạo nên mỗi hành vi của con người, đó là: kiến thức, niềm tin, thái độ và thực hành. Mỗi hành vi là sự thể hiện của tất cả 4 thành phần bên trong một loạt các hành động có thể quan sát được nhằm đáp ứng một kích thích bên ngoài nào đó tác động lên cơ thể.. 11 - Khái niệm “nhận thức”: + Nhận thức là quá trình biện chứng của sự phản ánh khách quan trong ý thức của con người, nhờ đó con người không ngừng tư duy và tiến gần đến khách thể. + Nhận thức chỉ có ở con người, nhận thức không tồn tại ở con vật. + Nhận thức có tính năng động, tích cực, chủ động, sáng tạo và phải dựa trên cơ sở thực tiễn, nhờ đó mà con người có thể tư duy không ngừng. 3.2.2. Nội dung Theo nhà hành vi học J.Watson chia tư duy thành 3 dạng: - Thứ nhất là các thói quen, kỹ xảo ngôn ngữ đơn giản. - Thứ hai là giải quyết các nhiệm vụ tuy không mới nhưng ít gặp và phải có hành vi ngôn ngữ kèm theo. - Thứ ba là giải quyết các nhiệm vụ mới, buộc cơ thể lâm vào hoàn cảnh phức tạp, đòi hỏi phải giải quyết bằng ngôn ngữ trước khi thực hiện một hành động cụ thể. Sự phát triển tiếp theo của hướng tiếp cận hành vi sau J.Watson đã dẫn việc phân hóa trường phái hành vi thành ba nhánh: Thuyết hành vi cổ điển, đại biểu là Skinner; Thuyết nhận thức - hành vi, đại biểu là E. Tolman; Thuyết hành vi chủ quan, đại biểu là O.Miller, Galanter. 3.2.3. Thuyết hành vi cổ điển Mô hình S → R → B Trong đó: S (subject): tác nhân kích thích R (reflexion): phản ứng của con người. B (behavior): kết quả hành vi. Nếu có một tác nhân kích thích (S) sẽ có rất nhiều khả năng phản ứng (R) của con người. Nhưng dần dần sẽ có phản ứng R1 có xu hướng lặp đi lặp lại do con người được học hoặc củng cố, khi kết quả của hành vi đó mang lai một điều được mong đợi. 12 3.2.4. Thuyết hành vi – nhận thức Dựa trên tâm lý học của Sheldon (1995) về bản chất của thuyết là sự tách biệt giữa tâm lý và hành động. Mô hình S → C → R → B Trong đó: S (subject): tác nhân kích thích C (cognitive): nhận thức. R (reflexion): phản ứng của con người. B (behavior): kết quả hành vi. Theo sơ đồ trên, trong nhiều trường hợp tác nhân kích thích (S) không phải là nguyên nhân trực tiếp của hành vi. Thay vào đó, nhận thức (C) về các tác nhân kích và nhận thức về kết quả hành vi mới dẫn tới phản ứng (R) của con người. Chính tư duy quyết định phản ứng không phải tác nhân kích thích (ngoại cảnh) quyết định phản ứng. Sở dĩ có những hành vi hay tình cảm lệch chuẩn là vì có những suy nghĩ không phù hợp. Như vậy, nhận thức - hành vi là trường phái trị liệu dựa trên quan điểm cho rằng cảm xúc của con người được tạo ra không phải bởi môi trường hoàn cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn đề. Quan điểm về nhận thức và hành vi: 2 quan điểm + Theo các nhà lý thuyết gia nhận thức - hành vi thì các vấn đề nhân cách hành vi của con người được tạo tác bởi những suy nghĩ sai lệch trong mối quan hệ tương tác với môi trường bên ngoài. + Hầu hết hành vi là do con người học tập (trừ những hành vi bẩm sinh), do đó con người có thể học tập các hành vi mới, học hỏi để tập trung nghĩ về việc nâng cao cái tôi. Như vậy, lý thuyết này cho ta thấy rằng cảm xúc, hành vi của con người không phải được tạo ra bởi môi trường, hoàn cảnh mà bởi cách nhìn nhận vấn đề. 13 3.3. Ứng dụng trong Công tác xã hội - Thuyết nhận thức - hành vi là cơ sở giúp thân chủ giảm những hành vi không phù hợp và tăng hành vi đúng đắn. Từ đó giúp thân chủ cảm giác đúng đắn về bản thân và giúp họ tương tác một cách hài hòa với môi trường xung quanh. - Nhân viên Công tác xã hội khi làm việc với thân chủ cần công nhận quá trình tâm lý là yếu tố tự có của con người và bản thân có quyền thay đổi và điều khiển suy nghĩ của mình một cách cá nhân. - Nhân viên Công tác xã hội cố gắng nhìn nhận và thấu hiểu được chuỗi tiến trình tâm lý diễn ra ở thân chủ và những người có liên quan để từ đó chấp nhận và thấu hiểu cách đối tượng nhìn nhận xã hội. - Nhân viên Công tác xã hội cùng với thân chủ nhìn nhận được nguồn gốc của hành vi lệch lạc (do suy nghĩ lệch lạc, nhận thức sai lầm) IV. VẬN DỤNG CÁC LÝ THUYẾT ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ CỦA MAI 1. Vận dụng thuyết nhu cầu để giải quyết vấn đề của Mai Có thể nói mỗi con người khi tồn tại ai cũng có những nhu cầu nhất định, đó là nhu cầu được sống, được ăn uống, được đi chơi, được an toàn, được yêu thương...và xã hội ngày càng phát triển, do vậy nhu cầu con người ngày càng được tăng lên: Từ việc ăn no, mặc đủ con người ta dần có nhu cầu ăn ngon, mặc đẹp, ... và còn hơn thế nữa. Để tồn tại được con người cần được đáp ứng về nhu cầu sinh lý, giải quyết những vấn đề cấp thiết của bản thân như việc ăn, ngủ, đi vệ sinh, tình dục,... và để phát triển bản thân ta cần có các nhu cầu quan hệ, yêu thương, nhu cầu phát triển cái tôi của bản thân. Theo lý thuyết nhu cầu của Abraham Maslow thì tháp nhu cầu có 5 bậc: nhu cầu sinh lý; nhu cầu an toàn; nhu cầu yêu mến và phụ thuộc; nhu cầu được tôn trọng; nhu cầu được tự khẳng định mình. Và con người chỉ hướng đến bậc nhu cầu cao hơn khi đã được đáp ứng đầy đủ về bậc nhu cầu thấp. Vận dụng thuyết nhu cầu vào giải quyết vấn đề của Mai ta thấy được Mai không được đảm bảo nhiều nhu cầu cơ bản nên không thể mong muốn có được những nhu cầu ở bậc cao hơn. Trước nhất là nhu cầu sinh lý, Mai cũng không được đảm bảo. 14 Những bữa cơm của em cũng không được đầy đủ, đôi lần em còn trộm đồ ở chợ. Xét về bậc nhu cầu an toàn thì Mai thường xuyên bị cha đánh đập, hành hạ dã man, có lần còn bị đánh đến gần chết. Mai thiếu đi tình yêu thương của cha mẹ, sống trong sự ghẻ lạnh của hàng xóm láng giềng và cô chú trong họ hàng. Cuộc sống khó khăn khiến em phải ra đời mưu sinh sớm hơn so với các bạn đồng trang lứa khác. Hơn nữa, em còn mang trong mình căn bệnh HIV, đã vậy còn bị những tên côn đồ thực hiện hành vi đồi bại xấu xa. Mai bị tước đi nhu cầu xã hội khi không được đi học, không cho tham gia vào tổ chức Đoàn thanh niên. Vì những yếu tố trên Mai không thể nào hướng đến nhu cầu phát triển cái tôi của bản thân. Có thể nói, cuộc sống của em đang bị đe dọa rất lớn, ảnh hưởng nghiêm trọng đến việc phát triển nhân cách, con người ở tương lai. Em đang đứng trước nguy cơ trở thành một đối tượng xấu vì bị bạn bè xấu rủ rê tham gia vào các tệ nạn xã hội. Lý do em có ý định tự tử không đơn thuần là việc bị kẻ xấu cưỡng bức mà còn là do nhiều yếu tố khác. Em luôn thường trực cảm giác như mình không còn con đường nào để đi, bị dồn vào bước đường cùng khi mà xung quanh mình toàn những điều bất hạnh bủa vây. Để giải quyết trường hợp của em, trước nhất cần đáp ứng cho em đầy đủ về các nhu cầu cơ bản, như việc cho em vào sinh sống trong một trung tâm giáo dưỡng để em có cơ hội tiếp xúc với các bạn đồng trang lứa khác, cho em được học chữ, học kĩ năng, học một nghề để nuôi bản thân; được tiếp xúc với các tổ chức Đoàn - Hội để học hỏi kinh nghiệm, kỹ năng sống,...Qua cú sốc lần này, cha của em hẳn đã thay đổi suy nghĩ về đứa con gái mình. Nếu cha em cũng chứng nào tật nấy thì việc cần làm là chính quyền và nhân viên Công tác xã hội cần đến nhà để truyền thông những thông tin cần thiết cho sự phát triển của em. 2. Vận dụng lý thuyết hệ thống giải quyết tình huống của Mai Lý thuyết hệ thống coi mọi tổ chức hữu cơ đều là những hệ thống được tạo nên từ các tiểu hệ thống và ngược lại cũng là một phần của hệ thống lớn hơn. Do đó con người là một bộ phận của xã hội và được tạo nên từ các phần tử , mà được tạo dựng từ các nguyên tử nhỏ hơn. Những hệ thống này có mối quan hệ mật thiết, tác động qua lại lẫn nhau Xét về trường hợp của Mai, em là hệ thống vi mô, chịu sự tác động của hệ thống trung mô là gia đình của mình, tức là bà ngoại và cha ruột; chịu sự tác động của hệ thống vĩ mô là chính quyền địa phương, tổ chức Đoàn thanh niên, cơ sở y tế và chịu sự tác động của tiểu hệ thống là những suy nghĩ, hành vi cá nhân em. 15 Trường hợp của Mai, trước hết cần thiết lập lại mối quan hệ trong gia đình của em bởi người ta thường nói rằng gia đình là tế bào của xã hội, không thể để cha em hằng ngày đánh đập, hành hạ em được, vì như vậy có ảnh hưởng rất lớn đến việc phát triển tâm sinh lý, chưa nói đến việc em đang trong độ tuổi dậy thì, là lứa tuổi phát triển tâm sinh lý, cái tôi cá nhân. Thứ hai, cần đưa em đến cơ sở y tế để kiểm tra mức độ tình trạng về căn bệnh HIV. Do vậy Nhân viên Công tác xã hội cần đưa em tiếp cận với hệ thống xã hội có chức năng khám chữa bệnh. Cho em được tiếp xúc với hệ thống trường học, các trung tâm giáo dưỡng để học chữ, học kĩ năng phát triển bản thân sau này. Một vấn đề cũng rất quan trọng ở đây là chúng ta cần đưa em đến với một nhóm đồng đẳng, bao gồm những em có hoàn cảnh giống em, để ở đó em được cảm thông chia sẻ, là bước đầu để em có thể hoà nhập với xã hội xung quanh em. Cần hướng dẫn em cách chăm sóc bản thân đúng cách, thông tin cho em và gia đình về căn bệnh HIV. Cần theo dõi khám phá những sở trường của em để phát huy hết năng lực vốn có. 3. Vận dụng lý thuyết hành vi giải quyết vấn đề Thuyết hành vi cho rằng nguyên nhân của những hành vi chưa tốt hay không tích cực là bắt nguồn từ những suy nghĩ sai lệch. Để chỉnh sửa được hành vi, đối tượng cần phải học cách nhận thức tích cực, từ đó mới dẫn đến những hành vi tích cực. Từ đó áp dụng vào trường hợp của thân chủ Mai, trước hết là việc em ăn cắp, ăn trộm vặt là do em có những suy nghĩ không tích cực và nếu em đủ ăn, đủ mặc thì em cũng sẽ không phải đi ăn cắp. Vấn đề nhân viên công tác xã hội cần phải quyết là cần cho em vào một trung tâm giáo dưỡng để ở đó em có thể được ăn uống đầy đủ, được vui chơi cùng các bạn đồng trang lứa. Về việc em sống trong sự ghẻ lạnh của người cha và sự xa lánh, kì thị của họ hàng, láng giềng xung quanh sẽ khiến em bị cô lập, tự ti, mặc cảm vì căn bệnh của mình. Từ đó, sẽ khiến em có những suy nghĩ không tích cực về cuộc sống, về cách đối xử giữa con người với nhau, khiến em dễ dàng sa chân vào con đường tệ nạn. Mai đang có ý định muốn tự tử sau khi bị những tên côn đồ thực hiện hành vi đồi bại. Em suy nghĩ hoàn cảnh của mình đã quá khắc khổ, nay lại bị những tên đó cướp đi sự trong trắng, tinh sạch. Trước đây vì căn bệnh HIV, em đã bị mọi người xa lánh, nay thêm việc bị cưỡng bức, lại càng bị mọi người miệt thị, khinh khi. 16 Thuyết nhận thức hành vi có đề cập rằng con người có thể học tập hành vi mới tích cực, loại bỏ những hành vi xấu tiêu cực. Do vậy, nhân viên Công tác xã hội cần chỉ ra sự nhận thức sai lệch, tiêu cực của em. Đồng thời cho em vào trung tâm để được học tập, vui chơi, xa lánh môi trường không tốt bên ngoài để từ đó em có thể ổn định hơn về mặt tinh thần và dần thay đổi những suy nghĩ tiêu cực, không tốt. Nhân viên công tác xã hội cần nêu những gương tốt vươn lên trong cuộc sống để em có thêm động lực và niềm tin vào cuộc sống. PHẦN KẾT LUẬN Ông cha ta có câu “sống với lũ phải có chân” do hoàn cảnh bắt buộc người ta phải sống khác đi với bản tánh, phải thích nghi để tồn tại. Người xấu nhưng chưa hẳn đã sẵn tính xấu. Vì mưu sinh người ta vô tình lầm bước đi vào ngõ tối, bản thân họ cũng không đủ nghị lực để thoát ra. Là nhân viên công tác xã hội cần tìm hiểu nguyên nhân đưa đẩy họ vào con đường tối đó, rồi tìm cách giúp họ thoát ra khỏi nó, tái hoà nhập cộng đồng. Xã hội càng phát triển các tệ nạn xã hội cũng len lỏi và phát triển theo để đến một lúc nó trở thành những vấn nạn xã hội. Với cái nhìn của một nhân viên công tác xã hội tương lai, em làm bài tiểu luận này để thấy rõ hơn thực trạng bạo hành trẻ em, quyền trẻ em đang bị xâm hại, những biến động xấu về gia đình đã và đang làm ảnh hưởng nghiêm trọng như thế nào đến tương lai của các thế hệ trẻ. Đặc biệt là những hệ lụy mà nó mang lại là vô cùng to lớn, để lại vết thương lòng khó có thể nào xoa dịu được. Bằng những phương pháp chuyên môn, nhân viên công tác xã hội đã giúp họ sớm quay lại đường chính, làm lại từ đầu và trở thành một người công dân có ích cho xã hội. Hơn hết, trong nền kinh tế thị trường ngày càng phát triển, con người ta cần lắm những bàn tay nắm lấy bàn tay, giúp nhau vượt qua cơn hoạn nạn, những ánh mắt nhìn nhau ấm áp, động viên nhau lúc khó khăn, tối lửa tắt đèn có nhau. Khi ấy, hai chữ hạnh phúc sẽ “bừng cháy” trong tim mỗi người. 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan