Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng hồ chí minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và ý nghĩa của nó ...

Tài liệu Tư tưởng hồ chí minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và ý nghĩa của nó đối với việt nam hiện nay

.PDF
90
21
52

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ NGỌC DUYÊN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học HÀ NỘI - 2017 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ĐỖ THỊ NGỌC DUYÊN TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chủ nghĩa xã hội khoa học Mã số: 60 22 03 08 Người hướng dẫn khoa học: Tiến sĩ Nguyễn Xuân Trung HÀ NỘI - 2017 MỤC LỤC MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 2 CHƢƠNG 1: TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ ....................................................................... 10 1.1. Cơ sở hình thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế ............................................................................................................. 10 1.2. Nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế ...................................................................................................................... 25 Chƣơng 2: Ý NGHĨA CỦA TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ ĐỐI VỚI VIỆT NAM HIỆN NAY ... 46 2.1. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế ...................................................................................... 46 2.2. Sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế của Việt Nam hiện nay ................................................................................. 63 KẾT LUẬN ...................................................................................................... 74 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................ 76 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế là một trong những nội dung quan trọng trong di sản tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, góp phần làm nên phong cách đặc trƣng tiêu biểu cũng nhƣ đƣờng lối đối ngoại mẫu mực của Ngƣời. Tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh, trong đó có tƣ tƣởng về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế thực sự là kho tàng lý luận, là cẩm nang cho hoạt động quan hệ quốc tế của Đảng và ngoại giao của Nhà nƣớc. Cả lý luận và thực tiễn đều cho thấy, độc lập, tự chủ là một yêu cầu nội tại của mọi quốc gia, dân tộc với tính cách là một chủ thể chính trị - pháp lý. Bởi vậy, nó trở thành một trong những nguyên tắc căn bản nhất trong tổ chức và hoạt động của nhà nƣớc, cả trên bình diện đối nội và đối ngoại. Quan hệ quốc tế thể hiện sự tham gia của quốc gia, dân tộc vào quá trình toàn cầu hóa với tính cách là một xu thế tất yếu trong thế giới hiện đại. Độc lập, tự chủ và quan hệ quốc tế đều mang tính khách quan, phản ánh những tất yếu của quốc gia, dân tộc trong thời đại hiện nay. Nhƣng ở mặt khác, độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế lại phụ thuộc vào các hoạt động đối nội và đối ngoại của nhà nƣớc, cho nên sự thành bại của chúng lại phụ thuộc trƣớc hết vào chế độ xã hội, đảng cầm quyền và chính quyền ở mỗi nƣớc. Ý nghĩa thiết thực của vấn đề độc lập, tự chủ của quốc gia dân tộc đã đƣợc Đảng ta nhận thức và khẳng định trong các văn kiện của Đảng, đặc biệt là trong Cƣơng lĩnh (bổ sung, phát triển năm 2011). Cƣơng lĩnh đã nêu lên các phƣơng hƣớng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nƣớc ta và chỉ rõ: Trong quá trình thực hiện các phƣơng hƣớng cơ bản đó, phải đặc biệt chú trọng nắm vững và giải quyết 8 mối quan hệ lớn, mà trong đó có mối quan hệ giữa độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế. 2 Trong bối cảnh toàn cầu hóa diễn ra ngày càng sâu rộng hơn, thế giới ngày càng “phẳng” hơn, các quốc gia không thể chỉ là những cá thể độc lập, tự chủ mà còn phải là những mắt xích chặt chẽ trong mạng lƣới liên kết với vô vàn những mối liên hệ khác nhau, từ chính trị, kinh tế, văn hóa, giáo dục… Trong mạng lƣới liên kết này, quyết định và hành động của một quốc gia, ngay cả khi chúng chỉ mang tính chất nội bộ, cũng tạo ra các hậu quả trực tiếp và gián tiếp đến các quốc gia khác và cộng đồng quốc tế. Trong bối cảnh đó, các quan niệm truyền thống về chủ quyền dân tộc, độc lập, tự chủ, lợi ích quốc gia, trách nhiệm quốc tế… cần đƣợc xem xét trong một không gian rộng hơn, tầm nhìn dài hạn và đa diện hơn. Bên cạnh đó, các quốc gia cũng nằm trong những khuynh hƣớng hội nhập mới và đòi hỏi sự tích cực, chủ động nhiều hơn. Với Việt Nam, những thành tựu đạt đƣợc của hoạt động đối ngoại đã đƣa nƣớc ta hội nhập nhanh chóng vào nhiều tổ chức kinh tế toàn cầu (WHO, APEC...), thiết lập mối quan hệ đa phƣơng hóa, đa dạng hóa với các nƣớc trên thế giới. Tuy nhiên, giai đoạn 2016 - 2020 cũng đƣợc xem là giai đoạn chứa nhiều khó khăn hơn thuận lợi nếu nhƣ nƣớc ta không tận dụng đƣợc thời cơ để phát huy nội lực. Trƣớc vận hội lớn của thời cuộc, Việt Nam cần xác định rõ mục tiêu, con đƣờng và biện pháp thực hiện để vừa hòa nhập và tiến bộ cùng các nƣớc khác trên thế giới, vừa giữ vững, phát huy đƣợc thế độc lập, tự chủ của quốc gia và kiên trì định hƣớng xã hội chủ nghĩa. Với một quốc gia còn nhỏ yếu về nhiều mặt trên trƣờng quốc tế nhƣ nƣớc ta, lại đang trong quá trình tìm tòi hƣớng đi cho chủ nghĩa xã hội, những tác động từ toàn cầu hóa sẽ ảnh hƣởng rất lớn đến vị thế và tƣơng lai dân tộc. Trong quá trình hội nhập quốc tế, độc lập, tự chủ và sự phát triển theo định hƣớng xã hội chủ nghĩa của nƣớc ta luôn đứng trƣớc thách thức của hàng loạt những nguy cơ rất tiềm tàng và đa dạng. Những nguy cơ đó không chỉ xuất hiện từ những diễn biến của tình hình thế giới và khu vực, mà còn nảy sinh chính từ trong quá 3 trình phát triển nội tại của đất nƣớc. Trong bối cảnh hiện nay, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung, tƣ tƣởng về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế một lần nữa cho thấy sức sống lâu bền, cho chúng ta những bài học lý luận và kinh nghiệm đối ngoại quý báu, làm nền tảng và kim chỉ nam cho những nhận thức mới. Chính vì vậy, vấn đề đƣợc tác giả lựa chọn làm luận văn: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và ý nghĩa của nó đối với Việt Nam hiện nay” là vấn đề có ý nghĩa lý luận và tính thực tiễn sâu sắc. 2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận văn Việc nghiên cứu về tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, trong đó có đề cập đến tƣ tƣởng của Ngƣời về đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ nhƣ: Công trình nghiên cứu: “Những quan điểm nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng trong tình hình mới” của PGS.TS Trần Minh Trƣởng, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2014. Trong cuốn sách này, tác giả đã tìm hiểu những quan điểm và nguyên tắc ứng xử của Hồ Chí Minh trong quan hệ quốc tế nhằm khẳng định chủ quyền quốc gia, quyền bình đẳng giữa các dân tộc, theo nguyên tắc tôn trọng lẫn nhau, cùng có lợi trong quan hệ giữa các quốc gia trên thế giới. Những quan điểm, nguyên tắc ứng xử trong quan hệ quốc tế của Hồ Chí Minh đã đƣợc vận dụng trong thực tiễn cách mạng Việt Nam và đƣa đến thắng lợi trong sự nghiệp bảo vệ, xây dựng đất nƣớc; đồng thời trở thành cơ sở nền tảng trong quan hệ đối ngoại, góp phần cùng với nhiều quốc gia yêu chuộng hòa bình, tiến bộ trên thế giới xây dựng nên “Năm nguyên tắc chung sống hòa bình”, đƣợc thể hiện trong Tuyên bố Băng Đung (năm 1955 tại Inđônêxia) của Phong trào không liên kết. Công trình nghiên cứu “Tư tưởng Hồ Chí Minh về đối ngoại và sự vận dụng của Đảng ta trong thời kỳ đổi mới” của Tiến sĩ Đinh Xuân Lý, 4 Nxb.Chính trị quốc gia, 2007, tác giả đã đi sâu vào việc tìm hiểu những nội dung tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về đối ngoại, thành tựu của hoạt động đối ngoại Việt Nam dƣới sự lãnh đạo của Hồ Chí Minh, quá trình Đảng ta nhận thức và vận dụng tƣ tƣởng đối ngoại của Ngƣời trong thời kỳ đổi mới. Bài viết: “Minh triết trong bước chuyển tư tưởng Hồ Chí Minh từ mục tiêu độc lập dân tộc đến mục tiêu kết hợp độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội” của PGS. TS Lê Thị Lan đăng trên tạp chí Thông tin Khoa học xã hội tháng 8/2013. Bài viết đã khái quát một cách có hệ thống những quan điểm của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong đó tác giả làm rõ 4 nội dung sau: những cơ sở hình thành nên tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc; cốt lõi tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc; minh triết của Ngƣời về chủ nghĩa xã hội; cuối cùng lý giải minh triết Hồ Chí Minh về sự gắn kết độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Tác giả khẳng định sự minh triết trong tƣ tƣởng của Ngƣời về độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội thể hiện đặc sắc nhất là ở các mục tiêu cách mạng cơ bản nhất thiết phải đạt tới mà Ngƣời luôn luôn nhấn mạnh. Thời đại toàn cầu hóa hiện nay đòi hỏi việc vận dụng sáng tạo và phát triển tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về việc gắn kết độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên tinh thần mới nhằm mục tiêu “xây dựng một nƣớc Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”. Qua việc tìm hiểu những quan điểm của Ngƣời về độc lập tự chủ đƣợc đề cập trong bài viết, chúng ta phần nào hiểu đƣợc cơ sở hình thành nên đƣờng lối đối ngoại độc lập, tự chủ của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó, cũng có nhiều bài viết, công trình nghiên cứu về đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ cũng nhƣ tình hình hội nhập quốc tế của Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: Công trình nghiên cứu “Việt Nam thế giới và hội nhập” của nhà giáo nhân dân - Giáo sƣ Vũ Dƣơng Ninh, Nhà xuất bản Giáo Dục, 2007 cũng nhấn 5 mạnh đến quan hệ đối ngoại của Việt Nam qua 60 năm chiến đấu và xây dựng, về quan hệ Việt Nam - ASEAN. Đồng thời, cuốn sách là công trình nghiên cứu về lịch sử cận - hiện đại và lịch sử quan hệ quốc tế. Cuốn sách “Lịch sử quan hệ đối ngoại Việt Nam (1940 - 2010)”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2015 của GS.Vũ Dƣơng Ninh là một công trình nghiên cứu công phu, góp phần giới thiệu một cách có hệ thống quá trình lịch sử quan hệ đối ngoại của Việt Nam từ năm 1940 đến 2010. Nội dung cuốn sách trình bày những nét cơ bản về đƣờng lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc qua từng giai đoạn, bối cảnh quốc tế và trong nƣớc dẫn đến các sự kiện, diễn biến trong quan hệ đối ngoại để từ đó rút ra những nhận định chung và những bài học kinh nghiệm. Cuốn sách “Một số vấn đề chính trị quốc tế trong giai đoạn hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2014 của PGS.TS Nguyễn Hoàng Giáp đề cập tới những vấn đề có tính thời sự của nền chính trị quốc tế hiện nay nhƣ: xu thế toàn cầu hoá, mối quan hệ giữa các nƣớc lớn, chống chủ nghĩa khủng bố, trật tự thế giới mới,... Cuốn sách cho thấy một bức tranh đa dạng về nền chính trị của từng nƣớc nói riêng cũng nhƣ cả thế giới nói chung. Đồng thời, trong cuốn sách các tác giả cũng đề xuất những giải pháp thiết thực nhằm đổi mới và tăng cƣờng chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nƣớc ta trong bối cảnh toàn cầu hoá, hội nhập quốc tế. Cuốn sách “Độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, 2011 của GS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ biên đã đề cập đến mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế đƣợc xem xét từ năm góc độ chủ yếu là kinh tế, chính trị - đối ngoại, an ninh - quốc phòng, văn hóa - xã hội và thể chế kinh tế. Cuốn sách là công trình nghiên cứu công phu gồm 7 chƣơng, trong đó có bàn về cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề độc lập tự chủ và hội nhập quốc tế, đồng thời cũng khái 6 quát thực tiễn xử lý mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế ở Việt Nam qua 25 năm đổi mới. Bài viết: “Đảm bảo mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế” của PGS.TS. Nguyễn Viết Thảo (Tổng Biên tập báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam) đăng trên tạp chí Quốc phòng toàn dân điện tử ngày 20/5/2011. Bài viết đã khái quát những yêu cầu để thực hiện độc lập, tự chủ trong giai đoạn cách mạng hiện nay trên tất cả các phƣơng diện: kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh và đối ngoại; đồng thời chỉ ra các nhân tố ảnh hƣởng đến việc phát huy độc lập tự chủ của đất nƣớc. Bài viết: “Độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế” của PGS.TS Vũ Văn Hà đăng trên Tạp chí Cộng sản điện tử ngày 25/12/2014 đã đề cập đến ba vấn đề chính: ý nghĩa của độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế; quan điểm của Đảng ta về độc lập tự chủ và những thành tựu kinh tế cơ bản của nƣớc ta khi thực hiện đƣờng lối đối ngoại độc lập tự chủ. Bài viết đã cho thấy cái nhìn tổng quan về tình hình kinh tế đất nƣớc cũng nhƣ những tác động của hội nhập đến nền kinh tế nƣớc ta, khẳng định quan điểm độc lập, tự chủ trong hội nhập kinh tế quốc tế luôn là vấn đề có ý nghĩa quan trọng với nền kinh tế các quốc gia. Bài viết: “Độc lập, tự chủ - định hướng và nguyên tắc bất biến của đối ngoại Việt Nam” của đồng chí Phạm Bình Minh (Ủy viên Trung ƣơng Đảng, Phó Thủ tƣớng Chính phủ, Bộ trƣởng Ngoại giao Việt Nam) đăng trên báo Nhân dân điện tử ngày 02/9/2014. Bài viết đã tóm tắt tƣ tƣởng độc lập tự chủ trong hoạt động đối ngoại của Chủ tịch Hồ Chí Minh và đề ra 4 bài học lớn trong việc giữ vững độc lập tự chủ trong hoạt động đối ngoại của nƣớc ta hiện nay. Nhìn chung, các công trình nghiên cứu tiêu biểu kể trên đã nghiên cứu, làm sáng tỏ một số vấn đề nhƣ: Tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về ngoại giao, về độc lập tự chủ, về đoàn kết, quan hệ hợp tác quốc tế… Từ đó, các nghiên cứu đã 7 đi vào tìm hiểu, phân tích sự vận dụng các tƣ tƣởng đó của Đảng vào thực tiễn hiện nay ở Việt Nam cũng nhƣ chỉ ra các thành tựu, hạn chế và giải pháp để thực hiện tốt hơn sự vận dụng đó trong thực tiễn đổi mới của đất nƣớc. Đa số các nghiên cứu này đều tiếp cận vấn đề dƣới góc độ tƣ tƣởng ngoại giao Hồ Chí Minh. Trong khuôn khổ của luận văn này, tác giả sẽ kế thừa những thành tựu mà các nghiên cứu trên đã đạt đƣợc, đồng thời đi sâu vào nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế; từ đó chỉ ra sự vận dụng tƣ tƣởng này của Đảng và Nhà nƣớc ta hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn làm rõ những nội dung cơ bản trong tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế cũng nhƣ ý nghĩa của tƣ tƣởng đó đối với Việt Nam hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu - Làm rõ cơ sở hình thành và những nội dung tƣ tƣởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế; - Sự vận dụng tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập tự chủ trong quan hệ quốc tế của Đảng ở Việt Nam hiện nay. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn đƣợc thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, đặc biệt là những quan điểm về dân tộc, quan hệ giữa các quốc gia, dân tộc; vấn đề dân tộc trong cách mạng xã hội chủ nghĩa; quan điểm về thời đại ngày nay… 4.2. Phương pháp nghiên cứu 8 - Phƣơng pháp nghiên cứu chung: Luận văn sử dụng phƣơng pháp lịch sử - logic làm phƣơng pháp nghiên cứu chủ đạo, kết hợp với phƣơng pháp phân tích - tổng hợp trong nghiên cứu tài liệu. - Phƣơng pháp cụ thể: Phƣơng pháp đọc, lƣợc thuật, tổng thuật tài liệu, đối chiếu, so sánh, thống kê… 5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 5.1. Đối tượng nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và sự vận dụng tƣ tƣởng này của Đảng và Nhà nƣớc ở Việt Nam hiện nay. 5.2. Phạm vi nghiên cứu Luận văn tập trung nghiên cứu, tìm hiểu tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và những hoạt động thực tiễn của Ngƣời về quan hệ quốc tế. Từ đó đi vào tìm hiểu sự vận dụng của Đảng nhằm mục đích giữ vững độc lập tự chủ trong hội nhập quốc tế. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Về lý luận: Luận văn góp phần khẳng định tính cách mạng và khoa học của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế và ý nghĩa chỉ đạo của tƣ tƣởng này trong hoạt động quan hệ quốc tế của Đảng và Nhà nƣớc ta hiện nay. Về thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho công tác nghiên cứu, giảng dạy và học tập tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn đƣợc kết cấu thành 2 chƣơng với 4 tiết nhƣ sau: 9 CHƢƠNG 1 TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ TRONG QUAN HỆ QUỐC TẾ 1.1. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập, tự chủ trong quan hệ quốc tế 1.1.1. Cơ sở lý luận * Chủ nghĩa yêu nước và tinh thầ n độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam Yêu nƣớc là một tình cảm tự nhiên của con ngƣời đối với quê hƣơng xứ sở, với ngôn ngữ, văn hóa, lịch sử và các truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Nhƣng không chỉ là một tình cảm tự nhiên, lòng yêu nƣớc đã trở thành một chuẩn mực đạo đức bất biến, có ý nghĩa vô giá trong mọi thời đại: chủ nghĩa yêu nƣớc có giá trị nhƣ một hệ tƣ tƣởng, một nguyên tắc chính trị - đạo đức thẩm mỹ của con ngƣời. Đối với ngƣời Việt Nam, chủ nghĩa yêu nƣớc là một giá trị tinh thần cao quý, kết tinh những tƣ tƣởng, tình cảm thiêng liêng nhất, là hệ chuẩn mực cao nhất trong bảng giá trị tinh thần truyền thống dân tộc. Ở Việt Nam, yêu nƣớc vừa là tình cảm, là đạo đức mà cũng đồng thời là triết lý, là “kim chỉ nam” cho hành động. Gắn liền với chủ nghĩa yêu nƣớc là tinh thần độc lập tự chủ, bởi cũng chính nhờ yêu nƣớc mà dân tộc ta đã không chịu khuất phục trƣớc bất kỳ kẻ thù ngoại xâm nào. Mỗi khi dân tộc bị xâm lƣợc là tinh thần yêu nƣớc và khát vọng độc lập tự chủ lại bùng lên mạnh mẽ, trở thành nguồn động lực to lớn thôi thúc, tiếp sức cho cha ông ta đánh giặc và giành thắn g lơ ̣i toàn ve ̣n dù chúng ta - mô ̣t dân tô ̣c nhỏ yế u phải đƣơng đầ u với nhƣ̃ng kẻ thù hùng ma ̣nh nhấ t thời đa ̣i . Bảo vệ nền độc lập , tƣ̣ chủ cũng là bảo vê ̣ sƣ̣ tƣ̣ tôn của chinh ́ mình và của cộng đồng dân tộc mình , bảo vệ n hƣ̃ng giá tri ̣văn hóa vâ ̣t chấ t , tinh thầ n vố n là công sƣ́c và là niề m tƣ̣ hào của cả dân tô ̣c. 10 Trải qua lịch sử mấy ngàn năm dựng nƣớc và giữ nƣớc , cả thế giới biết đến Việt Nam nhƣ một biếu tƣợng của tinh thần đấu tranh bảo vệ hoà bình, độc lập. Từ thời phong kiến, các triều đại Việt Nam đã nhiều lần đánh bại quân xâm lƣợc Trung Hoa. Ngô Quyền đánh thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, Lê Hoàn phá Tống lần thứ nhất, Lý Thƣờng Kiệt phá Tống lần thứ hai, Trần Quốc Tuấn ba lần đại thắng quân Nguyên, Lê Lợi đánh đuổi quân Minh, Quang Trung đại phá quân Thanh. Sƣ̣ nghiê ̣p cách ma ̣ng vi ̃ đa ̣i mà Hồ Chí Minh suốt đời theo đuổi chính là sự kế tục và khẳng định truyền thống yêu nƣớc và tinh thầ n đô ̣c lâ ̣p tƣ̣ chủ của nhân dân ta. Chính Ngƣời đã từng chỉ rõ: "Lúc đầu, chính là chủ nghĩa yêu nƣớc, chứ chƣa phải là chủ nghĩa cộng sản đã đƣa tôi tin theo Lênin, tin theo quốc tế thứ ba" [43, tr.563]. Ngƣời xuất dƣơng với hai bàn tay trắng, tất cả hành trang là lòng yêu nƣớc và quyết tâm tìm đƣờng cứu nƣớc bùng cháy không nguôi. Các sách báo và tài liệu tuyên truyền cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh đƣợc gửi về Việt Nam từ nƣớc ngoài trong những năm Ngƣời bôn ba đều nói lên tấm lòng yêu nƣớc, nhớ nƣớc đến quên mình của Ngƣời, đồng thời động viên, khích lệ, kêu gọi, thuyết phục toàn dân đi theo con đƣờng cứu nƣớc trên lập trƣờng của giai cấp vô sản. Có thể nói rằng tinh thầ n yêu nƣớc và khát vọng độc lập, tƣ̣ chủ cho dân tô ̣c không chỉ là xuấ t phát điể m mà còn là mu ̣c tiêu , đô ̣ng lƣ̣c to lớn hinh ̀ thành tƣ tƣởng Hồ Chí Minh nói chung, tƣ tƣởng về đô ̣c lâ ̣p, tƣ̣ chủ nói riêng. * Lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề dân tộc, quốc tế và thời đại Chủ nghĩa Mác - Lênin là nguồn gốc lý luận trực tiếp, quyết định bản chất tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, là cơ sở hình thành thế giới quan và phƣơng pháp luận khoa học của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh, nhờ đó mà Ngƣời đã có bƣớc chuyển quan trọng về chất từ một ngƣời yêu nƣớc trở thành một ngƣời chiến 11 sĩ cộng sản. Hồ Chí Minh đã kết hợp chủ nghĩa yêu nƣớc với chủ nghĩa quốc tế vô sản, kết hợp đấu tranh dân tộc với đấu tranh giai cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” (năm 1848), C.Mác và Ph.Ăngghen đã lần đầu tiên trong lịch sử nêu ra và phân tích một cách sâu sắc vấn đề mối quan hệ giữa giai cấp, dân tộc, quốc tế trong cách mạng vô sản. Các ông cho rằng trong thời đại này, sự phát triển nhanh chóng của lực lƣợng sản xuất cùng với nhu cầu về thị trƣờng tiêu thụ sản phẩm đã khiến giai cấp tƣ sản nảy sinh tham vọng thâu tóm thuộc địa khắp hoàn cầu, tạo nên sự phụ thuộc phổ biến giữa các dân tộc. Nhƣ vậy, giai cấp tƣ sản, và sau đó là giai cấp công nhân, sẽ trở thành một giai cấp mang tính chất quốc tế. Để giải quyết đƣợc nhiệm vụ lịch sử của mình, giai cấp công nhân ở mỗi nƣớc phải giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa nhiệm vụ dân tộc và nhiệm vụ quốc tế trên lập trƣờng vô sản. “Công nhân không có Tổ quốc. Ngƣời ta không thể cƣớp của họ cái mà họ không có. Vì giai cấp vô sản mỗi nƣớc trƣớc hết phải giành lấy chính quyền, phải tự xây dựng thành giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc, tuy hoàn toàn không phải theo cái nghĩa nhƣ giai cấp vô sản hiểu” [92, tr.105]. Dân tộc theo nghĩa của giai cấp tƣ sản là dân tộc mà trong đó dung túng cho tình trạng ngƣời bóc lột ngƣời, còn dân tộc mà giai cấp vô sản phải nỗ lực xây dựng cho đƣợc là dân tộc xã hội chủ nghĩa mà ở đó không có áp bức, bóc lột, bất công, chỉ tồn tại sự tự do, bình đẳng cho tất cả nhân loại. C.Mác đã đƣa ra nhận định: quốc gia dân tộc là hình thức chính trị tốt nhất để phát triển chủ nghĩa tƣ bản, nhƣng đồng thời với việc mở rộng giao lƣu quốc tế và quốc tế hóa - quốc gia sẽ bị thay thế bởi sự dựa vào nhau, lệ thuộc lẫn nhau. Phải nhìn thấy trong sự vận động phát triển, thế giới đã và 12 đang trở thành một hệ thống có mối liên hệ tƣơng tác ngày càng chặt chẽ. Sự phát triển của chủ nghĩa tƣ bản đã biến thế giới thành một nền kinh tế toàn cầu hóa, dựa vào nhau mà phát triển. C.Mác và Ph.Ăngghen cũng đã bàn về vấn đề độc lập dân tộc của các nƣớc bị các dân tộc lớn thống trị, về mối quan hệ bất bình đẳng giữa các nƣớc lớn với các quốc gia nhỏ yếu và phụ thuộc. Các ông cho rằng: độc lập dân tộc là cơ sở cho mọi sự hợp tác quốc tế và phong trào quốc tế của giai cấp vô sản nói chung chỉ có thể có trong môi trƣờng các dân tộc độc lập. Những luận điểm này hoàn toàn phù hợp với lý tƣởng cháy bỏng của Nguyễn Tất Thành khi đó: khát vọng về một dân tộc hoàn toàn tự do và bình đẳng trƣớc cƣờng quốc xâm lƣợc, nhân dân đƣợc làm chủ đất nƣớc chứ không phải là nô lệ của xứ thuộc địa, vong quốc. Lý luận mác-xít càng trúng với những trăn trở băn khoăn của Nguyễn Tất Thành và thuyết phục Ngƣời hơn nữa khi Ngƣời đƣợc tiếp cận với ánh sáng tƣ tƣởng của Lênin khi bàn về quan hệ quốc tế trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, trong đó có vấn đề đấu tranh của các nƣớc thuộc địa, phụ thuộc với chủ nghĩa đế quốc. V.I. Lênin kế thừa hệ thống tƣ tƣởng của C.Mác, Ph.Ăngghen nhƣng đã bổ sung nhiều khái niệm mới, đƣa ra những dự báo mới, phản ánh những tƣ duy mới về cách mạng thế giới và quan hệ quốc tế mới. Quan hệ quốc tế thời đại của Lênin là quan hệ giữa một bên là chủ nghĩa đế quốc với một bên là các dân tộc bị áp bức. V.I. Lênin khi phân tích về chủ nghĩa đế quốc đã lƣu ý đến sự vận hành của quy luật phát triển không đồng đều của chủ nghĩa tƣ bản, theo đó một số nƣớc đã phát triển nhanh hơn các nƣớc khác và từ đó thách thức các nƣớc mà nó đuổi kịp và vƣợt. Hệ quả là quan hệ quốc tế chủ yếu xoay xung quanh một số nƣớc và trung tâm quyền lực lớn. Trung thành với cách tiếp cận này, Hồ Chí Minh luôn quan tâm tới sự xuất hiện của các trung tâm quyền lực lớn và phân tích mâu thuẫn giữa các trung tâm quyền lực đó để 13 phán đoán chiều hƣớng vận động của cục diện thế giới và khu vực. Nói cách khác, trong tƣ tƣởng và thế giới quan của Hồ Chí Minh về chính trị quốc tế, về vấn đề chiến tranh và hòa bình, các nƣớc và trung tâm quyền lực lớn đóng một vai trò quan trọng. Khi thuyết “châu Âu là trung tâm” vẫn còn chi phối tƣ duy địa - chiến lƣợc trên thế giới, trong bài “Đông Dương và Thái Bình Dương” viết năm 1924, Nguyễn Ái Quốc đã phân tích: “Vì đã trở thành một trung tâm mà bọn đế quốc tham lam đều hƣớng cả vào nhòm ngó, nên Thái Bình Dƣơng và các nƣớc thuộc địa xung quanh Thái Bình Dƣơng, tƣơng lai có thể trở thành một lò lửa của chiến tranh thế giới mới mà giai cấp vô sản sẽ phải nai lƣng ra gánh. Xem thế thì ta thấy rõ rằng vấn đề Thái Bình Dƣơng là vấn đề mà tất cả mọi ngƣời vô sản nói chung đều phải quan tâm đến” [34, tr. 243-244]. Với thắng lợi của cách mạng tháng Mƣời Nga, quan hệ quốc tế đã chuyển sang một thời kỳ mới, thời kỳ các quốc gia dân tộc trên thế giới có quyền quan hệ bình đẳng với nhau trên những quan điểm, nguyên tắc mới. Trong nhƣ̃ng năm bôn ba ở nƣớc ngoài , Ngƣời đã nhanh chóng tiế p nhâ ̣n ảnh hƣởng của Các h ma ̣ng tháng Mƣời Nga , ủng hộ và đi theo con đƣờng của cách mạng tháng Mƣời và Quốc tế thứ ba . Sau khi biế t Quố c tế thƣ́ ba quan tâm đế n đoàn kế t với các dân tô ̣c thuô ̣c điạ và đă ̣c biê ̣t là tƣ̀ khi đo ̣c đƣơ ̣c “Sơ thảo lần thứ nhấ t Luâ ̣n cƣơng về nhƣ̃ng vấ n đề dân tô ̣c và vấ n đề thuô ̣c đia” ̣ của Lê nin đăng trên báo L’Humanite ngày 16 và 17 tháng 7 năm 1920, lầ n ́ đầ u tiên Nguyễn Ai Quố c đƣơ ̣c biế t đế n mô ̣t tổ chƣ́c quố c tế ủng hô ̣ sƣ̣ nghiê ̣p giải phóng của các dân tộc bị thực dân áp bức . Luâ ̣n cƣơng đã đề ra giải pháp giải quyết vấn đề dân tộc - thuô ̣c điạ đă ̣t trong mố i quan hê ̣ quố c tế , chỉ ra con đƣờng giải phóng các dân tô ̣c thuô ̣c đia. Điề u này khiế n Ngƣời vô cùng xúc ̣ động: 14 “Luâ ̣n cƣơng của Lênin làm cho tôi rấ t cảm đô ̣ng , phấ n khởi, sáng tỏ, tin tƣởng biế t bao! Tôi vui mƣ̀ng đế n phát khóc lên . Ngồ i mô ̣t mình trong buồ ng mà tôi nói to lên nhƣ đang nói trƣớc quần chúng đông đảo : “Hỡi đồ ng bào bi ̣ đo ̣a đày đau khổ ! Đây là cái cầ n thiế t cho chúng ta , đây là con đƣờng giải phóng chúng ta!” Tƣ̀ đó, tôi hoàn toàn tin theo Lênin, tin theo Quố c tế thƣ́ ba” [44, tr.562]. Là ngƣời chiến sỹ yêu nƣớc chân chính , nay tìm đƣơ ̣c cẩ m n ang cƣ́u ́ nƣớc, Nguyễn Ai Quố c càng ra sƣ́c tìm kiế m các sách báo , của Lênin và Quố c tế thƣ́ ba để đo ̣c , mà lúc đó rất hiếm . Những quan điểm và hoạt động ngoại giao của Hồ Chí Minh chính là biểu hiện cụ thể cho sự vận dụng những vấn đề có tính nguyên lý ấy vào thực tiễn cách mạng nƣớc ta. * Các tinh hoa văn hóa phương Đông và phương Tây Nền học vấn đầu tiên mà Hồ Chí Minh tiếp nhận là Nho học. Hồ Chí Minh coi trọng chữ Nhân của Nho giáo nhung Ngƣời không giới hạn nó trong mối quan hệ tam cƣơng mà mở rộng nó ra thành tình yêu thƣơng con ngƣời không phân biệt giai cấp, dân tộc, biên giới quốc gia. Hơn nữa, nó không chỉ là tình yêu thƣơng chung chung mà đã biến thành hành động cách mạng kiên quyết và triệt để. Hồ Chí Minh cũng đánh giá cao lý tƣởng về một xã hội đại đồng trong tƣ tƣởng Khổng - Mạnh. Ngƣời nói: “Khổng Tử vĩ đại (551 trƣớc C.N) khởi xƣớng thuyết đại đồng và truyền bá sự bình đẳng về tài sản. Ông từng nói: thiên hạ sẽ thái bình khi thế giới đại đồng. Ngƣời ta không sợ thiếu, chỉ sợ có không đều. Bình đẳng sẽ xóa bỏ nghèo nàn, v.v...” [33, tr.47]. Thuyết đại đồng của Khổng Tử có yếu tố phù hợp với lý tƣởng về chủ nghĩa xã hội mácxít ở chỗ cả hai cùng hƣớng tới một chế độ xã hội không còn áp bức dân tộc, áp bức giai cấp, con ngƣời sống với nhau bằng tình nhân ái. 15 Đối với Phật giáo, Hồ Chí Minh cũng rất am hiểu và chịu ảnh hƣởng nhất định. Trƣớc hết, Hồ Chí Minh chịu ảnh hƣởng sâu sắc của tƣ tƣởng từ bi, tinh thần rộng lƣợng, hiếu sinh, tránh làm điều ác của Phật giáo. Tấm lòng ấy, nhân cách ấy của Ngƣời không chỉ dành cho đồng chí, đồng bào của mình mà còn làm lay động, thuyết phục cả kẻ thù xâm lƣợc và cộng đồng quốc tế. Yêu chuộng hòa bình và rộng lƣợng với kẻ thù, Hồ Chí Minh luôn cố gắng tránh những xung đột vũ trang, tránh đổ xƣơng máu cho cả hai bên chiến tuyến; khi đã giành đƣợc ƣu thế buộc địch phải chấp nhận đầu hàng, Ngƣời cũng đối đãi với họ bằng tinh thần thiện chí, thân ái, sẵn sàng rộng mở. Hồ Chí Minh cũng kế thừa tinh thần bình đẳng, nhân văn, chống lại mọi sự phân biệt đẳng cấp của Phật giáo. Đạo Phật quan niệm không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ, trong giọt nƣớc mắt cùng mặn, tình yêu thƣơng mới chính là sợi dây nối liền giữa ngƣời với ngƣời. Giác ngộ triết lý này của Phật giáo, Hồ Chí Minh đã trải rộng tình yêu thƣơng con ngƣời trong tâm hồn mình thành tình yêu thƣơng bao la cho khắp nhân loại. Trong ba mƣơi năm hoạt động cách mạng ở nƣớc ngoài, Hồ Chí Minh sống chủ yếu ở châu Âu nên cũng chịu ảnh hƣởng rất sâu rộng của nền văn hóa dân chủ và cách mạng của phƣơng Tây , trong đó nhƣ̃ng tƣ tƣởng về quyề n binh đẳ ng , dân chủ , quyề n con ngƣời là nhƣ̃ng giá tri ̣văn hóa cao đe ̣p ̀ góp phần vun đắp tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về độc lập , tƣ̣ chủ trong quan hê ̣ quố c tế . Khi xuất dƣơng, Ngƣời đã từng sang Mỹ, đến sống ở Niu Oóc, làm thuê và thƣờng đến thăm khu ở của ngƣời da đen. Trong các bài viết sau này, Ngƣời thƣờng nhắc đến ý chí đấu tranh cho tự do, độc lập, cho quyền sống của con ngƣời đƣợc ghi lại trong Tuyên ngôn độc lập 1776 của nƣớc Mỹ. Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nƣớc Mỹ khẳng định: “Tất cả mọi ngƣời đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai 16 có thể xâm phạm đƣợc; trong những quyền ấy, có quyền đƣợc sống, quyền tự do và quyền mƣu cầu hạnh phúc” [36, tr.1]. Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: “Ngƣời ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi, và phải luôn luôn đƣợc tự do và bình đẳng về quyền lợi” [36, tr.1]. Ngƣời đã tiếp thu giá trị của tƣ tƣởng nhân quyền với nội dung là quyền tự do cá nhân thiêng liêng trong các bản tuyên ngôn này, vận dụng và nâng nó lên thành quyền sống, quyền độc lập, quyền tự do, quyền mƣu cầu hạnh phúc của tất cả các dân tộc. Nội dung nhân quyền đƣợc Ngƣời đƣa lên một tầm cỡ mới trong Tuyên ngôn Độc lập của Việt Nam năm 1945. Trong nhƣ̃ng năm tháng ở Pháp , Ngƣời đã có điều kiện thuận lợi để tiế p xúc với truyền thống văn hóa dân chủ và tiến bộ của nƣớc Pháp. Hồ Chí Minh đƣợc tiếp câ ̣n tác phẩm của các nhà tƣ tƣởng khai sáng: Von-te, Rút-xô, Mông-tét-xki-ơ,…Tƣ tƣởng dân chủ của các nhà khai sáng đã có ảnh hƣởng tới tƣ tƣởng của Ngƣời. Khi ở các nƣớc phƣơng Tây, Hồ Chí Minh không chỉ tiếp thu tƣ tƣởng dân chủ mà còn hình thành phong cách dân chủ thông qua việc trực tiếp tham gia các tổ chức chính trị xã hội, viết báo, tranh luận, họp hội, lập hội. * Những kinh nghiệm ngoại giao của thế giới và Việt Nam Trong quá trình quan sát, phân tích các diễn biến của chính trị quốc tế và ngoại giao thế giới trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới nửa đầu thế ký XX, Nguyễn Ái Quốc đã tích lũy nhiều kinh nghiệm ngoại giao quý báu, trong đó ngoại giao Xô viết đem lại nhiều bài học thực tiễn quan trọng cho Ngƣời. Hoà ƣớc Brest-Litovsk là một ví dụ: để ngăn chặn cuộc tấn công của quân đội Đức và Áo tới thành phố Petrograd và Matxcơva, ngày 3/3/1918, tại Brest-Litovsk, nƣớc Nga Xô viết đã kí kết hòa ƣớc với chính phủ Đức. Theo hòa ƣớc này, nƣớc Nga đã phải chịu tổn thất lớn khi mất 17 một vùng lãnh thổ rộng 750.000 km² với hơn 50 triệu dân cũng nhƣ phải giải ngũ quân đội và bồi thƣờng cho Đức 6 tỷ Mác. Nhƣng đây là quyết định đúng đắn vì nó thể hiện thiện chí hòa bình đồng thời bảo vệ đƣợc nhà nƣớc xã hội chủ nghĩa non trẻ, bảo vệ các đơn vị hồng quân vừa mới đƣợc thành lập. Với ý nghĩa đó, hoà ƣớc Brest-Litovsk là một mẫu mực của nghệ thuật nhân nhƣợng có nguyên tắc của Lênin. Ngƣời đã đƣợc Nguyễn Ái Quốc dành cho những tình cảm thật tôn kính: “Lênin, ngƣời thầy dạy vĩ đại của cách mạng vô sản. Cũng là một vị đạo đức rất cao, dạy chúng ta phải thực hiện cần, kiệm, liêm, chính. Tinh thần Lênin muôn đời bất diệt” [42, tr.43]. Mục tiêu đối ngoại độc lập, tự chủ mà Chủ tịch Hồ Chí Minh theo đuổi suốt cuộc đời cũng là kế thừa truyền thống ngoại giao của dân tộc Việt Nam. Ngoại giao là vũ khí mà ông cha ta đã khôn khéo tận dụng để tạo dựng môi trƣờng chung sống hòa bình với ngoại bang, duy trì và cứu vãn hòa bình trƣớc mọi cuộc giao tranh và gìn giữ hòa bình sau đó. Vì thế, ngoại giao Việt Nam đã có bề dày và chiều sâu lịch sử có truyền thống rất đáng để tự hào và học hỏi. Bài hịch của Vua Quang Trung năm 1789 đã nói rõ một trong các mục đích đánh giặc Thanh là “đánh cho để dài tóc, đánh cho để răng đen”. Bảo vệ độc lập dân tộc cũng chính là để bảo vệ nền văn hóa dân tộc. Chỉ trong điều kiện có độc lập, những truyền thống và tinh hoa văn hóa dân tộc mới đƣợc gìn giữ và phát huy. Ngƣợc lại, chỉ có giữ đƣợc văn hóa truyền thống, chúng ta mới có đƣợc độc lập, tự chủ một cách chân chính khi chúng ta đƣợc là chính mình. Với một dân tộc vùng lên thoát khỏi ách thống trị của thực dân, mục tiêu đối ngoại vì độc lập dân tộc chính là kết tinh của các giá trị văn hóa. Độc lập là mục tiêu chính trị nhƣng xét cho cùng, đây cũng là mục tiêu văn hóa. Giá trị cao nhất của văn hóa là con ngƣời đƣợc sống trong độc lập, tự do. 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan