ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ VIDEO - CAMERA
TRONG CÔNG TÁC KHẢO SÁT THIẾT KẾ
VÀ QUẢN LÝ CÔNG TRÌNH BIỂN
Lê Thanh Bình*, Nguyễn Trung Việt**
Tóm tắt: Số liệu đặc trưng thủy thạch động lực cơ bản rất quan trọng trong công tác khảo sát thiết kế
và quản lý công trình biển. Việc đo đạc đầy đủ các thông số sóng, dòng chảy, bùn cát trên một diện
rộng liên tục theo thời gian và trong điều kiện bão lũ thường rất khó có thể thực hiện được vì hạn chế
về kinh phí, thiết bị đo và nhân lực đo. Các phương pháp đo đạc sóng, dòng chảy và bùn cát truyền
thống thường được sử dụng trước đây chỉ cho biết các thông tin về các đặc trưng quan trắc tại một vài
điểm. Công nghệ giải đoán đường bờ và các đặc trưng sóng, dòng chảy ven bờ bằng video-camera là
phương pháp quan trắc mới, hiện đại có thể thay thế cho các phương pháp đo đạc truyền thống. Nó
đặc biệt thích hợp để giám sát bờ biển bởi vì phương pháp này cho phép quan trắc liên tục theo với
khoảng thời gian đo đạc rất rộng, từ vài giây đến vài năm và quy mô không gian từ mét đến km. Trong
nghiên cứu này trình bày các kết quả giải đoán diễn biến đường bờ của bãi tắm Nha Trang từ công
nghệ video-camera trong điều kiện thiên tai bất thường: thời gian trước, trong và sau khi xẩy ra các
cơn bão. Đây là một phần kết quả được trình bày trong Luận án Tiến sĩ của tác giả với đề tài "Nghiên
cứu xây dựng cơ sở khoa học của diễn biến đường bờ biển và đề xuất giải pháp công trình bảo vệ bãi
biển thành phố Nha Trang phục vụ du lịch".
Từ khóa: Công nghệ video-camera, Nha Trang, giải đoán đường bờ, quan trắc bờ biển
1.
TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ VIDEO-CAMERA
Công nghệ quan trắc bờ biển và các đặc trưng sóng, dòng chảy ở dải ven bờ bằng
hình ảnh có lịch sử bắt đầu từ những năm 1930, khi có những nghiên cứu đầu tiên
về diễn biến bờ biển bằng ảnh chụp máy bay (không ảnh). Tuy nhiên các ảnh chụp
máy bay thường không liên tục và chi phí khá tốn kém, và hạn chế trong điều kiện
thời tiết kém. Đến năm 1980, Phòng Thí nghiệm Hình ảnh Ven biển (Coastal
Imaging Lab – CIL) của Trường Đại học Oregon đã tiến hành nghiên cứu và áp
dụng thành công việc sử dụng hình ảnh kết hợp với video để đo đạc sóng leo [5, 7].
Với những ưu thế khi đo đạc yếu tố động lực ven bờ, công nghệ Video-Camera đã
phát triển không ngừng khi phát hiện thêm rằng các ảnh lấy trung bình hóa trong
thời gian (timex) hoàn toàn có thể sử dụng để xác định vị trí các cồn ngầm và kênh
tiêu của dòng rút. [35]. Ưu thế của phương pháp Timex đã đưa đến sự phát triển của
các trạm quan trắc bãi biển tự động có tên là Argus, năm 1992. Hệ thống này được
lập trình để thu thập các hình ảnh bờ biển theo giờ tại bất kỳ vị trí nào được quan
tâm nghiên cứu. Cho tới nay, hệ thống quan trắc và giám sát bãi biển tự động đã
được xây dựng ở hơn 30 bãi biển trên khắp thế giới tại các quốc gia có nền khoa
học tiên tiến như Mỹ, Pháp, Hà Lan, Úc, New Zeland, Nhật Bản, Đài Loan.
*
**
Trung tâm Thủy văn Môi trường - Tổng Công ty Tư vấn Xây dựng thủy lợi Việt Nam;NCS Kỹ thuật công trình
thủy K32 ĐHTL;
[email protected]
Trường Đại học Thủy lợi; Email:
[email protected]
Hệ thống camera quan trắc và giải đoán đường bờ đóng vai trò quan trọng trong
việc hỗ trợ các nhà quản lý và các kỹ sư kỹ thuật bờ biển trong việc đánh giá, phân
tích các trạng thái bờ biển và đưa ra các giải pháp bảo vệ bờ biển thích hợp. Các
ứng dụng chính của hệ thống này bao gồm:
•
•
•
•
Phân tích diễn biến đường bờ và bãi biển, xác định các nguy cơ xói lở hoặc các tác
động của bão, nước dâng đối với bãi biển.
Nghiên cứu địa hình các bãi biển trong vùng dao động của thủy triều, từ đó xác định
thể tích bùn cát bồi tụ, xói lở trên bề mặt bãi biển. Giúp đánh giá những tác động của
các công trình bảo vệ bờ biển tới vùng lân cận cũng như khảo sát các biến động của bãi
biển theo mùa, của bãi biển nhân tạo hoặc nghiên cứu các đặc trưng hình thái ven bờ
như cồn ngầm, bãi triều ở lần các cửa sông, cửa vào các cảng.
Nghiên cứu các yếu tố động lực ở vùng ven bờ
Xác định các đặc trưng sóng ven bờ, sóng leo và tác động của sóng tới bãi biển và
công trình.
Tại Nhật Bản thì hệ thống quan trắc bằng camera này được ứng dụng trên hầu hết
các cửa sông và bờ biển chính như các hệ thống sông Kitakami, Naruse, Natori,
Mabuchi, Yoneshiro và Nanakita ở tỉnh Miyagi; các hệ thống sông ở vùng Tokyo,
Osaka và Kobe cũng được lắp đạt hệ thống camera để quan trắc và cảnh báo lũ sớm.
Máy ảnh có thể thiết lập bước thời gian chụp, thông thường trong điều kiện bình
thường là một giờ còn trong điều kiện cực trị như bão hoặc lũ thì thời gian này có
thể ngắn hơn. Khi chúng ta có một chuỗi ảnh có cùng một khung hình thì việc xác
định các yếu tố hình thái như độ rộng của cửa sông, độ dài của doi cát, mức độ xói
lở… sẽ được xác định dựa vào các vị trí cố định trong ảnh hoặc đơn giản là so sánh
với khoảng cách phía mép của bức ảnh như trong Hình 1. Nhưng để làm được việc
này thì phải xác định tỉ lệ khoảng cách trong ảnh và khoảng cách thực tế bằng việc
thiết lập hai điểm cố định với khoảng cách đã biết có trong khung hình cần quan
trắc.
Hình 1. Lắp đặt camera và xác định chiều rộng cửa sông
(Ảnh lấy từ hệ thống camera tại sông Nanakita, tỉnh Miyagi, Nhật Bản)[12]
Đối với những khu vực chịu ảnh hưởng của thủy triều thì chúng ta phải hiệu chỉnh
các thông số đo đạc này theo biên độ của triều tại thời điểm quan trắc. Chẳng hạn,
độ rộng của cửa sông ban đầu được xác định theo mốc “0” hải đồ; sau dựa vào địa
hình khu vực đó để xác định độ dốc mái khi triều rút và độ dốc mái khi triều lên.
. Ở đây,
là chênh lệc mực nước
Khi đó công thức hiệu chỉnh sẽ là
so với mốc “0” hải đồ tại thời điểm chụp ảnh và là độ dốc bờ biển.
Trong nghiên cứu của Tanaka và Nguyen năm 2007, công nghệ camera cũng được
sử dụng để quan trắc sự thay đổi độ rộng của cửa sông và sự phát triển liên tục của
các doi cát ở cửa sông theo thời gian [12]. Công nghệ đo đạc bằng hình ảnh camera
lập thể còn được sử dụng trong các phòng thí nghiệm để đo đạc trường vận tốc dòng
chảy bề mặt gọi là công nghệ PIV (Particle Image Velocimetry - Đo đạc vận tốc
bằng hình ảnh các hạt chuyển động).
Ở Việt Nam, công nghệ quan trắc cửa sông, bờ biển mới được nghiên cứu thông
qua đề tài nghiên cứu KHCN tiềm năng cấp Nhà nước “Nghiên cứu đề xuất công
nghệ quan trắc, đo đạc diễn biến theo mùa cho các cửa sông khu vực Miền Trung
Việt Nam” mã số KC.08.TN04/ 11-15, năm 2012 do TS. Nghiêm Tiến Lam trường ĐHTL làm chủ nhiệm và đề tài hợp tác quốc tế nghị định thư Việt Nam Cộng hòa Pháp “Nghiên cứu chế độ thủy động lực học và vận chuyển bùn cát vùng
cửa sông và bờ biển Vịnh Nha Trang, tỉnh Khánh Hòa”. 2014 do PGS.TS. Nguyễn
Trung Việt - trường ĐHTL làm chủ nhiệm. Đây là kỹ thuật có thể mở ra hướng mới
cho việc quan trắc và giám sát sự biến động của cửa sông và bờ biển một cách
thường xuyên với chi phí thấp, cung cấp thông tin và số liệu cho việc nghiên cứu,
quy hoạch, khảo sát thiết kế và quản lý các vùng của sông ven biển ở Việt Nam.
2.
CƠ SỞ KHOA HỌC CỦA
CÔNG
NGHỆ
VIDEOCAMERA
Việc phân tích, xử lý số liệu từ
camera truyền về dựa vào
nguyên tắc của hình học ảnh.
Một hệ tọa độ thường được quy
ước: trục x đặt vuông góc với bờ
biển với chiều dương hướng ra
xa bờ, trục y đặt vuông góc với
trục x, trục z hướng thẳng đứng
lên phía trên với mực chuẩn
tham chiếu (z=0), thường đặt
trùng với mực nước triều trung
bình hoặc mực chuẩn quốc gia
như trên Hình 2 [6].
Hình 2. Quan hệ hình học giữa tâm Camera
(X0,Y0,Z0),tọa độ ảnh (u,v) và tọa độ thực
(X,Y,Z)[6]
Sự xác định đối tượng trong ảnh đòi hỏi phải chuyển đổi thông tin ảnh thành không
gian vật thể, nghĩa là tọa độ thực, mặt phẳng ảnh là phép chiếu vuông góc từ tâm
quang của Camera (xc,yc,zc) theo độ dài tiêu cự hiệu quả f. Hệ phương trình quang
trắc biểu thị mối quan hệ giữa tọa độ 2D (u,v) của 1 điểm ảnh và tọa độ thực 3D
(X,Y,Z) tương ứng trong không gian của điểm đó, hệ phương trình như sau [6]:
⎡ m ( x − xc ) + m12 ( y − yc ) + m13 ( z − zc ) ⎤
u − u0 = − f / λu ⎢ 11
⎥
⎣ m31 ( x − xc ) + m32 ( y − yc ) + m33 ( z − zc ) ⎦
⎡ m ( x − xc ) + m22 ( y − yc ) + m23 ( z − zc ) ⎤
(1) v − v0 = − f / λv ⎢ 21
⎥
⎣ m31 ( x − xc ) + m32 ( y − yc ) + m33 ( z − zc ) ⎦
Với mij là ma trận 3x3 của góc nghiêng (τ), phương vị (φ), và góc quay (σ):
0
0 ⎞⎛ − cos(σ ) − sin(σ ) 0 ⎞
⎛ cos(ϕ ) sin(ϕ ) 0 ⎞⎛ 1
⎟
⎜
⎟⎜
⎟⎜
M = ⎜ sin(ϕ ) cos(ϕ ) 0 ⎟⎜ 0 cos(τ ) − sin(τ ) ⎟⎜ − sin(σ ) cos(σ ) 0 ⎟
⎜ 0
0
0
1⎟
0
1 ⎟⎜ 0 sin(τ ) cos(τ ) ⎟⎜
⎠
⎝
⎠⎝
⎠⎝
(2)
Hệ phương trình (1) bao gồm 11 số chưa biết: góc nghiêng (τ), phương vị (φ), và
góc quay (σ); tọa độ thực tâm Camera (xc, yc, zc); tâm ảnh (u0;v0); chiều dài tiêu
cự f; hệ số tỷ lệ λu, λv.
Hệ phương trình được giải bằng chương trình MATLAB từ đó tính toán và phân
tích xử lý ảnh và giải đoán diễn tiến đường bờ biển vịnh Nha Trang [1, 2, 3, 12].
Bước 1: Hiệu chỉnh
hình ảnh
Cần phải biết ít nhất 6
cặp điểm trong phạm vi
quan sát của camera giữa
tọa độ ảnh và tọa độ điểm
khống chế mặt đất (GCPground control points) để
tính toán các tham số cho
sự phân tích ảnh. Trong
thực tế, việc xác định các
thông số trên là rất khó
khăn, do vậy trong
nghiên cứu này sử dụng
phương pháp lặp hồi quy
bình phương tối thiểu phi
tuyến để xác định sai số
nhỏ nhất với mối quan hệ
tiêu cự của camera, (Hình
3).
Hình 3. Mối quan hệ giữa sai số và tiêu cự camera
Hình 4. Mối tương quan giữa tọa độ tính toán từ camera và tọa độ GCP
Bước 2: Tạo các ảnh trung bình và ảnh theo chuỗi thời gian
File video thu được ở camera được tự động tách thành các khung ảnh tức thời và
trung bình hóa theo thời đoạn định trước là 15 phút (Hình 5) và ảnh mặt cắt ngang
bãi theo chuỗi thời gian nhằm phục vụ cho việc nhận diện vị trí đường bờ biển.
a.Ảnh tức thời theo thời gian
b.Ảnh trung bình hóa theo thời đoạn
Hình 5. Kết quả xử lý video từ camera phía Nam lúc 12:00 ngày 1/7/2013
Bước 3: Nhận diện đường bờ
Đường bờ được nhận diện thông qua chênh lệch phổ màu giữa màu nước biển
(Blue) và bờ biển (Red). Vị trí đường bờ được xác định dựa trên tỷ lệ độ sáng
giữa màu đỏ và xanh.
Hình 6. Mô tả nhận diện đường bờ và kết quả giải đoán đường bờ dựa trên ảnh camera
(với x, y là đơn vị pixel)
Mô hình tự xây dựng địa
hình 3D của bãi từ đỉnh triều
đến chân triều trong khu vực
quan sát của Camera (hình
7), từ đó xác định mặt cắt
ngang bãi và tính toán được
tổng lượng bùn cát từ đỉnh
triều đến chân triều. Đây là
thông số quan trọng giúp
cho các nhà quản lý và
chuyên môn đưa ra các
quyết định trong hoạch định
chính sách.
Hình 7. Địa hình 3D bãi biển từ đỉnh triều
đến chân triều khu vực camera giám sát
Bước 4: Tính toán các yếu tố sóng
Từ ảnh chuỗi thời gian trích xuất tại một mặt cắt định trước như hình bên phải trong
Hình 8a, chu kỳ sóng nội suy được dựa trên sự biến thiên của cường độ sáng trên
một đường thẳng trích từ ảnh chuỗi thời gian. Trong đó, trục hoành của ảnh cũng là
trục thời gian với bước thời gian đã biết tỷ lệ với tọa độ điểm ảnh.Vì vậy, các đỉnh
cường độ sáng sẽ trùng với các đỉnh sóng. Từ đó, chu kỳ sóng của từng con sóng là
hoàn toàn xác định được. Hơn nữa, dựa trên cường độ sáng của các đỉnh sóng có thể
tách ra các đường quỹ tích đầu sóng của các con sóng như đường màu vàng trong
hình Hình 8a.
Hình 8a. Cơ sở phân tích chu kỳ sóng và vận tốc đầu sóng
Vận tốc đầu sóng được suy ra từ độ dốc của các đường quỹ tích đầu sóng.Chiều cao
sóng được phân tích dựa trên sơ đồ như trên Hình 8b. Trong đó dựa trên cường độ
sáng thay đổi trước và sau khi sóng đổ có thể xác định được độ dài hình chiếu
vuông góc của sóng lăn (Lb+Ls) trước khi đổ. Kết hợp với góc nghiêng của camera
giám sát đã biết. Hoàn toàn xác định được độ cao sóng trước khi sóng đổ.
Hình 8b. Cơ sở phân tích chiều cao sóng
3.
MỘT SỐ KẾT QUẢ DIỄN BIẾN ĐƯỜNG BỜ VÀ KẾT QUẢ PHÂN TÍCH
BÃI BIỂN KHI SẨY RA BÃO HAYAN TẠI BỜ BIỂN NHA TRANG
Vịnh Nha Trang nằm ở phía Đông thành phố Nha Trang, thuộc tỉnh Khánh Hòa,
giới hạn bởi phía Bắc là mũi Kê Gà, phía Nam là mũi Đông Ba. Với diện tích
khoảng 500km2, vịnh Nha Trang được che chắn bởi 19 đảo lớn nhỏ. Trong khuôn
khổ của đề tài nghị định thư hợp tác với Cộng Hòa Pháp, việc giám sát diễn biễn
đường bờ biển vịnh Nha Trang được thực hiện bằng công nghệ giám sát hình ảnh. 2
camera (01 camera quan trắc phía bờ Bắc với ký hiệu NNT và 01 camera quan trắc
phía bờ Nam với ký hiệu SNT) được gắn vào cột điện trên đường Trần Phú, ngay
phía trước Bưu điện Khánh Hòa như trên Hình 10. Đường truyền internet băng
thông rộng được kết nối để truyền dữ liệu trực tuyến về trung tâm xử lý tại Trường
Đại học Thủy lợi. Đường dẫn về NNT và SNT: http://113.252.160.106 và
http://113.252.160.107 với tên truy cập và mật khẩu là viewer).
Hình 9. Vị trí lắp đặt camera giám sát diễn biến đường bờ tại Vịnh Nha Trang
(a. Camera quan trắc phía bờ Bắc, b. Camera quan trắc phía bờ Nam)
Hình 10. Ảnh chụp đường bờ biển Vịnh Nha Trang
(a. Ảnh chụp bờ phía Bắc, b. Ảnh chụp bờ phía Nam)
Theo số liệu thống kê trong năm 2013 và hình ảnh lưu trữ của camera thì cơn bão số
14 (bão Haiyan) là hai cơn bão không trực tiếp đổ bộ vào vịnh Nha Trang, nhưng do
sóng trong bão gây ra trong vùng biển Đông đã tác động mạnh đến bãi biển và gây
nên hiện tượng xâm thực bãi biển Nha Trang. Nhóm tác giả đã tập trung nghiên cứu
sự tác động của hai cơn bão này đến bãi biển (vị trí đường bờ, mặt cắt ngang bãi và
sự thay đổi tổng lượng cát trên bãi).
Hình 11. Trước bão Haiyan
(Ảnh chụp lúc 7.15AM ngày 08/11)
Hình 12. Bão Haiyan bắt đầu ảnh hưởng đến biển
Việt Nam (Ảnh chụp lúc 5.45AM ngày 10/11)
Sử dụng công nghệ video-camera để quan trắc, kết hợp với bộ thông số của phần
mềm đã được hiệu chỉnh và kiểm nghiệm, tiến hành giải đoán các diễn biễn của bờ
biển Nha Trang thời đoạn trước và sau khi xẩy ra bão Haiyan (tháng 11/2013).
Trên mặt cắt ngang vuông
góc với đường bờ, chọn
một vị trí cố định (C0) tại
bờ kè đường Trần Phú
(phía trước Ngã ba đường
Lê Lợi – Trần Phú), phân
tích đường bờ diễn biến
theo thời gian so với vị trí
C0, được kết quả như Hình
13. Từ kết quả có thể thấy
sự xuất hiện xói lở xảy ra Hình 13. Diễn biến đường bờ trước và sau bão Haiyan
ngay khi có sự ảnh hưởng
(ngày 10/11/2013)
bởi hiện tượng bão.
Sau khi phần mềm video-camera nhận diện vị trí đường bờ thông qua phổ màu, kết
hợp với các số liệu mực nước triều thực đo thu thập tại thời điểm nghiên cứu để xây
dựng mô hình số độ cao 3 chiều của bãi biển giới hạn từ đỉnh triều đến chân triều
trong vùng quan sát của camera từ đó xác định ra hình dạng của mặt cắt ngang bãi
biển tại các vị trí cần nghiên cứu và tính toán được cân bằng bùn cát của bãi biển,
giới hạn từ đỉnh triều đến chân triều và lượng cát bồi hoặc xói dọc bờ biển, kết quả
được tổng hợp tương ứng trong Bảng 1.
Bảng 1. Lượng cát dọc bờ biển dài 400m thay đổi theo thời gian
tính từ cao độ 0.2 m đến -0.6m (bão Hayan)
Ngày
07/11
09/11
11/11
Bồi(+) / Xói (-)
Tổng thể tích cát
3
So với thời gian liền kề (m3)
dọc bãi (m )
1455.52
1252.81
- 202.71
1421.13
168.32
Hình 14. Sự thay đổi mặt cắt ngang bãi biển
trước và sau bão Haiyan
4.
Ghi chú
Trước bão
Bão vào đất liền
Sau bão
Từ mặt cắt ngang bờ thu được qua giải
đoán hình ảnh camera tương ứng với thời
gian xuất hiện cơn bão cho thấy sự ảnh
hưởng rõ rệt của các cơn bão đến biến đổi
mặt cắt ngang bãi biển (xem Hình 14),
mặt cắt ngang đường bờ trong ngày 09/11
thể hiện sự xói ở phía trên và bồi thành
bar ở phía dưới. Sự thay đổi về thể tích
cát trong vùng ngập triều như bảng 1 thể
hiện xói và bồi do ảnh hưởng của các cơn
bão đến sự diễn biến hình thái bãi.
KẾT LUẬN
Kỹ thuật quan trắc diễn cửa sông và bờ biển bằng công nghệ giám sát hình ảnh
video-camera theo thời gian thực lần đầu tiên được thực hiện ở Việt Nam. Nghiên
cứu này trình bày một số kết quả về diễn biến đường bờ biển vịnh Nha Trang, kết
quả cho thấy sự ưu việt của công nghệ giải đoán hình ảnh video-camera so với
những phương pháp quan trắc truyền thống trước đây đặc biệt trong điều kiện thời
tiết cực đoan khi có bão, cũng như lựa chọn đúng thời điểm xảy ra hiện tượng bất
thường về thời tiết - đây là thời điểm mà các thiết bị đo đạc thông thường gặp rất
nhiều khó khăn. Kết quả nghiên cứu chi tiết diễn biến đường bờ sẽ đóng góp vai trò
rất quan trọng trong công tác khảo sát thiết kế và quản lý công trình ven biển và các
cửa sông ở Việt Nam.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1]
Almar, R., Coco, G., Bryan, K.B., Hunley, D.A., Short. A.D., Senechal, N. (2008).
“Video observations of beach cusp morphodynamics”. Marine Geology, 254, 216-223.
[2]
Almar, R., Cienfuegos, R., Catalan, P.A., Machallet, H., Castelle, Bonneton, P.,
Marieu, V. (2012). “A new breaking wave hight direct estimator from video imagery”.
Journal of Coastal Engineering, 61, 42-48.
[3]
Almar, R., Ranasinghe, R., Sénéchal, N., Bonneton, P., Roelvink, D., Bryan, K.R.,
Marieu, V. and Parisot, J.P. (2012). “Video-Based Detection of Shorelines at Complex
Meso–Macro Tidal Beaches”. Journal of Coastal Research, 284, 1040–1048.
[4]
Davidson, M., Van Koningsveld, M., De Kruif, A., Rawson, J., Holman, R., Lamberti,
A., Medina, R., Kroon, A., Aarninkhof, S. (2007). “The CoastView project:
Developing video-derived Coastal State Indicators in support of coastal zone
management”. Coastal Engineering 54, 463-475.
[5]
Holman, R.A. (1981). “Infragravity energy in the surf zone”. Journal of Geophysical
Research, 86(C7), 6442-6450, 1981.
[6]
Holland, K. T., Holman, R. A., Lippmann, T. C., Stanley, J., & Plant, N. (1997).
“Practical use of video imagery in nearshore oceanographic field studies”. IEEE
Journal of Oceanic Engineering, 22(1), 81–92.
[7]
Holman, R. A., & Stanley, J. (2007). “The history and technical capabilities of Argus”.
Coastal Engineering, 54(6-7), 477–491.
[8]. Lê Thanh Bình & NNK (2013). Ứng dụng công nghệ VIDEO-CAMERA phân tích
ảnh hưởng của bão Nari (số 11) tới diễn biến bờ biển Nha Trang. Tạp chí Thủy lợi và
môi trường, số đặc biệt tháng 11/2013 kỷ niệm 10 năm thành lập Khoa Kỹ thuật Biển
(2003-2013), trang 81-88.
[9]. Lê Thanh Bình & NKK(2013). Một số kết quả nghiên cứu ban đầu về diễn biến
đường bờ vịnh Nha Trang sử dụng công nghệ giám sát hình ảnh. Tuyển tập công trình
Hội nghị khoa học Thủy khí Toàn quốc năm 2013 (ISSN: 1859-4182), trang 50-59.
[10] Lefebvre J.P, Almar R., N.T. Viet, D.V. Uu, D.H. Thuan, Le Thanh Binh, R. Ibaceta,
Nguyen V.D. (2014). Contribution of the swash generated by low energy wind waves
in the recovery process of a beach impacted by extreme events: Nha Trang, Vietnam.
Journal of Coastal Research, Special Issue 70, pp. 663-668.
[11] Smith, M.W.J., Aarninkhof, S.G.J., Wijnberg, K.M., González, M., Kingston, K.S.,
Southgate, H.N., Ruessink, B.G., Holman, R.A., Siegle, E., Davidson, M., Medina, R.
(2007). “The role of video imagery in predicting daily to monthly coastal evolution”.
Coastal Engineering, 54, 539-553.
[12] Tanaka, H. and Nguyen, T.V. (2007). “Monitoring and Modeling of Short-term
Morphology Change at a River Entrance”. Proceedings of Indo-Japan Workshop on
Coastal Problems and Mitigation Measures- Including the effects of Tsunami
IITMadras, India, 16-17 July, pp. 174-183.