Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Tiểu học ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học nga t...

Tài liệu ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử lớp 5 ở trường tiểu học nga thủy

.PDF
34
9
101

Mô tả:

SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THANH HÓA PHÒNG GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGA SƠN SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG DẠY HỌC LỊCH SỬ LỚP 5 Ở TRƯỜNG TIỂU HỌC NGA THỦY - NGA SƠN - THANH HÓA Người thực hiện: Thịnh Thị Hạnh Chức vụ: Giáo viên Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Nga Thủy SKKN thuộc lĩnh vực (môn): Lịch sử THANH HÓA NĂM 2018 MỤC LỤC TT 1 1.1 1.2 1.3 1.4 2 2.1 2.2 2.3 2.4 3 3.1 3.2 NỘI DUNG Mở đầu Lí do chọn đề tài Mục đích nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu Nội dung sáng kiến kinh nghiệm Cơ sở lí luận của sáng kiến kinh nghiệm Thực trạng việc dạy học lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Thủy Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề Biện pháp 1: Nghiên cứu nội dung, chương trình lịch sử lớp 5 để phân chia dạng bài Biện pháp 2: Ứng dụng Công nghệ thông tin để phát huy tối đa tác dụng của các loại tài liệu trong tiết học Biện pháp 3: Ứng dụng Công nghệ thông tin để thiết kế các trò chơi giúp học sinh hứng thú học tập Biện pháp 4: Ứng dụng Công nghệ thông tin để thiết kế các dạng bài tập trắc nghiệm củng cố kiến thức Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Kết luận, kiến nghị Kết luận Kiến nghị Tài liệu tham khảo TRANG 1 1 1 1 1 2 2 3 4 4 6 13 15 17 17 17 18 1 1. Mở đầu 1.1. Lý do chọn đề tài Môn lịch sử có vai trò rất quan trọng và có ý nghĩa lớn lao trong việc giáo dục học sinh tình yêu quê hương, đất nước, đặc biệt là lịch sử nước nhà. Học lịch sử để biết được cội nguồn của dân tộc, quá trình đấu tranh anh dũng, lao động sáng tạo, dựng nước và giữ nước của ông cha. Mỗi học sinh cần thông suốt những bài học xương máu lịch sử, thấm nhuần những tinh hoa lịch sử hào hùng của dân tộc. Do vậy, kiến thức lịch sử phải là một phần hồn cơ bản của dân tộc, nó chứa đựng trong tâm thức của mỗi con người. Qua thực tế nhiều năm dạy học lịch sử, tôi thấy đa số các em học sinh ít quan tâm đến học lịch sử vì các em nghĩ đây là môn học phụ, thuộc lĩnh vực khoa học xã hội mà chủ yếu các em tập trung vào học môn Toán và môn Tiếng Việt. Còn đối với giáo viên cũng chưa chú trọng môn học này. Mới chỉ là điểm qua cho xong bài. Chưa tập trung đầu tư nghiên cứu, tìm tòi những phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phong phú nhằm thu hút hứng thú học tập của học sinh. Vì thế dẫn đến học sinh ngại học, không có hứng thú trong học tập, ngại trau dồi kiến thức về lịch sử, ít tìm hiểu lịch sử nước nhà. Việc học chỉ là đối phó, miễn cưỡng, học sinh chỉ tiếp thu được lượng kiến thức rất ít, không bản chất, vì thế dễ quên, kết quả học tập chưa cao. Năm học 2017 – 2018 tiếp tục thực hiện “Đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin trong quản lý và day hoc ”. Vậy làm thế nào để ứng dụng Công nghệ thông tin vào trong quá trình giảng dạy lịch sử và mang lại hiệu quả cao là một vấn đề mà tôi rất quan tâm, trăn trở. Bởi lẽ, việc ứng dụng Công nghệ thông tin sẽ góp phần làm cho giờ học trở nên sinh động, hiệu quả, kích thích được tính tích cực, sáng tạo của học sinh. Đồng thời giáo viên đỡ mất thời gian trong việc giảng giải, thuyết trình các sự việc, sự kiện, nhân vật lịch sử,...hoặc các vấn đề mà học sinh cần tìm hiểu. Xuất phát từ thực tế và yêu cầu cần thiết của xã hội hiện nay,đồng thời năm học 2017 – 2018, tôi được nhà trường phân công giảng dạy lớp 5B, bản thân đã tìm tòi, nghiên cứu và mạnh dạn chọn đề tài “Ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Thủy”. Thực hiện nghiên cứu đề tài này tôi mong muốn mỗi tiết học lịch sử đều tạo được tâm lý vui vẻ, thoải mái và đạt chất lượng cao. Từ đó, khơi nguồn cho các em say mê học lịch sử và góp phần nâng cao chất lượng học tập lịch sử nói riêng và chất lượng học tập các môn học khác nói chung. 1.2. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn, đề xuất một số giải pháp ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học phân môn lịch lớp 5 đạt hiệu quả. 1.3. Đối tượng nghiên cứu - Lý luận về dạy học phân môn lịch sử. - Thực tiễn ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học nói chung và dạy học phân môn lịch sử nói riêng ở trường Tiểu học Nga Thủy. - Học sinh lớp 5 Trường Tiểu học Nga Thủy huyện Nga Sơn. 1.4. Phương pháp nghiên cứu 1 Để thực hiện đề tài này tôi đã tiến hành các phương pháp sau: - Phương pháp nghiên cứu lý luận: Đọc và nghiên cứu một số tài liệu về phương pháp dạy học lịch sử. - Phương pháp khảo sát thực tiễn: Khảo sát bằng bài kiểm tra và thông qua các tiết học sử. - Phương pháp thống kê: Thống kê, phân loại học sinh theo mức đạt được. - Phương pháp phân tích đánh giá, tổng hợp: Phân tích lý luận và thực tiễn ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử. - Phương pháp thực nghiệm: Thực nghiệm một số biện pháp ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy học lịch sử để đúc rút kinh nghiệm. 2. Nội dung 2.1. Cơ sở lý luận : Đổi mới phương pháp dạy học ở Tiểu học là cả một vấn đề rất quan trọng, đây là con đường giúp học sinh tiếp cận với tri thức mới, nhằm thay đổi phương pháp học tập. Theo quan niệm dạy học mới, dạy học là quá trình phát triển, quá trình học sinh tự khám phá, tự tìm ra chân lí. Đặc trưng của môn lịch sử là những sự việc, sự kiện diễn ra trong quá khứ, là tồn tại khách quan không thể phán đoán, suy luận để biết về lịch sử. Kiến thức lịch sử không phải là những kiến thức có thể tìm thấy trong thực tế hay qua trải nghiệm...mà là những kiến thức phải nói là trừu tượng, cách xa chúng ta về thời gian. Với đặc điểm tâm sinh lí lứa tuổi học sinh tiểu học thì việc lĩnh hội kiến thức đó quả là khó khăn. Điều này rất đáng lo ngại và là một câu hỏi lớn cho những người làm công tác giáo dục. Cho nên thời gian càng lùi xa thì việc nhận thức bản chất của sự kiện và hiểu sâu về sự kiện lịch sử càng khó. Trong quá trình dạy học, giáo viên không thể tiến hành các thí nghiệm làm sống lại, xây dựng lại các nhân vật lịch sử như đã từng tồn tại trong qúa khứ. Vì vậy, giáo viên phải đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc giúp học sinh khôi phục lại “Bức tranh quá khứ”. Trước hết phải kể đến lời nói sinh động, giàu hình ảnh của giáo viên. Đó là tường thuật, miêu tả, kể chuyện, đặc điểm của nhân vật lịch sử, …Người giáo viên còn phải biết tái tạo lịch sử, tức là cho học sinh tiếp nhận những thông tin từ sử liệu, tiếp xúc với những chứng cứ, vật chất, những dấu vết của quá khứ, tạo ra ở học sinh những hình ảnh cụ thể, sinh động, chính xác về các sự kiện, hiện tượng lịch sử. Những biểu tượng về con người và hành động của họ trong bối cảnh thời gian, không gian xác định, trong những điều kiện lịch sử cụ thể. Vậy tái tạo lịch sử bằng những phương pháp nào? Đó là cho học sinh tiếp nhận những thông tin bằng hình ảnh, âm thanh, bản đồ, lược đồ, các di vật, câu chuyện lịch sử, các đoạn video, thước phim lịch sử dưới sự định hướng của giáo viên trên màn chiếu để tạo hứng thú, thu hút sự chú ý, tập trung, phát huy tính tích cực, chủ động, học sinh dễ nhớ bài, thay đổi thói quen học tập thụ động, ghi nhớ máy móc của học sinh. Nhận thức được tầm quan trọng của ngành giáo dục, Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương lớn nhằm đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy và học: + Chỉ thị 58-CT/UW của Bộ Chính Trị ngày 07/10/2001 chỉ rõ: “Trọng tâm 2 của ngành giáo dục là đào tạo nguồn nhân lực về Công nghệ thông tin và đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin trong công tác giáo dục và đào tạo” [5]. + Chỉ thị 29/2001/CT-BGD&ĐT ngày 30/7/2001 giai đoạn 2001-2005 nêu rõ: “Đối với giáo dục và đào tạo, Công nghệ thông tin có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi phương pháp, phương thức dạy và học. Công nghệ thông tin là phương tiện để tiến tới một xã hội học tập...” [6]. + Chỉ thị về nhiệm vụ chủ yếu năm học 2017- 2018 của ngành Giáo dục. “Đẩy mạnh ứng dụng Công nghệ thông tin trong đổi mới nội dung, phương pháp dạy học, kiểm tra, đánh giá một cách sáng tạo, thiết thực và hiệu quả, thu hẹp khoảng cách tiếp cận các dịch vụ giáo dục và đào tạo có chất lượng của người học giữa các vùng, miền” [7]. Để nâng cao chất lượng dạy và học, theo đúng mục tiêu của ngành giáo dục đề ra, giáo viên dạy các môn học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng cần phải biết sử dụng Công nghệ thông tin vào bài giảng. Như vậy, bài giảng mới đem lại hiệu qủa cao hơn. 2.2.Thực trạng việc dạy học lịch sử lớp 5 ở trường Tiểu học Nga Thủy * Về phía giáo viên: Đa số các đồng chí giáo viên đã đổi mới phương pháp dạy học, biết ứng dụng Công nghệ thông tin vào các tiết học. Bên cạnh đó vẫn còn một số đồng chí chưa tích cực trong việc đổi mới phương pháp dạy học. Phương pháp các đồng chí thường sử dụng khi dạy lịch sử là phương pháp thuyết trình, giảng giải nên học sinh tiếp thu kiến thức một cách thụ động, không hứng thú học lịch sử. Đặc biệt là việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy các môn học và dạy lịch sử chưa nhiều. Giáo viên chỉ mới sử dụng trong các tiết thao giảng. Một số giáo viên chưa chịu khó tự học, tự tìm hiểu để thực hiện việc thao tác xây dựng các giáo án điện tử và tìm hiểu kiến thức trên mạng Internet còn hạn chế. * Về phía học sinh: Học sinh hầu như chưa say mê học lịch sử, luôn coi đây là môn học khó hiểu, khó nhớ nên dẫn tới ngại học. Các em chưa có kỹ năng quan sát các sự vật, hiện tượng, chưa biết thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ sách giáo khoa và các nguồn khác. Nhận biết các sự kiện lịch sử, bảng thống kê số liệu chưa tốt. Tôi cho học sinh làm phiếu khảo sát chất lượng tháng 9. (Phụ lục 1) Kết quả khảo sát chất lượng tháng 9 phân môn lịch sử lớp 5B, trường Tiểu học Nga Thủy, năm học 2017- 2018 như sau: Điểm 10 – 9 Điểm 8 – 7 Điểm 6 - 5 Điểm dưới 5 Tổng số học sinh SL % SL % SL % SL % 26 4 15,4 7 26,9 8 30,8 7 26,9 Từ kết quả thực trạng và bảng số liệu trên cho thấy: Chất lượng học sinh học lịch sử chưa cao. Số học sinh đạt điểm 9, điểm 10 còn ít, học sinh đạt điểm 5 đến điểm 6 và dưới 5 còn nhiều. Các em chưa nắm chắc kiến thức bài học, tham gia học tập một cách thụ động, chưa tự tìm tòi, khám phá được kiến thức. Qua tìm hiểu, tôi thấy nổi lên một số nguyên nhân sau: 3 Một là: Giáo viên chưa nghiên cứu kỹ chương trình, xậy dựng cách dạy cho từng dạng bài chưa cụ thể. Hai là: Đổi mới phương pháp dạy học chưa tích cực, đồ dùng dạy học cho từng tiết học chưa phong phú. Ba là: Giáo viên chưa thu hút được hứng thú học tập của học sinh, dần dần tạo ra tính ngại học lịch sử hoặc tiếp thu bài học một cách thụ động. Bốn là: Việc sử dụng giáo án điện tử trong giảng dạy còn ít, chưa thường xuyên, chỉ sử dụng trong các tiết thao giảng. 2.3. Các biện pháp sử dụng để giải quyết vấn đề Biện pháp 1: Nghiên cứu nội dung, chương trình lịch sử lớp 5 để phân chia dạng bài Ngay từ đầu năm học, tôi đã tiến hành nghiên cứu kĩ nội dung chương trình sách giáo khoa lịch sử lớp 5, căn cứ vào nội dung bài học, tôi đã phân chia thành 4 dạng bài cơ bản sau : 1.1. Dạng bài có nội dung về nhân vật lịch sử Dạng bài này gồm các bài sau: - Bình Tây đại nguyên soái Trương Định; Nguyễn Trường Tộ mong muốn đổi mới đất nước; Phan Bội Châu và phong trào Đông Du; Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước (Nguyễn Tất Thành). Khi dạy những bài này giáo viên cần lưu ý một số điểm cơ bản sau: - Mỗi một bài đều có hình ảnh (Tranh vẽ hoặc chân dung) nhân vật lịch sử để giúp học sinh nhận biết diện mạo cũng như nhận biết hình thức bên ngoài của nhân vật. Giáo viên cần sử dụng và khai thác tốt những bức ảnh này để phục vụ nội dung bài học. - Khi trình bày về nhân vật, phải cho học sinh biết nhân vật lịch sử đó là người như thế nào? Hoàn cảnh gia đình ra sao? (Sinh ra khi nào? Ở đâu? làm gì? có đặc điểm, tính cách gì nổi bật...) - Phải mô tả và tường thuật (hay kể lại) những hoạt động của họ để làm cơ sở cho việc đánh giá khách quan, công lao của các nhân vật đó đối với đất nước. - Trên cơ sở khai thác những nội dung đó, giáo viên tiến hành giáo dục tư tưởng, tình cảm, thái độ cho học sinh về lòng biết ơn, sự khâm phục, kính trọng đối với nhân vật lịch sử. Ví dụ bài 6 : Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước Giáo viên cho học sinh xem anh chân dung của Nguyễn Tất Thành Hướng dẫn học sinh nắm rõ lý lich của nhân vật Nguyễn Tất Thành: + Tên thật là Nguyễn Sinh Cung + Sinh ngày 19-5-1890 + Quê: xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An + Cha: Nguyễn Sinh Sắc + Mẹ : Hoàng Thị Loan + Là người yêu nước thương dân + Quá trình ra đi tìm đường cứu nước 4 Giới thiệu về quê nội, quê ngoại của Nguyễn Tất Thành qua ảnh chụp.Kết hợp lời giảng về hoàn cảnh gia đình, cha, mẹ, anh, chị em ruột của Bác, đặc điểm tính cách nổi bật của Người, nơi Nguyễn Tất Thành ra đi tìm đường cứu nước. (Phụ lục 2) - Thông thường, đối với dạng bài này, giáo viên nên sử dụng các phương pháp như kể chuyện, đóng vai ... Giáo viên có thể vừa là người dẫn chuyện, trực tiếp kể chuyện có thể là người dẫn dắt, gợi ý giúp học sinh nắm vững cốt truyện. Ngoài ra có thể cho học sinh sắm vai. 1.2. Dạng bài có nội dung đề cập tới sự kiện lịch sử Dạng bài này gồm các bài: - Cuộc phản công ở kinh thành Huế; Đảng cộng sản Việt Nam ra đời; Xô Viết - Nghệ Tĩnh; Cách mạng mùa thu; Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập; Thu đông năm 1947- Việt Bắc mô chôn giặc Pháp; Chiến thắng biên giới thu đông 1950; Chiến thắng Điện Biên Phủ; Nước nhà bị chia cắt; Bến Tre đồng khởi; Đường Trường Sơn; Sấm sắt đêm giao thừa; Lễ kí hiệp định Pa-ri; Tiến vào dinh độc lập; Hoàn thành thống nhất đất nước. Đây là loại bài có nội dung hấp dẫn, lôi cuốn sự chú ý của học sinh. Do đó, giáo viên phải tái hiện sự kiện sinh động cụ thể. Sử dụng câu hỏi về sự phát sinh của sự kiện: Nguyên nhân sâu xa, nguyên nhân trực tiếp hay hoàn cảnh, bối cảnh lịch sử của sự kiện. Đây là một đặc điểm tư duy lịch sử cần hình thành từng bước cho học sinh. Mặt khác, đối với loại bài này, phần quan trọng nhất là trình bày diễn biến, phát triển của sự kiện lịch sử. Vì vậy phải cho học sinh nắm vững mốc thời gian bắt đầu diễn ra sự kiện, địa danh, nhân vật lịch sử, các đường tiến công, diễn biến trận đánh ...bằng cách nêu vấn đề, đặt câu hỏi gợi mở. Sau phần diễn biến là hướng dẫn học sinh tìm hiểu kết quả sự kiện đó và rút ra ý nghĩa lịch sử, bài học kinh nghiệm. Đối với loại bài này, giáo viên giúp học sinh nhận thức mối quan hệ nhân quả của sự kiện, thắng lợi hay thất bại đều có ảnh hưởng nhất định đối với lịch sử. Với dạng bài này thì miêu tả, tường thuật kết hợp với trực quan là những phương pháp chủ đạo. Giáo viên có thể tổ chức cho học sinh tự tìm hiểu về tư liệu lịch sử rồi mô tả, tường thuật lại diễn biến của sự kiện, giáo viên có vai trò hổ trợ, bổ sung giúp học sinh tái hiện lại lịch sử, xây dựng lại biểu tượng lịch sử một cách hoàn chỉnh hơn. 1.3. Dạng bài có nội dung về tình hình kinh tế - chính trị, văn hoá - xã hội Dạng này gồm các bài sau: Vượt qua tình thế hiểm nghèo; Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX; Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước; Hậu phương những năm sau chiến dịch biên giới; Nhà máy hiện đại đầu tiên của nước ta; Xây dựng nhà máy thuỷ điện Hoà Bình... Dạng bài này nhằm cung cấp cho học sinh những hiểu biết về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội ở nước ta sau mỗi thời kỳ (giai đoạn nhất định). Để dạy tốt dạng bài này giáo viên cần: 5 - Mô tả và làm rõ được: Tình hình nước ta (cuối thời kỳ hay sau thời kỳ nào đó) như thế nào? (Tình cảnh đất nước, chính quyền, cuộc sống của nhân dân như thế nào để thay đổi được tình cảnh đất nước ta trong thời kỳ đó ?). - Trong tình cảnh đó chính quyền (hay nhân dân, nhân vật lịch sử) đã làm gì, làm như thế nào? Kết quả của việc đó ra sao? Bởi vậy, khi dạy loại bài này giáo viên triệt để sử dụng phương tiện trực quan: Tranh ảnh, kênh hình kết hợp với mô tả sinh động nhằm tái tạo hình ảnh sinh động về sự kiện, hiện tượng, rèn luyện kỹ năng mô tả, nhận xét, đánh giá, so sánh, cảm nhận và liên hệ để học sinh thấy rõ giá trị văn hoá nghệ thuật trong đời sống tinh thần. Ví dụ bài 12 : Vượt qua tình thế hiểm nghèo Giáo viên phải giúp học sinh nắm được: - Tình hình nước ta sau cách mạng tháng Tám như thế nào? (Khó khăn chồng chất: Các đế quốc, các thế lực phản động chống phá cách mạng; lũ lụt, hạn hán, nông nghiệp đình đốn dẫn tới nạn đói, nạn dốt...). - Chủ tịch Hồ Chí Minh đã làm gì để giải quyết nạn đói, nạn dốt và giặc ngoại xâm? (Lập “ Hũ gạo cứu đói”, tổ chức “ Ngày đồng tâm”, kêu gọi tăng gia sản xuất với khẩu hiệu: “ Không một tấc đất bỏ hoang!”, “ Tấc đất tấc vàng”, Phát động “ Tuần lễ vàng”. Phát động phong trào xoá nạn mù chữ. Ngoại giao mềm dẻo, khôn khéo...) - Kết quả của những biện pháp đó là gì? (Từng bước đẩy lùi giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm). (Phụ lục 2) 1.4. Dạng bài ôn tập, tổng kết Dạng này gồm các bài: Bài 11; Bài 18; Bài 29 Đây là loại bài học nhằm hệ thống hoá và cũng cố lại những kiếm thức đã học cho học sinh sau mỗi một thời kỳ (giai đoạn lịch sử), giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Đối với loại bài này giáo viên cần chuẩn bị chu đáo cho học sinh, lựa chọn phương pháp phù hợp để mạng lại hiệu quả tiết dạy. Đặc biệt giáo viên dựa vào câu hỏi trong sách giáo khoa, thiết kế hệ thống câu hỏi cho học sinh chuẩn bị trước, Trong tiến trình dạy học, giáo viên phải thu hút học sinh vào công việc, phát huy cao nhất tính tích cực của học sinh trong việc trao đổi những câu hỏi mà giáo viên đặt ra, thực hiện các công việc như vẻ sơ đồ, lập bảng niên biểu, thống kê, tìm các dẫn chứng... Đây là yêu cầu quan trọng để phát triển tư duy, rèn luyện kỷ năng. Thông thường đối với dạng bài ôn tập, tổng kết, giáo viên vận dụng tổng hợp nhiều phương pháp (phân tích, tổng hợp, khái quát hoá) kết hợp với vấn đáp, tổ chức làm việc theo nhóm. Tuỳ từng phần nội dung cụ thể mà giáo viên lựa chọn phương pháp cho phù hợp. Trong đó, hoạt động nhóm, báo cáo kết quả là những phương pháp chiếm nhiều thời gian nhất. Ngoài ra cỏ thể sử dụng trò chơi lịch sử. Biện pháp 2: Ứng dụng Công nghệ thông tin để phát huy tối đa tác dụng các dạng tài liệu trong tiết học. 2.1. Sử dụng đồ dùng tranh ảnh 6 Lịch sử là phân môn đặc thù. Kiến thức lịch sử là kiến thức về quá khứ. Dấu vết lịch sử để lại cho chúng ta không chỉ thông qua sử sách ghi chép mà còn là hiện vật, di tích lịch sử, tranh ảnh... mà điều kiện để đi thăm quan du lịch giúp giáo viên và học sinh tiếp cận thực tế các di tich, di vật lịch sử là quá khó khăn. Trong khi đó, hệ thống kênh hình trong sách lịch sử lớp 5 còn ít, đơn điệu. Vì vậy để tiết học lịch sử thật sự có hiệu quả thì việc tranh ảnh được đưa ra trên ứng dụng Công nghệ thông tin có vai trò hết sức quan trọng trong việc tái hiện lịch sử, giúp học sinh tư duy trực quan, mở rộng vốn hiểu biết, khắc sâu được kiến thức bài học. Giáo viên cần phải biết lựa chọn tranh ảnh phù hợp với nội dung bài học. Phải nghiên cứu nội dung bài để lựa chọn thời điểm trình chiếu tranh thích hợp. Biết kết hợp hài hoà giữa lời nói với tranh ảnh. Ví dụ như đối với các bài về nhân vật lịch sử, giáo viên giúp học sinh biết được nhân vật đó là người như thế nào ? Có vai trò gì đối với đất nước ? Trước hết giáo viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu bối cảnh lịch sử xuất hiện nhân vật này. Thông tin này trong sách giáo khoa cung cấp rất sơ lược. Vậy để có thông tin mở rộng thi bản thân giáo viên phải là người cung cấp thông tin: kết hợp hài hoà giữa kể chuyện với hình ảnh... Ví dụ bài 17 : Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ Khi dạy phần mở đầu của chiến dịch, cho học sinh quan sát ảnh của Bộ Chính trị họp, ảnh đoàn xe thồ phục vụ chiến dịch. Qua hình ảnh học sinh hiểu được khí thế hào hùng của chiến dịch. Bộ chính trị họp bàn phương án chiến dịch Điện Biên Phủ Đoàn xe thồ phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ Khi dạy đến phần kết quả và ý nghĩa lịch sử, học sinh trả lời các câu hỏi của giáo viên về kết quả của đợt tấn công thứ 3: “Tướng Đờ Ca-xtơ-ri cùng bộ chỉ huy tập đoàn cứ điểm Điện Biên Phủ bị bắt sống và lũ lượt ra hàng”, giáo viên cho học sinh xem hình ảnh: 7 Học sinh cảm nhận được chiến thắng vẻ vang của dân tộc ta, giúp các em hiểu bài kỹ, nhớ bài lâu. Từ đó còn giáo dục cho học sinh lòng tự hào dân tộc. (Phụ lục 3) Ví dụ bài 19 : Nước nhà bị chia cắt Giáo viên hướng dẫn học sinh tìm hiểu nguyên nhân dẫn đến nước nhà bị chia cắt: Mỹ phá hoại Hiệp định Giơ- ne- vơ; Ngô Đình Diệm bắt tay với Mỹ, thành lập chính quyền Ngô Đình Diệm. Chúng điên cuồng tàn sát, giết hại đồng bào ta, chúng lê máy chém khắp miền Nam Việt Nam để giết người dân vô tội với khẩu hiệu: “Giết nhầm còn hơn bỏ sót”, tôi cho học sinh quan sát hình ảnh. Ngô Đình Diệm bắt tay với đế quốc Mỹ Máy chém Hình ảnh người dân vô tội bị quân Mỹ giết hại một cách man rợ nếu chỉ mô tả qua lời giảng, qua kênh chữ sách giáo khoa thì không thể thấy hết được. Bởi vậy, qua trình chiếu hình ảnh học sinh có thể cảm nhận được sự giã man, tàn ác của quân đội Hoa Kì tại chiến trường miền Nam -Việt Nam. 8 (Thảm sát người dân vô tội) Từ những hình ảnh thực tế đó giúp học sinh thấy được tội ác tầy trời của đế quốc Mỹ (Phụ lục 3). Qua bài học nhận biết được giá trị của cuộc sống hoà bình, đấu tranh chống lại tội ác của quân giặc. 2.2. Sử dụng lược đồ, bản đồ Lịch sử lớp 5, dạng bài sự kiện lịch sử chiếm ưu thế. Nội dung chương trình được học các sự kiện tiểu biểu, vai trò to lớn trong quá trình đấu tranh giữ nước của dân tộc như: Các cuộc khởi nghĩa chống thực dân Pháp đô hộ, Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng tháng tám thành công, Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập, chín năm kháng chiến trường kì chống Pháp, cuộc đấu tranh đánh Mỹ,... Mỗi bài gồm cấu trúc: Bối cảnh lịch sử, nguyên nhân, diễn biến, kết quả và ý nghĩa lịch sử. Nhưng đối với đặc điểm tâm sinh lí học sinh tiểu học thì việc qua kênh chữ để hiểu kiến thức là khó khăn. Vậy để các em nắm bài một cách chủ động thì việc đưa lược đồ, bản đồ để các em khai thác là cần thiết. Đồ dùng cấp phát không có. Lược đồ sách giáo khoa quá nhỏ. Làm thế nào để các em có thể nêu diễn biến của chiến dịch ? Đó là câu hỏi cần được trả lời. Khi giảng dạy, với các bài chiến dịch, trận đánh, tôi thường sử dụng lược đồ bằng cách trình chiếu. Kích thước to, rõ với các mũi tên ẩn, vừa bằng lời thuật vừa bằng hiệu ứng khi trình chiếu, các mũi tên xuất hiện đúng lúc, đúng chỗ sẽ gây hứng thú cho học sinh. Học sinh nắm được thứ tự của trận đánh, tiến quân của ta, rút lui của địch. Ví dụ bài 17 : Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ Diễn biến của chiến dịch, tôi cho học sinh quan sát lược đồ: Chiến dịch Điện Biên Phủ. 9 Lược đồ chiến dịch Điện Biên Phủ Giáo viên có thể gợi mở bằng một số câu hỏi kết hợp trình chiếu lược đồ trên máy chiếu với các mũi tên ẩn. - Chiến dịch được chia làm mấy đợt tấn công? - Đợt 1 từ thời gian nào đến thời gian nào? Ta chiếm được các vị trí nào? Sau khi học sinh trả lời, giáo viên chốt kiến thức qua lược đồ, kết hợp lời giảng với lược đồ động (lần lượt các mũi tên vào Him Lam, đồi Độc Lập, Bản Kéo...) Đợt 2, đợt 3 tương tự. Kết quả, học sinh hiểu bài rất sâu, biết rõ được hướng tấn công của địch, quân ta chặn đánh quân địch và địch đã rút lui ra sao. Học sinh nhớ được thời gian diễn ra từng đợt, kết quả thu được sau mỗi đợt tấn công và ý nghĩa của chiến dịch. Hướng dẫn học sinh dựa vào lược đồ chỉ các đợt tấn công của quân ta trong chiến dich Điện Biên Phủ. (Phụ lục 3) Ví dụ các bài: Thu - Đông năm 1947; Việt Bắc –“ mồ chôn giặc pháp ”; Chiến thắng Biên giới 1950; Tiến vào Dinh Độc lập; ...tôi cũng sử dụng cách làm trên với các lược đồ. 10 Lược đồ chiến dịch Việt Bắc thu – đông 1947 Trong quá trình dạy học lịch sử, bản đồ, lược đồ góp phần không nhỏ cho việc tiếp thu kiến thức của học sinh. Bản đồ thường sử dụng trong các bài có nội dung về nhân vật lịch sử (xác định quê hương, nơi tham gia cách mạng), sự kiện lịch sử (xác định nơi diễn ra sự kiện, chiến dịch, nơi có dấu vết lịch sử còn ghi lại bằng hiện vật), bài có nội dung kinh tế - xã hội (xác định nơi xây dựng nhà máy...). Với các bài: Bình tây đại nguyên soái Trương Định, quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, chiến thắng Điện Biên Phủ,...Tôi đều sử dụng bản đồ, lược đồ để giúp học sinh xác định địa diểm diễn ra sự kiện nay thuộc tỉnh, thành phố nào. Nơi đây còn dấu vết (di tích lịch sử, hiện vật nào còn lưu giữ......) .Tôi đã nghiên cứu kĩ nội dung từng bài học, tìm trên mạng Internet các lược đồ, bản đồ có liên quan đến chiến dịch. Tôi học sinh thảo luận trước khi thực hành trên đèn chiếu. 2.3. Sử dụng video clip Dạng bài video clip là đồ dùng trực quan sinh động có tác dụng không nhỏ đến chất lượng giờ dạy lịch sử. Hình ảnh trong phim, học sinh quan sát, nhận thức được vấn đề. Học sinh được chứng kiến sự kiện đó ngay trước mắt. Hoặc 11 qua nghe bài hát có nội dung gắn với nhân vật, sự kiện lịch sử giúp giờ học bớt căn thẳng, gây hứng thú cho học sinh. Ví dụ bài 10 : Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập Khi quan sát tranh học sinh chỉ hiểu được một phần khí thế của buổi lễ, không thể quan sát hết được khí thế của buổi tuyên ngôn độc lập. Với bài này, cho học sinh xem đoạn phim ghi lại khung cảnh và diễn biến của buổi lễ ngày 2/9/1945 tại thủ đô Hà Nội. Từ đó, học sinh biết được: Tại thủ đô Hà Nội ngày 2/9/1945 đã diễn ra sự kiện trọng đại lịch sử của đất nước Việt Nam như thế nào. Sách giáo khoa chỉ trích đoạn cuối bản tuyên ngôn. Giáo viên kể có hay đến đâu, giọng đọc có hấp dẫn đến mấy cũng không thay được giọng nói Bác Hồ. Biết được ý nghĩa đó, đến hoạt động này tôi cho học sinh xem đoạn phim và nghe giọng đọc Tuyên ngôn Độc lập của Bác. Bác Hồ đọc Tuyên ngôn Độc lập ( Ngày 2 - 9 - 1945 ) Học sinh nhìn thấy hình ảnh Bác mảnh khảnh, khoan thai đứng trên lễ đài, giơ tay vẫy chào đồng bào. Nhất là các em được nghe tiếng nói trầm ấm, triết lý của Bác các em càng thêm yêu quý Bác hơn. Học sinh hiểu nội dung bài đầy đủ, sâu sắc, tạo hứng thú học tập cho học sinh. Ví dụ bài 26: Tiến vào Dinh Độc lập Để hiểu rõ khí thế hào hùng của quân dân ta khi 5 cánh quân tiến vào giải phóng Sài Gòn ngày 30/4/1975 kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi trình chiếu cho học sinh quan sát đoạn phim quân ta tiến vào sân bay Tân Sơn Nhất, tiến vào Dinh Độc Lập... Quân giải phóng tiến vào Quân giải phóng tiến vào 12 sân bay Tân Sơn Nhất Dinh Độc Lập Với những thông tin sách giáo khoa, học sinh tiếp thu kiến thức một cách chủ động nhưng qua hình ảnh và video clip, học sinh như được chứng kiến giờ phút trọng đại của dân tộc, cùng hoà chung trong niềm vui chiến thắng vĩ đại. 2.4. Sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ Do sự phong phú về nội dung của thơ ca, ca dao và tục ngữ, thể hiện được mốc thời gian, nhân vật, sự kiện lịch sử. Nên khi dạy học lịch sử, tôi đã sưu tầm các câu thơ, ca dao, tục ngữ trên mạng Internet [1] để đưa vào bài giảng nhằm giúp học sinh dễ nhớ và nhớ lâu hơn nội dung kiến thức. Để sử dụng thơ, ca dao, tục ngữ trong giờ học lịch sử, tôi đã thiết kế thành những slides để học sinh học. Ví dụ bài 6: Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước Giáo viên khai thác một số câu ca dao, tục ngữ, thơ ca nói về lòng yêu nước, thương dân, mong muốn tìm con đường cứu nước của Nguyễn Tất Thành như: Ăn một miếng ngon cũng đắng lòng vì Tổ quốc Chẳng yên lòng khi ngắm một nhành hoa…. Chế Lan Viên Tháp Mười đẹp nhấtt bông sen Nước Nam đẹp nhất có tên Cụ Hồ Bảo Định Giang Ví dụ bài 7: Đảng cộng sản Việt Nam ra đời Giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao, tục ngữ để củng cố kiến thức bài học. Đó là Nguyễn Ái Quốc là người chủ trì Hội nghị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam hoặc khắc sâu kiến thức về ý nghĩa thành lập Đảng như: Đảng ta sinh ở trên đời Một hòn máu đỏ nên người hôm nay”. Ca dao, tuc ngữ Đảng ở đâu quân thù sợ hãi Như ngồi trên miệng núi lửa phun Ca dao, tục ngữ Qua các câu thơ, đoạn thơ, ca dao, tục ngữ học sinh nhớ các nhân vật, sự kiện lịch sử một cách dễ dàng, đồng thời học sinh rất hào hứng truyền tai nhau các câu thơ, câu ca dao tục ngữ dễ nhớ, dễ thuộc này. Từ đó bài học lịch sử cũng sinh động không còn khô cứng, nhàm chán nữa. Biện pháp 3: Ứng dụng Công nghệ thông tin để thiết kế các trò chơi giúp học sinh hứng thú học tập Trong các tiết học lịch sử để gây được hứng thú học tập, tạo được hiệu quả cao trong tiết học, tránh sự nhàm chán, thay đổi được hình thức tổ chức dạy học, củng cố kiến thức cho học sinh, giáo viên còn phải biết sáng tạo thiết kế những trò chơi phù hợp với từng mảng kiến thức. Các trò chơi được tổ chức theo nhóm với thời gian từ 5 đến 7 phút. Bằng các vật dụng dễ làm, đơn giản, hoặc được thiết kế bằng giáo án điện tử và giáo viên hướng dẫn học sinh cách chơi cụ thể. 13 Trong chương lịch sử lớp 5 với dạng bài nhằm củng cố kiến thức, luyện tập kĩ năng sau bài hình thành kiến thức mới. Loại bài học này nhằm hệ thống hoá và cũng cố lại những kiếm thức đã học cho học sinh sau mỗi một thời kỳ (giai đoạn lịch sử), giúp các em nắm vững kiến thức cơ bản, nhận thức lịch sử một cách sâu sắc, toàn diện hơn. Vì vậy, có thể tổ chức một số trò chơi như sau: Trò chơi 1: "Chọn ô số" Ví dụ bài 18: Ôn tập: Chín năm kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc (1945-1954) - Mục đích: Học sinh nhớ được các nhân vật lịch sử và sự kiện lịch sử tiêu biểu từ năm 1945 đến năm 1954 mà các em đã được học. - Thời gian chơi: 5 phút - Chuẩn bị: 6 bức ảnh về các nhân vật, sự kiện lịch sử có đánh số thứ tự từ 1- 6; 6 bức ảnh được ẩn dưới 6 ô số được trình chiếu trên màn hình. 1 2 3 4 5 6 3 4 14 5 6 - Cách chơi: Giáo viên chia lớp thành 2 đội chơi (có thể chia theo dãy bàn). Các đội bắt thăm để dành quyền ưu tiên trước. Đại diện của đội thứ nhất đứng tại chỗ chọn một số bất kỳ có trên màn hình, giáo viên kích vào ô số học sinh lựa chọn sẽ xuất hiện hình ảnh về nhân vật lịch sử hoặc ảnh về các sự kiện lịch sử, sau đó nhóm thảo luận giới thiệu hình ảnh thể hiện trong tranh mà các em đang được quan sát trên màn hình. Nếu nói đúng thì được 10 điểm, nếu nói sai hoặc chậm thì đội thứ hai được trả lời, nếu đúng thì cũng được 10 điểm. Trong cả hai trường hợp trên thì đội thứ hai được quyền chọn ô tiếp theo. Trò chơi kết thúc khi tất cả các ô số đều được chọn. Đội nào nhiều điểm hơn thì đội đó thắng cuộc. Từ trò chơi, giáo viên sẽ củng cố, mở rộng được một số nhân vật lịch sử và một số sự kiện lịch sử các em đã học. Ngoài ra còn rèn trí nhớ, khả năng phát triển tư duy, kích thích hứng thú học tập cho học sinh. Đáp án: 1: Mít tinh cứu đói năm 1945. 2: Bộ đội giúp dân cấy lúa trong kháng chiến chống Pháp. 3. Lớp học bình dân học vụ. 4. Bộ Chính trị họp thông qua phương án mở chiến dịch Điện Biên phủ (1953). 5. Cờ chiến thắng tung bay trên nóc hầm tướng Đờ Ca-xtơ –ri. 6. Anh Phan Đình Giót lấy thân mình lấp lỗ Châu Mai. Lưu ý: Trò chơi này có thể vận dụng vào các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử như bài: Cuộc phản công ở kinh thành Huế; Quyết chí ra đi tìm đường cứu nước; Đảng cộng sản Việt Nam ra đời; Bác Hồ đọc tuyên ngôn độc lập; Chiến thắng Điện Biên Phủ, Bài ôn tập; ... Trò chơi 2: " Ô chữ" Ví dụ : Ôn tập kiến thức lịch sử lớp 5 - Mục đích: Củng cố kiến thức đã học về giai đoạn lịch sử từ năm 1945 - 1954. - Thời gian chơi: 7 phút - Chuẩn bị: Ô số trên màn hình, mỗi ô số là một câu hỏi. 1 N G À Y Đ Ồ N G T Â M 2 B Ì N H D Â N H Ọ C V Ụ 3 C Ắ M C H Ô N G 4 M Ồ C H Ô N 5 Đ Ô N G K H Ê 6 L A V Ă N C Ầ U 15 7 8 P H A N Đ Ì N H Đ G Ợ T I Ó T - Các ô số : + Ô số 1 gồm 11 chữ cái: Để đẩy lùi giặc đói Bác Hồ tổ chức ngày này ? + Ô số 2 gồm 12 chữ cái: Để đẩy lùi giặc dốt Bác Hồ tổ chức lớp học này ? + Ô số 3 gồm 8 chữ cái: Nhân dân Phú Thọ đã làm gì để chống quân Pháp nhảy dù + Ô số 4 gồm 6 chữ cái: Thu – Đông 1947, Việt Bắc trở thành: “......Giặc Pháp” + Ô số 5 gồm 7 chữ cái:Ngày 16/09/1950, quân ta nổ súng tấn công cứ điểm này + Ô số 6 gồm 8 chữ cái: Tên của người anh Hùng “Chặt cánh tay phá đồn địch”? + Ô số 7 gồm 3 chữ cái: Ngày 01/05/1954, ta mở.... tấn công lần thứ 3 đánh chiếm các cứ điểm còn lại trong chiến dịch Điện Biên Phủ + Ô số 8 gồm 12 chữ cái: Tên của người anh hùng lấy thân mình lấp lổ châu mai ? * Lưu ý: Trò chơi này có thể vận dụng vào tất cả các bài ôn tập và bài củng cố kiến thức sau mỗi bài học. Như vậy, việc đưa các trò chơi vào dạy học lịch sử rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi học sinh tiểu học, vì lứa tuổi này các em rất thích được chơi. Nên các trò chơi thực sự thu hút và lôi cuốn học sinh tham gia học tập bởi hình thức trực quan đẹp, nội dung phong phú gây sự tò mò, ham học hỏi đối với học sinh. Biện pháp 4: Ứng dụng công nghệ thông tin để thiết kế các dạng bài tập trắc nghiệm củng cố kiến thức. Bất kỳ một bài học nào, khi kết thúc bài, phần, chương đều phải củng cố, khắc chốt được cho học sinh những kiến thức trọng tâm. Các dạng bài tập trắc nghiệm để củng cố kiến thức có thể là dạng bài tập đúng sai, dạng bài tập nhiều phương án lựa chọn, dạng bài tập điền từ khuyết,… Khi ứng dụng Công nghệ thông tin để thiết kế các dạng bài tập này một mặt tiết kiệm được thời gian trên lớp của giáo viên và học sinh, một mặt có thể lựa chọn nhiều hình thức tổ chức như: trò chơi, cá nhân, hoặc nhóm,… Ví dụ bài 27: Hoàn thành thống nhất đất nước Tôi có thể thiết kế bài tập trắc nghiệm với hình thức trả lời nhanh: 16 TRẢ LỜI NHANH: CHỌN ĐÁP ÁN ĐÚNG 1 -Thời gian diễn ra cuộc a, Ngày 30-4-1975 Tổng tuyển cử bầu b, Ngày 1-5-1975 Quốc hội của nước c, Ngày 25-4-1976 Việt Nam thống nhất 2 -Kì họp thứ I Quốc hội a,Thăng Long khoá VI quyết định b, Hà Nội Thủ đô là: c, TP Hồ Chí Minh Ví dụ bài 18 : Ôn tập: Chín năm kháng chiến, bảo vệ độc lập dân tộc (1945-1954) Tôi thiết kế bài tập trắc nghiệm nhiều đáp án lựa chọn, theo hình thức trả lời nối tiếp: Câu 1 1 10 00 15 14 13 12 11 9 8 7 6 5 4 3 2 Tình thế thế hiể hiểm nghè nghèo củ của nướ nước ta sau Cách mạ mạng thá tháng 8 thườ thường đượ được diễ diễn tả bằng cụ cụm từ từ nào dướ dưới đây ? A Ngàn cân treo sợi tóc B Cực kì nguy hiểm C Rất nguy hiểm D Vô cùng khốn khổ Các dạng bài tập này rất lôi cuốn học sinh tham ra học tập. Điều này giúp học sinh hứng thú với môn học hơn và khắc sâu kiến thức hơn. Tóm lại, ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy lịch sử, giáo viên phải sưu tầm nhiều tài liệu, linh hoạt trong sử dụng các loại tài liệu nhưng vẫn phải bảo đảm mục tiêu bài dạy. 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm Sau gần một năm nghiên cứu và tổ chức thực hiện, ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử, giáo viên và học sinh thu được những kết quả sau: 17 Giáo viên chủ động được kiến thức bài học, tìm ra được phương pháp dạy học phát huy được tính tích cực, chủ động, sáng tạo của học sinh, khắc phục được cách truyền thụ kiến thức thầy giảng trò nghe. Giáo viên lựa chọn được các hình thức dạy học phù hợp, sử dụng thành thạo việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào bài giảng đạt hiệu quả. Bằng những hình ảnh, thước phim, đoạn video trình chiếu, giáo viên giúp học sinh hiểu được những mốc thời gian, sự việc, sự kiện, nhân vật lịch sử, diễn biến các trận đánh lịch sử đã qua. Học sinh học hiểu bài, lĩnh hội được kiến thức các bài học, tiếp thu bài một cách chủ động, không còn thụ động như trước đây. Các em có hứng thú trong các tiết học., thích tìm hiểu, khám phá các kiến thức lịch sử, phát huy năng lực của bản thân. Học sinh nắm chắc kiến thức lịch sử vững vàng. Các kiến thức lịch sử của đất nước đã in đậm trong tâm trí các em. Đặc biệt, các em không còn ngại học lịch sử như trước kia. Giáo viên cho học sinh làm phiếu khảo sát chất lượng tháng 4 . (Phụ lục 4) Kết quả khảo sát chất lượng cuối tháng 3 phân môn lịch sử lớp 5B, trường Tiểu học Nga Thủy, năm học 2017- 2018 như sau: Tổng số học sinh 26 Điểm 10 – 9 SL % 9 34,6 Điểm 8 – 7 SL % 10 38,5 Điểm 6 - 5 SL % 7 26,9 Điểm dưới 5 SL % 0 0 Từ kết quả trên cho thấy, chất lượng dạy và học lịch sử được nâng lên đáng kể. HS đạt điểm 9, điểm 10 qua bài khảo sát tăng lên, không còn học sinh đạt điểm dưới 5. Các em khắc sâu được các sự kiện lịch sử cũng như các nhân vật lịch sử ngay trong tiết học. Như vậy, có thể nói sau một năm ứng dụng Công nghệ thông tin trong dạy học lịch sử, bước đầu đã mang lại hiệu quả tốt, chất lượng dạy học môn lịch sử đã được nâng cao. 3. Kết luận, kiến nghị 3.1 Kết luận Căn cứ vào kết quả học tập của lớp tôi và thực tế giảng dạy bằng việc ứng dụng Công nghệ thông tin vào dạy lịch sử, bản thân tôi rút ra những kinh nghiệm sau: - Nghiên cứu kĩ nội dung chương trình sách giáo khoa lịch sử 5, lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức dạy học phù hợp cho từng bài. - Chuẩn bị bài dạy chu đáo, nắm chắc nội dung, kiến thức bài học, thiết kế các hoạt động, hình ảnh, video, clip, bài tập trắc nghiệm. - Phải biết kết hợp hài hòa giữa các phương pháp dạy học, giữa trình chiếu tư liệu, sự kiện, nhân vật lịch sử, hình ảnh, video, clip, bài tập với lời giảng khi ứng dụng Công nghệ thông tin, từ đó kích thích học sinh hăng say học tập, tiếp thu được kiến thức bài học. - Ngoài sách giáo khoa giáo viên cần tìm hiểu các thông tin trong các tài liệu tham khảo và trên trên mạng Intenet phục vụ bài dạy. - Phải tâm huyết với nghề, nhiệt tình trong giảng, không ngại khó, tự thiết kế và sử dụng bài giảng điện tử của mình. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan