Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng triết học của tôn trung sơn và ý nghĩa của nó tt...

Tài liệu Tư tưởng triết học của tôn trung sơn và ý nghĩa của nó tt

.PDF
32
152
55

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI TRẦN NGUYNNnNGVInNNỆT HÀ TRỊNH THỊ HẰNG TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TÔN TRUNG SƠN VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ Chuyên ngành: Triết học Mã ngành: 92.29.001 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI, 2020 Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. Phạm Văn Đức PGS.TS Tôn Thị Thảo Miên 2. PGS.TS Nguyễn Thị Bích Thu Phản biện 1: S.TS. Nguyễn Văn Tài Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thế Kiệt Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Minh Hoàn Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện, tại: Học viện Khoa học xã hội, 477 Nguyễn Trãi, Thanh Xuân, Hà Nội Vào hồi giờ ngày tháng năm 2020 Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc gia - Thư viện Học viện DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC ĐÃ CÔNG BỐ 1. Trịnh ThịHằng (2016),Tư tưởng dân chủ của Tôn Trung Sơn, Tạp chí Triết học,số11. 2. Hoàng ThịThơ, Trịnh ThịHằng (2017),Tiền đề tư tưởng phương Đông cho sự hình thành chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn,Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số8. 3. Trịnh ThịHằng (2017),Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn qua Tiến hóa luận, Tạp chí Triết học, số9. 4. Trịnh ThịHằng (2018),Tư tưởng vềtựdo và bình đẳng trong chủnghĩa dân quyền của Tôn Trung Sơn, Tạp chí Triết học, số10. MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận án Tôn Trung Sơn (1866-1925) là nhà cách mạng dân chủ tư sản Trung Quốc cận đại, lãnh tụ của cách mạng Tân Hợi (1911) - cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong kiến tồn tại hàng nghìn năm ở Trung Quốc để lập nên một chế độ mới. Ông cũng là người đưa ra Chủ nghĩa Tam dân với những nội dung cơ bản là dân tộc độc lập, dân quyền tự do và dân sinh hạnh phúc. Những tư tưởng của Chủ nghĩa Tam dân không chỉ có ý nghĩa đối với phong trào cách mạng lúc đó, mà còn có ý nghĩa đối với giai đoạn hiện nay. Tôn Trung Sơn không chỉ là lãnh tụ của phong trào cách mạng, phong trào giải phóng dân tộc của Trung Quốc, mà còn là một nhà cải cách, một nhà tư tưởng, một nhà triết học với nhiều tư tưởng sâu sắc. Trong những năm đầu thế kỷ XX, phong trào cách mạng ở Trung Quốc nói chung, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn nói riêng, đã ảnh hưởng lớn đến phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam lúc đó, ảnh hưởng đến các nhà yêu nước Việt Nam như Phan Bội Châu và Hồ Chí Minh, v.v.. Chủ tịch Hồ Chí Minh trong quá trình hoạt động cách mạng ở Trung Quốc đã từng tiếp xúc với Tôn Trung Sơn. Hồ Chí Minh cũng đánh giá rất cao tư tưởng của Tôn Trung Sơn và “nguyện là học trò nhỏ của Tôn Trung Sơn”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng và phát huy những tư tưởng của Tôn Trung Sơn vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu tư tưởng Tôn Trung Sơn là hết sức quan trọng, không chỉ góp phần làm rõ thêm giai đoạn đầu của cách mạng Việt Nam, mà còn giúp hiểu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu và các nhà cách mạng Việt Nam khác. Ở Đài Loan, Tôn Trung Sơn được xem là “Quốc phụ”, là lãnh tụ vĩ đại của hòn đảo này. Việc tôn thờ Tôn Trung Sơn ở Đài Loan mang ý nghĩa về mặt tinh thần rất lớn đối với người dân nơi đây. Không chỉ vậy, nghiên cứu 1 những học thuyết, tư tưởng của Tôn Trung Sơn, phát huy những giá trị tư tưởng của ông trong xã hội hiện đại luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Bằng chứng là, nhiều viện nghiên cứu, trung tâm nghiên cứu về Tôn Trung Sơn đã được thành lập ở Đài Loan và rất nhiều công trình, sách, các bài nghiên cứu về cuộc đời, tư tưởng, học thuyết, Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn đã được xuất bản. Ở Trung Quốc, thời gian gần đây nổi nên xu hướng nghiên cứu tư tưởng của Tôn Trung Sơn với sự nghiệp hiện đại hóa, cũng như những vấn đề trong xã hội hiện đại. Điều đó cho thấy, tư tưởng của Tôn Trung Sơn ngoài những nội dung tư tưởng cách mạng, còn chứa đựng nhiều giá trị dân chủ, pháp quyền, rất có ý nghĩa đối với giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc phát huy dân chủ, xây dựng nhà nước pháp quyền, v.v.. Ở Việt Nam, Tôn Trung Sơn đã được nhiều nhà nghiên cứu đề cập trên một số phương diện như giới thiệu về cuộc đời, thân thế sự nghiệp, về Chủ nghĩa Tam dân, về cách mạng Tân Hợi, về ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với cách mạng Việt Nam và các nhà cách mạng tiền bối Việt Nam. Tuy nhiên, những nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn còn chưa nhiều, chủ yếu mới chỉ được đề cập một cách lồng ghép trong một số công trình. Với mong muốn đi sâu tìm hiểu tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn, chỉ ra giá trị, ý nghĩa của những tư tưởng đó, nhằm góp phần bổ sung vào việc nghiên cứu về Tôn Trung Sơn ở Việt Nam nói chung, cũng như việc nghiên cứu tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn nói riêng, nghiên cứu sinh đã lựa chọn đề tài “Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và ý nghĩa của nó” làm đề tài luận án tiến sĩ triết học của mình. 2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 2.1. Mục tiêu Nghiên cứu, làm rõ cơ sở hình thành, những nội dung cơ bản của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn, chỉ ra giá trị, ý nghĩa hiện thời của tư tưởng đó. 2.2. Nhiệm vụ Để thực hiện được mục đích nêu trên, luận án có những nhiệm vụ như sau: Thứ nhất, phân tích cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Thứ hai, trình bày và phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Thứ ba, phân tích, đánh giá giá trị và ý nghĩa của tư tưởng Triết học Tôn Trung Sơn, đồng thời chỉ ra ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn nói chung và tư tưởng triết học của ông nói riêng ở Việt Nam. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn và giá trị, ý nghĩa của tư tưởng đó. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án tập trung làm sáng tỏ 3 nội dung cơ bản liên quan đến tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn, đó là: 1/ Tư tưởng triết học tự nhiên của Tôn Trung Sơn trong Tiến hóa luận; 2/ Nhận thức luận của Tôn Trung Sơn trong Thuyết “Tri nan hành dị”; 3/ Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn trong Chủ nghĩa Tam dân. 4. Cơ sở phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở phương pháp luận Luận án dựa trên cơ sở phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, nhất là các nguyên lý của chủ nghĩa Duy vật lịch sử về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về đấu tranh giai cấp, nhà nước và cách mạng, về vai trò của cá nhân trong lịch sử, v.v.. Luận án cũng dựa trên những thành quả nghiên cứu, những quan điểm khoa học đã được thừa nhận của các nhà nghiên cứu đi trước về tư tưởng Tôn Trung Sơn nói chung, tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn nói riêng. Luận án cũng dựa trên các lý thuyết nghiên cứu, các cách tiếp cận phù hợp với đề tài luận án. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Về các phương pháp cụ thể, luận án sử dụng một hệ thống các phương pháp phổ biến trong nghiên cứu khoa học như: Tổng hợp, phân tích, diễn dịch, quy nạp, so sánh, đối chiếu, lôgíc và lịch sử,… 5. Đóng góp mới của luận án Thứ nhất, luận án góp phần phân tích, làm rõ cơ sở hình thành tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Thứ hai, luận án trình bày một số nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn như: 1/ Tư tưởng triết học tự nhiên của Tôn Trung Sơn trong Tiến hóa luận; 2/ Nhận thức luận của Tôn Trung Sơn trong Thuyết “Tri nan hành dị”; 3/ Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn trong Chủ nghĩa Tam dân. Thứ ba, luận án phân tích, chỉ ra giá trị và ý nghĩa tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn; chỉ ra ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn nói chung và tư tưởng triết học của ông nói riêng ở Việt Nam. 5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án góp phần nghiên cứu một cách cơ bản, toàn diện về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn, đồng thời chỉ ra hạn chế và ý nghĩa của nó đối với cách mạng Trung Quốc giai đoạn cận đại, cũng như làm rõ những ảnh hưởng của nó ở Việt Nam. Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy và cho những người quan tâm đến vấn đề này. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu nội dung chính của luận án gồm 4 chương, 14 tiết. CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÁC VẤN ĐỀ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN 1.1. Những công trình nghiên cứu liên quan đến bối cảnh xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn Có thể kể ra một số công trình nghiên cứu có liên quan đến bối cảnh xã hội và tiền đề tư tưởng cho sự hình thành tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn như sau: Bài viết Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân của tác giả Phan Văn Các (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2006); cuốn Ba vĩ nhân Trung Quốc của thế kỷ XX của Thi Hữu Tùng (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2009); bài viết Tôn Trung Sơn xây dựng các tổ chức cách mạng trong cộng đồng người Hoa và Hoa kiều ở Việt Nam (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2011) và bài viết Về nguyên nhân Tôn Trung Sơn đến Việt Nam tiến hành các hoạt động cách mạng (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 4/2015) của tác giả Nguyễn Thị Hương;… Nhìn chung, các công trình trên đã giúp chúng ta ôn lại ôn lại tiểu sử và tư tưởng của nhà yêu nước, nhà cách mạng dân chủ vĩ đại Tôn Trung Sơn; đã đề cập, phân tích và luận giải một cách khách quan, khoa học về cuộc đời, sự nghiệp hoạt động cách mạng cùng tư tưởng, phẩm chất và cá tính của ba nhân vật vĩ đại đã làm nên lịch sử Trung Quốc thế kỷ XX, trong đó có Tôn Trung Sơn;… giúp chúng thấy được bức tranh toàn cảnh về ảnh hưởng và vai trò của Tôn Trung Sơn đến quá trình xây dựng các tổ chức cách mạng ở Việt Nam.. 1.2. Những công trình nghiên cứu liên quan đến tư tưởng của Tôn Trung Sơn nói chung và tư tưởng triết học của ông nói riêng Thứ nhất, các công trình nghiên cứu về tư tưởng của Tôn Trung Sơn nói chung. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: Bài viết Tìm hiểu “chủ nghĩa dân quyền” của Tôn Trung Sơn (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2001) của Nguyễn Huy Quý; bài viết Tư tưởng cận đại hóa của Tôn Trung Sơn – Quá trình hình thành, phát triển của tác giả Đào Duy Đạt (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2006); bài viết Từ Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đến tư tưởng xã hội chủ nghĩa hài hòa của Hồ Cẩm Đào của PGS.TS. Trần Lê Bảo (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 7/2007); bài viết Tìm hiểu “chủ nghĩa dân quyền” của Tôn Trung Sơn của Nguyễn Huy Quý (in trong cuốn Nguyễn Huy Quý, Nghiên cứu Trung Quốc học - Những bài viết chọn lọc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2008); bài viết Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng dân sinh của Tôn Trung Sơn của GS.TS. Nguyễn Tài Thư (Tạp chí Triết học, số 12/2008); bài viết Tư tưởng dân chủ trong xã hội Trung Quốc thời kỳ cận đại của tác giả Nhâm Thị Thanh Lý (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 9/2010);… Nhìn chung, các công trình trên đã phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Tôn Trung Sơn qua Chủ nghĩa Tam dân, như tư tưởng dân quyền, tư tưởng dân sinh, tư tưởng dân chủ, tư tưởng cận đại hóa, v.v.. Thứ hai, các công trình nghiên cứu về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: Tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn (孙中山哲学思想) của Vương Học Hoa do Nxb Nhân dân Thượng Hải xuất bản năm 1960; Đề tài khoa học cấp Bộ năm 2009 do PGS,TS. Nguyễn Tài Đông làm chủ nhiệm có tên Tư tưởng triết học cơ bản của Tôn Trung Sơn trong chủ nghĩa tam dân và ảnh hưởng của nó tới Việt Nam; cuốn Trung Quốc tư tưởng sử luận (中国思想史论) của tác giả Lý Trạch Hậu (Người dịch: Nguyễn Quang Hà), Nxb Thế giới, Hà Nội, 2015;… Các công trình trên đã tập trung phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn, như: Luận tiến hóa và thuyết “sinh nguyên”, học thuyết “tri nan, hành dị” và quan điểm lịch sử về vấn đề dân sinh. Trong đó, đáng chú ý nhất là cuốn Tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn (孙中山哲学思想) của Vương Học Hoa. Đây được xem là một trong số ít công trình chuyên về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn được dịch ra tiếng Việt 1.3. Những công trình nghiên cứu, đánh giá về giá trị, ý nghĩa tư tưởng của Tôn Trung Sơn và ảnh hưởng của nó đối với Việt Nam Có thể kể ra một số công trình tiêu biểu như sau: Bài viết Mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và Cách mạng Tân Hợi Trung Quốc với Phan Bội Châu và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (trích trong bản thảo cuốn Lịch sử quan hệ Trung – Việt thời cận đại) (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2001) của tác giả Chương Thâu; cuốn Cách mạng Tân Hợi – 90 năm sau nhìn lại (1911-2001) của Trung tâm Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Trung Tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia (nay là Viện Nghiên cứu Trung Quốc thuộc Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam) (Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002); bài viết Tôn Trung Sơn với Việt Nam (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 6/2005), tác giả Chương Thâu; bài viết Tôn Trung Sơn – Hồ Chí Minh: Mối đồng cảm lịch sử và thời đại (Tạp chí Nghiên cứu Trung Quốc, số 5/2006) của tác giả Nguyễn Văn Hồng; cuốn sách Tôn Trung Sơn – Cách mạng Tân Hợi và quan hệ Việt Nam – Trung Quốc của Viện Nghiên cứu Trung Quốc – Viện Khoa học xã hội Việt Nam (nay là Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam), (Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008); bài viết Vấn đề dân sinh trong chủ trương xây dựng xã hội hài hòa của Trung Quốc và chiến lược phát triển bền vững của Việt Nam của GS.TS. Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học, số 11/2008); Bài viết V.I.Lênin với Chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn của Nguyễn Năng Nam (Tạp chí Triết học, số 4/2009); bài viết Ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân đối với Hồ Chí Minh của tác giả Lê Thị Tình (Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 8/2015);… Nhìn chung, các công trình trên đã trình bày sơ lược mối quan hệ giữa Tôn Trung Sơn và cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX, thể hiện ở những ảnh hưởng của cách mạng Trung Quốc do Tôn Trung Sơn lãnh đạo đối với cách mạng Việt Nam, đối với các nhà cách mạng tiền bối của Việt Nam. 1.4. Nhận xét chung về các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu Thứ nhất, các công trình vừa nêu ở trên đã đề cập đến rất nhiều nội dung tư tưởng của Tôn Trung Sơn: Tư tưởng cận đại, tư tưởng chính trị, tư tưởng dân chủ, tư tưởng khoa học, giáo dục, quân sự, tư tưởng đối ngoại, tư tưởng kiến thiết xã hội, v.v.. Nhiều công trình thông qua nghiên cứu về chủ nghĩa Tam dân đã phân tích tư tưởng của Tôn Trung Sơn về chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa dân quyền và chủ nghĩa dân sinh. Qua các công trình này, người đọc thấy được những nội dung phong phú trong tư tưởng Tôn Trung Sơn, không chỉ thấy được tầm vóc của một nhà tư tưởng có tinh thần đổi mà còn là một nhà cách mạng, một lãnh tụ của cuộc cách mạng Tân Hợi. Bên cạnh đó, nhiều công trình đã đề cập đến ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn, cách mạng Tân Hợi, Chủ nghĩa Tam dân đến phong trào cách mạng và các nhà tư tưởng của Việt Nam giai đoạn cận đại, v.v.. Hầu hết các công trình đều khẳng định rằng, Tôn Trung Sơn và cuộc cách mạng Tân Hợi có ảnh hưởng to lớn đến cách mạng Việt Nam, ảnh hưởng đến các nhà cách mạng Việt Nam như Phan Bội Châu, Hồ Chí Minh… Nhiều bài viết đã phân tích những biểu hiện trong tư tưởng, trong đường lối cách mạng của Hồ Chí Minh thể hiện sự ảnh hưởng từ Tôn Trung Sơn, từ Chủ nghĩa Tam dân. Thứ hai, ở Việt Nam, mặc dù đã có rất nhiều công trình nghiên cứu về tư tưởng của Tôn Trung Sơn, tuy nhiên những công trình chuyên sâu về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn lại khá khiêm tốn. Nhiều công trình có đề cập đến tư tưởng triết học của ông nhưng dung lượng chưa lớn, hầu hết nội dung của các công trình này còn tương đối đơn giản, chưa có sự phân tích sâu, còn thiếu tính hệ thống. Thứ ba, ở Việt Nam, cho đến thời điểm hiện nay, chưa có một tác phẩm chuyên khảo nào nghiên cứu một cách hệ thống và khái quát về tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn. Các công trình nghiên cứu về Tôn Trung Sơn chủ yếu bàn về Tôn Trung Sơn và Chủ nghĩa Tam dân, Tôn Trung Sơn với cách mạng Tân Hợi, ảnh hưởng của Tôn Trung Sơn đối với các nhà yêu nước Việt Nam cuối thế kỷ XIX, v.v., đặc biệt, các công trình này đa phần được thể hiện trên các bài báo, tạp chí. Vì vậy, đây là một khó khăn cho việc thực hiện đề tài, nhưng đồng thời cũng là một thuận lợi để đề tài có thể đóng góp một phần trong việc nghiên cứu tư tưởng Tôn Trung Sơn nói chung, tư tưởng triết học của ông nói riêng. Đề tài cũng mong muốn góp phần khai thác những giá trị tích cực trong tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn để từ đó vận dụng trong sự nghiệp xây dựng đất nước ta hiện nay. Thứ tư, qua việc tổng quan các công trình nghiên cứu của các học giả đi trước, trên cơ sở kế thừa, phát triển những kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận án sẽ tiếp tục đi sâu nghiên cứu tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn, nhất là tư tưởng Tiến hóa luận, tư tưởng Tri nan hành dị, tư tưởng dân chủ, tư tưởng về quyền con người. Trên cơ sở nghiên cứu sâu hơn và hệ thống hóa tư tưởng Triết học của Tôn Trung Sơn, luận án chỉ ra giá trị và ý nghĩa của tư tưởng triết học Tôn Trung Sơn đối với xã hội hiện nay. CHƯƠNG 2: CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TÔN TRUNG SƠN 2.1. Bối cảnh xã hội Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX Trung Quốc giai đoạn từ cuối thế kỷ XIX đến đầu thế kỷ XX là giai đoạn tiến hành cuộc cách mạng dân chủ cũ do giai cấp tư sản lãnh đạo nhằm mục đích chống lại sự xâm lược của các thế lực bên ngoài (đế quốc phương Tây) và lật đổ sự thống trị của chế độ phong kiến ở Trung Quốc, với mục đích chính trị là xây dựng chính quyền nhà nước chuyên chính của giai cấp tư sản, mục tiêu của cuộc cách mạng là nhằm phát triển chủ nghĩa tư bản, trong đó cuộc cách mạng Tân Hợi năm 1911 là cuộc cách mạng dân chủ kiểu cũ đầu tiên có ý nghĩa hết sức quan trọng. 2.2. Nguồn gốc lý luận cho sự hình thành và phát triển tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn 2.2.1. Những quan niệm về quốc gia, dân tộc, nhà nước trước Tôn Trung Sơn Trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc, quan niệm về quốc gia, dân tộc, nhà nước đã có từ rất sớm. Từ thời cổ đại, Trung Quốc đã có nhiều tư tưởng về chính trị xã hội như các học thuyết chính trị của Lão, Mặc, Khổng, Pháp gia… rất nổi tiếng, và mỗi học thuyết đều chỉ ra mục đích của việc xây dựng một quốc gia lý tưởng. Chẳng hạn”, học thuyết “Vô vi” của Lão Tử đã phác họa mô hình “nước nhỏ, dân ít”; học thuyết “Đức trị” của Khổng Tử nhắc đến xã hội “tiểu khang, đại đồng” ; thuyết “Kiêm ái” của Mặc Tử với chủ trương xây dựng một quốc gia lý tưởng “chính bình dân an”; phái Pháp gia thiết kế mô hình quốc gia lý tưởng là “quốc cường quân tôn”;… 2.2.2. Những quan niệm về dân quyền của các nhà tư tưởng trước Tôn Trung Sơn Từ thời cổ, Mạnh Tử đã có ý tưởng manh nha về “dân ý” khi cho rằng, trọng dân ý là luôn lấy quan điểm của người dân để xét về chính trị, nhưng vẫn phải có giới hạn về đẳng cấp. Đến thời Minh - Nguyên, Lưu Cơ phát triển tư tưởng lấy “dân làm gốc” thành nguyên tắc tối cao trong trị quốc. Tới đời Thanh, Khang Hữu Vi tin rằng, đó là một trong những nền tảng để đạt tới thế giới đại đồng. 2.2.3. Những quan niệm về dân sinh trước Tôn Trung Sơn Về tư tưởng “dân sinh”, Tôn Trung Sơn tiếp thu nhiều ý tưởng của các nhà tư tưởng trước ông, chẳng hạn: Lão Tử với tư tưởng làm cho dân “đầy cái bụng” (thực kỳ phúc); Khổng Tử với tư tưởng quý dân; Mạnh Tử với tư tưởng “cùng dân”; Tuân Tử với tư tưởng “vị dân”; phái Pháp gia với tư tưởng dưỡng dân; tư tưởng trọng dân của Hoàng Tôn Di (cuối đời Minh đầu đời Thanh). 2.3. Con người và sự nghiệp hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn Tôn Trung Sơn có tên là Văn, tự là Dật Tiên, xuất thân trong một gia đình nông dân nghèo tại thôn Thuý Hanh, huyện Hương Sơn (nay là thành phố Trung Sơn), tỉnh Quảng Đông. Từ nhỏ ông đã tham gia lao động làm ruộng và sớm thấy được nỗi vất vả của người nông dân. Tôn Trung Sơn ngay từ thời kỳ còn là thiếu niên đã vô cùng căm hận những thói hư tật xấu tồn tại trong xã hội phong kiến Trung Quốc. Khi lớn lên, Tôn Trung Sơn đã có cơ hội được ra nước ngoài học tập. Trong thời gian học tập tại nước ngoài, ông đã bền bỉ học tập, thu hoạch được rất nhiều và có hệ thống những tri thức về khoa học tự nhiên; đặc biệt, có điều kiện khảo sát tình hình kinh tế - chính trị của các nước Âu – Mỹ, tiếp xúc với nền dân chủ tư sản phương Tây, bị thuyết phục bởi những khẩu hiệu “tự do, bình đẳng, bác ái” của phương Tây. Với mong muốn cải tạo xã hội Trung Quốc cũ, sau khi trở về Trung Quốc, ông đã vận dụng một cách sáng tạo những kiến thức mà ông đã học được ở nước ngoài vào trong quá trình hoạt động cách mạng của mình. Tiểu kết chương 2 Vào giai đoạn cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chế độ phong kiến Trung Quốc vốn tồn tại hàng nghìn năm bắt đầu suy yếu và đứng trước nguy cơ tan rã, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa đang dần hình thành dẫn đến những mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, cũng như mâu thuẫn giữa những lực lượng, tầng lớp trong xã hội, đặc biệt là tầng lớp tư sản cấp tiến với tầng lớp quan lại phong kiến bảo thủ. Không những vậy, Trung Quốc lại phải đối phó với sự xâm lược của thực dân phương Tây. Cuộc chiến tranh Nha phiến là một trong những biểu hiện của mối quan hệ giữa Trung Quốc với các nước tư bản phương Tây. Bối cảnh xã hội Trung Quốc giai đoạn cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX đặt ra yêu cầu cho việc tìm kiếm con đường để giải phóng Trung Quốc, mà hạt nhân của con đường ấy chính là hệ tư tưởng lý luận để làm kim chỉ nam, dẫn đường giải phóng Trung Quốc. Tôn Trung Sơn là người sống trong bối cảnh Trung Quốc lúc đó, tất cả những diễn biến của xã hội Trung Quốc lúc đó đã tác động mạnh mẽ đến ông, thôi thúc ông đi tìm con đường giải phóng Trung Quốc. Là người được hấp thụ hai nền giáo dục là nho giáo truyền thống của Trung Quốc và nền giáo dục phương Tây, cộng thêm cơ hội được tiếp xúc với các tác phẩm của phương Tây, có được những nhận thức về dân chủ, tự do, bình đẳng, v.v. đã hình thành trong tư tưởng Tôn Trung Sơn những phác thảo ban đầu về tư tưởng, đường lối giải phóng Trung Quốc. Trong quá trình tìm tòi, xây dựng hệ tư tưởng cứu nước, Tôn Trung Sơn cũng đã nghiên cứu các học thuyết tư tưởng, các nền triết học truyền thống như Nho gia, Mặc gia,… đồng thời tiếp thu những quan niệm về quốc gia, dân tộc, về dân quyền, dân sinh, về thế giới đại đồng; về tư tưởng trọng dân, lấy dân làm gốc, v.v. trong truyền thống Trung Quốc. Đồng thời, ông cũng đã kết hợp những tư tưởng về tự do, bình đẳng của phương Tây với những tư tưởng truyền thống Trung Quốc để hình thành nên tư tưởng triết học của riêng mình. CHƯƠNG 3: TƯ TƯỞNG TRIẾT HỌC CỦA TÔN TRUNG SƠN 3.1. Tư tưởng triết học tự nhiên của Tôn Trung Sơn trong Tiến hóa luận 3.1.1. Về nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ Tôn Trung Sơn cho rằng, tiến hóa là quy luật phổ biến của vạn vật trong vũ trụ. Ông cho rằng, sự hình thành và phát triển của vũ trụ chính là quá trình tiến hóa vật chất, là quá trình lịch sử phát triển thế giới vật chất. Ông phân chia quá trình tiến hóa vũ trụ thành 3 thời kỳ như sau: Thời kỳ thứ nhất là thời kỳ tiến hóa vật chất; thời kỳ thứ hai là thời kỳ tiến hóa giống loài; thời kỳ thứ ba là thời kỳ tiến hóa của nhân loại. 3.1.2. Mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần Về mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, Tôn Trung Sơn thừa nhận vật chất có trước, tinh thần có sau, không thể tách rời vật chất để xem xét tinh thần, tinh thần có tác động trở lại đối với vật chất. 3.2. Nhận thức luận của Tôn Trung Sơn qua thuyết “Tri nan hành dị” 3.2.1. “Hành tiên tri hậu” (Làm trước biết sau) “Hành tiên tri hậu” là đặc điểm cơ bản trong nhận thức luận duy vật của Tôn Trung Sơn, cũng là nền tảng cho học thuyết “tri nan hành dị” của ông. Tôn Trung Sơn đã dẫn ra một loạt những sự kiện lịch sử, các hoạt động thực tế của cuộc đấu tranh giai cấp và lịch sử tiến bộ văn minh của nhân loại để luận chứng cho quá trình nhận thức của con người là “làm trước biết sau”. Có thể nói, “làm trước biết sau” là nội dung cơ bản, hạt nhân hợp lý của thuyết “tri nan hành dị”. Áp dụng quan điểm này vào thực tiễn hoạt động cách mạng, Tôn Trung Sơn đặc biệt nhấn mạnh, chỉ khi nào trực tiếp tham gia đấu tranh cách mạng, thì khi đó mới có thể hiểu được quy luật và nguyên nhân dẫn đến thành công hay thất bại của cách mạng. Điều này cho thấy, theo Tôn Trung Sơn, nguyên tắc quan trọng nhất là xuất phát từ thực tiễn, là thái độ thực sự cầu thị và tinh thần sáng tạo. Điều đáng chú ý, Tôn Trung Sơn hoàn toàn không phải là người sùng bái học thuyết Mác, nhưng ông lại đồng tình với “phương pháp khoa học” của Mác khi cho rằng phải xuất phát từ thực tiễn xã hội để nghiên cứu các vấn đề của xã hội. 3.2.2. “Bất tri diệc năng hành” (Không biết vẫn có thể làm) Tôn Trung Sơn nhiều lần nói rằng con người muốn nhận thức một cách đúng đắn đối với thế giới khách quan thì tất yếu phải thông qua quan sát và thí nghiệm khoa học; hơn nữa muốn có được tri thức trên phương diện lịch sử xã hội thì tất yếu phải thông qua đấu tranh cách mạng và các hoạt động chính trị xã hội khác. Quan sát và thí nghiệm khoa học, thực tiễn cách mạng của giai cấp tư sản chính là nội dung quan trọng của “hành” mà ông nói đến, và đây cũng là phương pháp để có được tri thức. Tôn Trung Sơn còn cho rằng, bất kỳ nguyên lý hay lý luận nào cũng đều cần phải thông qua “hành” mới có thể biết được nó là đúng hay sai. Điều này chứng tỏ rằng, Tôn Trung Sơn đã bước đầu nhận thức được “hành” là tiêu chuẩn kiểm nghiệm chân lý, “hành” là mục đích của nhận thức. Quan điểm này của ông khá tương đồng với quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng khi xem thực tiễn là tiêu chuẩn để kiểm nghiệm chân lý. 3.2.3. “Năng tri tất năng hành” (Có thể biết nhất định có thể làm) Tôn Trung Sơn đã tiếp cận được phép biện chứng khi giải quyết vấn đề mối quan hệ giữa “tri” và “hành, chỉ ra rằng nhận thức của nhân loại không ngừng tiến về phía trước trong quá trình “lấy hành để cầu tri, vì tri mà thực hiện hành”, “hành từ không có tri đến có tri”, “vì đã có tri nên càng cần phải thực hiện hành”. Tôn Trung Sơn ra sức nhấn mạnh tác dụng quan trọng của “tri”, khẳng định rằng, nếu xa rời những tri thức khoa học thì văn minh nhân loại sẽ không thể tiến bộ được, từ đó cho thấy ông đã khẳng định và đánh giá cao tác dụng chỉ đạo của “tri” đối với “hành”. Tôn Trung Sơn đề cao tác dụng chỉ đạo của lý luận cách mạng đối với thực tiễn cách mạng. Ông cho rằng, “tri thức của cách mạng” là vũ khí tư tưởng của cách mạng, “nền tảng của cách mạng nằm ở chỗ học vấn uyên thâm”, muốn cho cách mạng của Trung Quốc giành được thắng lợi thì tất yếu phải có sự chỉ đạo của lý luận cách mạng đúng đắn, đồng thời phải tiến hành từng bước và có kế hoạch.. 3.2.4. “Tri hành phân nhiệm” (sự phân công giữa biết và làm) Tôn Trung Sơn đã tách biệt “tri” với “hành”, điều này mâu thuẫn với quan điểm “lấy việc làm mà tìm biết, rồi do biết để tiến lên làm” do chính ông đưa ra. Ông đã cường điệu thái quá vai trò của những cá nhân đặc biệt, gọi họ là “nhà phát minh”, “tiên tri tiên giác”; đồng thời coi quần chúng nhân dân là những “người thực hành”, “bất tri bất giác”, ông chưa nhận thức được chính thực tiễn xã hội của quần chúng nhân dân mới là cái nguồn của tri thức chân chính, lấy mãi không hết, dùng mãi không cạn. Do đó, ông cho rằng, “tri” và “hành” phải có sự phân định rõ ràng – “người biết bất tất phải tự làm, người làm bất phải tự biết” (người biết thì không cần phải tự làm, người làm thì không cần phải tự biết). 3.3. Tư tưởng triết học chính trị - xã hội của Tôn Trung Sơn trong Chủ nghĩa Tam dân 3.3.1. Tư tưởng dân chủ Tư tưởng dân chủ là một trong những tư tưởng quan trọng của Tôn Trung Sơn, là kim chỉ nam cho cách mạng dân chủ ở Trung Quốc giai đoạn cận đại, góp phần thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa Trung Quốc. Tư tưởng này được hình thành trên cơ sở kế thừa, phát huy tư tưởng “dân là gốc” (dân vi bản) của Nho giáo trong lịch sử văn hóa truyền thống Trung Quốc và các mô hình dân chủ ở các nước Âu Mỹ, đồng thời kết hợp với tình hình cụ thể của Trung Quốc. Tư tưởng này đã dần dần được bổ sung và hoàn thiện trong quá trình lãnh đạo cách mạng của Tôn Trung Sơn, do đó, nó hàm chứa nhiều nội dung sâu sắc như: Tư tưởng về quyền làm chủ của nhân dân, lý luận về trình tự thực hiện cách mạng, hiến pháp ngũ quyền và quyền năng phân trị. 3.3.2. Tư tưởng về tự do và bình đẳng Tư tưởng về tự do và bình đẳng là bộ phận cấu thành chủ nghĩa dân quyền của Tôn Trung Sơn. Về tư tưởng tự do, Tôn Trung Sơn đề cao tự do của quốc gia hơn tự do của cá nhân, thậm chí tự do của cá nhân phải phục vụ tự do của quốc gia. Về tư tưởng bình đẳng, ông không cho rằng con người sinh ra đều bình đẳng như nhau, ngược lại, con người sinh ra đã có sự bất bình đẳng. Để đạt được bình đẳng, theo ông, con người phải cố gắng, nỗ lực để đạt được. Một trong những điểm sáng trong tư tưởng của Tôn Trung Sơn về bình đẳng là đề cao bình đẳng nam nữ hay bình đẳng giới. Không những thế, ông còn ra sức hành động để hiện thực hóa quyền bình đẳng giới này. Tiểu kết chương 3 Chương 3 là chương trọng tâm của luận án, nội dung chương này đề cập đến một số tư tưởng triết học cơ bản của Tôn Trung Sơn như tư tưởng triết học tự nhiên, tư tưởng nhận thức luận, tư tưởng triết học chính trị. Trong tư tưởng triết học tự nhiên, Tôn Trung Sơn đã đề cập đến các vấn đề như nguồn gốc và sự tiến hóa của vũ trụ; mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần. Ông cho rằng, tiến hóa là quy luật phổ biến của vạn vật trong vũ trụ; sự hình thành và phát triển của vũ trụ chính là quá trình tiến hóa của vật chất, là quá trình lịch sử phát triển thế giới vật chất. Ông đã phân chia lịch sử phát triển của tự nhiên và con người thành 3 giai đoạn hay 3 thời kỳ: Thời kỳ tiến hóa của vật chất; thời kỳ tiến hóa của giống loài; thời kỳ tiến hóa của nhân loại. Có thể nói, do chịu ảnh hưởng của học thuyết Đác Uyn, Tôn Trung Sơn đã đưa ra cách lý giải lịch sử phát triển của nhân loại dựa trên các nguyên lý của học thuyết tiến hóa. Cách lý giải này cho thấy tư tưởng của Tôn Trung Sơn mang những đặc điểm của chủ nghĩa duy vật. Khi bàn về mối quan hệ giữa vật chất và tinh thần, Tôn Trung Sơn cho rằng, vật chất có trước, tinh thần có sau, vật chất quyết định tinh thần, nhưng ở chiều ngược lại, tinh thần có sự tác động trở lại đối với vật chất. Khi liên hệ tư tưởng này với thực tiễn cách mạng, Tôn Trung Sơn hết sức đề cao vai trò của ý chí, của tinh thần. Một trong những điểm đặc sắc trong tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn chính là khi ông bàn đến thuyết “tri nan hành dị”. Đây được xem là tư tưởng của ông về nhận thức. Nội dung đầu tiên trong thuyết “tri nan hành dị” là “làm trước biết sau” (hành tiên tri hậu). Đây được xem là đặc điểm cơ bản trong nhận thức luận duy vật của Tôn Trung Sơn, cũng là nền tảng cho học thuyết “tri nan hành dị” của ông. Nội dung thứ hai là “Bất tri diệc năng hành” (Không biết vẫn có thể làm); nội dung thứ ba là “Năng tri tất năng hành” (Có thể biết nhất định có thể làm); nội dung cuối cùng là “Tri hành phân nhiệm” (sự phân công giữa biết và làm). Trong triết học chính trị của Tôn Trung Sơn, ông đã đề cập đến những tư tưởng về dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân, về quyền năng phân trị, về hiến pháp ngũ quyền… Trong nội dung này, ông cũng trình bày những tư tưởng về tự do, bình đẳng, bác ái. Có thể thấy, tư tưởng triết học của Tôn Trung Sơn không chỉ chịu sự ảnh hưởng từ các hệ tư trưởng truyền thống Trung Quốc, mà còn chịu ảnh hưởng khá rõ nét từ các trường phái, trào lưu tư tưởng, triết học phương Tây.
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan