Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học tư tưởng hồ chí minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người...

Tài liệu tư tưởng hồ chí minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người

.PDF
166
364
54

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG TRẦN NHƯ NGỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ QUYỀN CON NGƯỜI LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI – 2019 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI HOÀNG TRẦN NHƯ NGỌC TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ QUYỀN CON NGƯỜI Chuyên ngành: Triết học Mã số: 9229001 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. NGUYỄN TÀI ĐÔNG HÀ NỘI - 2019 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu và số liệu trong luận án là trung thực, đảm bảo tính khách quan, khoa học và có nguồn gốc rõ ràng. Tác giả Hoàng Trần Như Ngọc MỤC LỤC MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của luận án .................................................................................... 1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án ................................................... 2 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án .................................................... 2 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án ....................................... 3 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án............................................................... 3 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án ............................................................. 4 7. Cơ cấu của luận án ............................................................................................... 4 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN........................................................................................................... 5 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan lý luận về chủ quyền quốc gia và quyền con người ................................................................................................................. 5 1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người ................................................................................. 16 1.3. Các công trình nghiên cứu liên quan tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người và giá trị thời đại ........................... 20 Kết luận chương 1 .................................................................................................. 27 CHƯƠNG 2: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ QUYỀN CON NGƯỜI ..................................................................................... 29 2.1. Khái niệm chủ quyền quốc gia và quyền con người ...................................... 29 2.2. Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người .............................................................................................................. 38 Kết luận chương 2 .................................................................................................. 66 CHƯƠNG 3: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN VỀ CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ QUYỀN CON NGƯỜI TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH ................. 67 3.1. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia .. 67 3.2. Những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người ...... 88 Kết luận chương 3 ................................................................................................ 111 CHƯƠNG 4: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ MỐI QUAN HỆ GIỮA CHỦ QUYỀN QUỐC GIA VÀ QUYỀN CON NGƯỜI - GIÁ TRỊ THỜI ĐẠI ....... 112 4.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người .............................................................................................. 112 4.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người là cơ sở nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam .......... 127 4.3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người mang giá trị nhân văn, tiến bộ và phổ quát.......................................................................... 139 Kết luận chương 4 ................................................................................................ 145 KẾT LUẬN ............................................................................................................ 146 DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN....................................................................................... 149 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................. 150 DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT IMF : Quỹ tiền tệ quốc tế UNESCO : Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa Liên Hợp Quốc MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của luận án Quyền con người là một giá trị cao quý, nhân văn và là sản phẩm lịch sử mang tính phổ biến. Quyền con người gắn liền với truyền thống lịch sử, chế độ chính trị, trình độ phát triển của mỗi quốc gia dân tộc. Trong thời đại ngày nay, quyền con người là mối quan tâm chung của cộng đồng quốc tế, là một trong những yếu tố không thể thiếu khi hoạch định chính sách, pháp luật và quan hệ đối ngoại của mỗi quốc gia. Ở nước ta, khi xác định con người là mục tiêu và động lực của mọi chính sách phát triển kinh tế - xã hội; tất cả vì con người thì quyền con người là vấn đề được sự quan tâm hàng đầu của Đảng và Nhà nước, thu hút sự chú ý của cộng đồng. Cũng như con người khi sinh ra đều có quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc, mỗi dân tộc đều có quyền bình đẳng, quyền tự quyết dân tộc. Điều đó được khẳng định trong nhiều bản Tuyên ngôn trên thế giới. Nó được khẳng định trong “Tuyên ngôn Độc lập” của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và được Chủ tịch Hồ Chí Minh khái quát thành chân lý “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” là cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề chủ quyền dân tộc, là chân lý lớn của thời đại. Chủ quyền quốc gia gắn liền với quyền con người luôn là lẽ sống, mục đích phấn đấu suốt đời của Người. Chủ quyền quốc gia và quyền con người là vốn có, chứ không phải được thừa nhận hay thụ hưởng từ bất kỳ một sự ban phát nào. Những quyền đó được nhân loại nhận thức ngày càng sâu sắc là một giá trị phổ quát. Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ quyền quốc gia và quyền con người luôn gắn bó mật thiết, quan hệ biện chứng với nhau. Theo Người, độc lập dân tộc, thống nhất có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ là điều kiện tiên quyết, là tiền đề thực hiện quyền con người của Việt Nam và mọi dân tộc bị áp bức. Tuy nhiên, trong lịch sử cho đến nay, vấn đề chủ quyền quốc gia và quyền con người lại thường xuyên bị các thế lực đế quốc, phản động lợi dụng như là một thủ đoạn trong chiến lược bành trướng; và hiện nay là một trong các mũi tấn công 1 của âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ do đế quốc Mỹ đứng đầu, nhằm chống phá các nước xã hội chủ nghĩa bằng cách can thiệp vào công việc nội bộ của các nước hoặc xâm phạm độc lập chủ quyền của các nước; đặc biệt ở Việt Nam. Chính vì vậy, việc nghiên cứu vấn đề chủ quyền quốc gia và quyền con người, trên thực tế vừa khẳng định các thành tựu đã đạt được, phát hiện các khía cạnh mới nảy sinh, vừa phê phán các quan điểm sai trái có liên quan đến chủ quyền quốc gia, quyền con người trong chiến lược âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc. Đây là những vấn đề phức tạp, nhạy cảm, có nhiều quan niệm khác nhau, thậm chí đối lập nhau, nên rất cần có sự nghiên cứu khoa học công phu, nghiêm túc, để nhìn nhận vấn đề một cách đúng đắn. Hơn nữa, theo chủ quan của tác giả thì trong bối cảnh quốc tế mới hiện nay, ở Việt Nam hầu như chưa có công trình nghiên cứu chuyên sâu nào về ý nghĩa lý luận và thực tiễn của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Với những lý do đó, tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người” làm luận án tiến sĩ của mình. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Mục đích nghiên cứu của luận án là luận giải làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người; khái quát giá trị thời đại của vấn đề này trong tiến trình cách mạng Việt Nam và đối với nhân loại. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là: Thứ nhất, luận giải làm rõ một số vấn đề lý luận về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Thứ hai, phân tích các nội dung cơ bản của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Thứ ba, lý giải khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Thứ tư, khái quát giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Đối tượng nghiên cứu của luận án: Luận án nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người thông qua các tác phẩm và thực tiễn cách mạng của Người gắn liền với hai cuộc cách mạng ở Việt Nam: Từ cách 2 mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục khẳng định tư tưởng đó của Người là cơ sở nền tảng của tư tưởng, là kim chỉ nam cho hành động của Đảng Cộng sản Việt Nam trong đấu tranh bảo vệ chủ quyền quốc gia, bảo đảm quyền con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam. Phạm vi nghiên cứu của luận án: Về nội dung, luận án đi sâu tìm hiểu khái niệm chủ quyền quốc gia và quyền con người; cơ sở hình thành, nội dung cơ bản, giá trị thời đại của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Về không gian là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (bao gồm cả vùng trời, vùng biển và đất liền). Về thời gian là quá trình đảm bảo chủ quyền quốc gia và quyền con người trong tiến trình cách mạng Việt Nam. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận án Cơ sở lý luận của luận án là phép biện chứng duy vật, đặc biệt là phép biện chứng duy vật về lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người. Phương pháp nghiên cứu của luận án là phương pháp lôgic - lịch sử; phân tích - tổng hợp; so sánh - đối chiếu - khái quát hóa, phương pháp chuyên gia, điều tra xã hội học... Tuy nhiên, trong luận án này tác giả đề cao phương pháp lôgic - lịch sử. Cái lịch sử là làm rõ quá trình hình thành, phát triển của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Cái lôgic là làm rõ cấu trúc (kết cấu) của tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người. Cả hai phương diện này phải thống nhất với nhau. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận án Luận án đưa ra những lý giải khoa học về mối quan hệ biện chứng giữa chủ quyền quốc gia và quyền con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh; khái quát giá trị của vấn đề này trong tiến trình cách mạng Việt Nam và đối với nhân loại. 3 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án Luận án có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và nghiên cứu một số môn học có liên quan đến quyền con người và chủ quyền quốc gia ở các trường đại học và cao đẳng hiện nay của Việt Nam. 7. Cơ cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 10 tiết. 4 Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN Tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người là chủ đề được đông đảo các nhà khoa học quan tâm, nghiên cứu, bàn luận với nhiều khía cạnh, góc độ khác nhau. Tùy vào tính chất, mục tiêu, mục đích, phạm vi nghiên cứu và góc độ tiếp cận mà nội dung của chủ đề này có nhiều cách lý giải khác nhau. Việc phân tích, tổng hợp, đánh giá các công trình nghiên cứu có liên quan sẽ giúp cho luận án tránh được sự trùng lặp và tạo ra tính mới ở nội dung nghiên cứu. 1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan lý luận về chủ quyền quốc gia và quyền con người 1.1.1. Các công trình nghiên cứu liên quan lý luận chung về chủ quyền quốc gia và quyền con người trên thế giới và Việt Nam - Về quyền con người: “Quyền con người trong thế giới hiện đại” (Trung tâm Nghiên cứu Quyền Con người, Hà Nội, 1995) của các tác giả Phạm Khiêm Ích và Hoàng Văn Hảo, là công trình phục vụ trực tiếp đề tài KX 07-16, cung cấp những văn kiện quốc tế quan trọng về quyền con người và chủ quyền quốc gia như: Tuyên ngôn Độc lập (Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ 1776); Tuyên ngôn về Nhân quyền và Dân quyền (Cộng hòa Pháp 1789); Tuyên ngôn Toàn thế giới về Nhân quyền (Liên Hợp Quốc 10/12/1948); Tuyên ngôn về Quyền và Tự do của Con người và của Công dân (Liên bang Nga 22/11/1991); Tuyên bố cuối cùng của Hội nghị Nhân quyền châu Á (Bangkok 17/4/1993); Tuyên ngôn Vienna và Chương trình hành động (Hội nghị thế giới về Nhân quyền thông qua ngày 25/6/1993 tại Vienna, Austria). Đây là những văn kiện quốc tế quan trọng, là kết quả đấu tranh của các lực lượng tiến bộ và hòa bình, của các nước thuộc địa và phụ thuộc nhằm giành lại các quyền chính đáng và cơ bản của con người. Những văn kiện này còn là tài liệu tham khảo bổ ích và tin cậy khi nghiên cứu về quyền con người và chủ quyền quốc gia. 5 “Quyền con người - Các văn kiện quan trọng” do tác giả Phạm Khiêm Ích chủ biên (Viện Thông tin Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998), viết dưới dạng song ngữ, đã sưu tầm, hệ thống các văn kiện quốc tế về quyền con người như: Hiến chương Liên hợp quốc (26/6/1945); Tuyên ngôn toàn thế giới về Nhân quyền (10/12/1948); Công ước về ngăn ngừa và trừng trị tội diệt chủng (9/12/1948); Công ước quốc tế về loại trừ mọi hình thức phân biệt chủng tộc (21/12/1965); Công ước quốc tế về Các quyền Dân sự và Chính trị (16/12/1966); Công ước quốc tế về Các quyền Kinh tế, Xã hội và Văn hóa (16/12/1966); Công ước quốc tế về Quyền Trẻ em (20/11/1989) v.v.. Đây hầu hết là những Tuyên ngôn và các Công ước mà Việt Nam đã gia nhập ký kết. Các văn kiện này giúp chúng ta hiểu rõ hơn quan niệm của cộng đồng quốc tế về Nhân quyền, nghĩa vụ pháp lý phát sinh từ các văn kiện quốc tế mà nước ta đã tham gia ký kết. Trung tâm nghiên cứu quyền con người, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh kết hợp với Hội nghiên cứu quyền con người Trung Quốc với công trình “Quyền con người ở Trung Quốc và Việt Nam: Truyền thống, lý luận và thực tiễn”, (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003), gồm nhiều bài viết của các học giả, cán bộ nghiên cứu từ nhiều cơ quan khoa học, quản lý của hai nước Trung Quốc và Việt Nam, đề cập đến các khía cạnh truyền thống, lý luận, những thành tựu và thách thức trong việc bảo đảm quyền con người ở hai nước. Đây là tài liệu hữu ích trong việc thúc đẩy sự hưởng thụ các quyền con người, cũng như phục vụ cuộc đấu tranh về quyền con người của hai nước trên trường quốc tế. Viện Nghiên cứu Quyền con người với công trình “Một số văn kiện của Liên Hợp Quốc về quyền con người trong quản lý tư pháp” (Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội, 2009), tập hợp đầy đủ nhất toàn bộ hệ thống các văn kiện có liên quan đến quyền con người trong quản lý tư pháp được Liên Hợp Quốc thông qua từ trước đến nay; là chủ đề quan trọng, nhằm tăng cường tính trách nhiệm của các cơ quan tư pháp, góp phần ngăn ngừa và hạn chế vi phạm quyền và tự do cơ bản của cá nhân, công dân trong hoạt động điều tra, truy tố, xét xử, bảo vệ quyền và nhân phẩm của những người đang bị giam giữ, cải tạo. 6 Tác giả Võ Khánh Vinh (Chủ biên) với các công trình “Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2009), “Quyền con người: Tiếp cận đa ngành và liên ngành luật học” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010), chỉ ra có rất nhiều khoa học có đối tượng nghiên cứu liên quan đến quyền con người như luật học, triết học, xã hội học, chính trị học, nhân học, văn hóa học, sử học... Với cách tiếp cận đa chiều, đa ngành, chúng ta nhận thức được một cách sâu sắc, toàn diện giá trị quyền con người, tạo ra môi trường rộng lớn hơn, dân chủ hơn cho nghiên cứu quyền con người, phát huy có hiệu quả cho sự phát triển của con người. Trong “Về các nhóm quyền trong Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” (Tạp chí Thông tin quyền con người, số 2 (18)/2013), của tác giả Nguyễn Thanh Tuấn, đã phân tích một cách kỹ lưỡng Tuyên ngôn thế giới về quyền con người và chia quyền con người thành hai nhóm quyền: Các quyền dân sự, chính trị và các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa. Nếu các quyền dân sự, chính trị được hiện thực hóa có thể tức thời, thì các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa được hiện thực hóa dần dần, từng bước, tương ứng với nguồn lực sẵn có của quốc gia. Các tác giả Võ Khánh Vinh, Lê Mai Thanh (Chủ biên) với công trình “Pháp luật quốc tế về quyền con người” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2014), đã khái lược về luật quốc tế, điều ước quốc tế cũng như vai trò luật quốc tế và điều ước quốc tế trong quá trình tôn trọng, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người. Công trình cũng cung cấp một số văn kiện quốc tế đa phương quan trọng về quyền con người, tư cách thành viên của Việt Nam trong các điều ước khu vực về quyền con người tại châu Âu, châu Mỹ, châu Phi, chính sách thúc đẩy, bảo đảm quyền con người của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á ASEAN. Nhìn chung, các văn kiện quốc tế này, tuy khác nhau về thời gian và địa điểm ra đời, nhưng đều thống nhất, nhất quán với nhau đề cao và bảo vệ các quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm của con người. “Chủ nghĩa xã hội và quyền con người” của các tác giả Đặng Dũng Chí, Hoàng Văn Nghĩa (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2014), dưới góc độ triết học đã chỉ ra về bản chất, quyền con người gắn liền với chủ nghĩa xã hội, là 7 bản chất, động lực, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Tác giả đã luận giải muốn giải phóng toàn diện con người, thì không chỉ giải phóng họ trong quan hệ kinh tế, mà còn trong các quan hệ về chính trị, văn hóa, xã hội... “Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015), Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam 2013 công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được thể hiện trong chương II, từ điều 14 đến điều 49 của Hiến pháp. Tác giả Nguyễn Thanh Tuấn với đề tài cấp Nhà nước KX 04.27/11-15: “Quyền con người trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế - Lý luận và thực tiễn”, giải quyết những vấn đề mang tính vĩ mô và liên ngành nhằm góp phần xác lập quyền con người, quyền công dân và giải quyết vấn đề quyền con người phù hợp với Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đáp ứng yêu cầu tiếp tục xây dựng, hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế. Nhìn chung, nhóm các công trình nghiên cứu này đã cung cấp cách nhìn đa chiều, liên ngành khoa học, truyền thống, hiện đại và đều thống nhất chủ quyền dân tộc và quyền con người là những quyền cơ bản, thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Đặc biệt, một vài công trình khẳng định quyền con người là bản chất, động lực, mục tiêu của chủ nghĩa xã hội. Trong các nghiên cứu về quyền con người ở Việt Nam hiện nay không thể không đề cập đến các giáo trình, bài giảng ở các trường đại học, các học viện như: Giáo trình “Quyền con người” của Học viện Khoa học xã hội (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011), giáo trình “Lý luận về quyền con người” của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (Nhà xuất bản Chính trị - Hành chính, Hà Nội, 2010), giáo trình “Lý luận và pháp luật về quyền con người” của Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009). Các công trình này đã phân tích một cách cơ bản khái quát về nguồn gốc, tính chất, đặc điểm và lịch sử phát triển tư tưởng về quyền con người. 8 - Về chủ quyền quốc gia: “Độc lập dân tộc của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006), của tác giả Thái Văn Long, đã chỉ ra những nhân tố tác động tới độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển trong xu thế toàn cầu hóa như: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, lịch sử truyền thống. Từ đó, tác giả đưa ra một số định hướng, giải pháp trong chiến lược phát triển và bảo vệ chủ quyền quốc gia của các nước đang phát triển. Các tác giả Phan Văn Rân, Nguyễn Hoàng Giáp với công trình “Chủ quyền quốc gia dân tộc trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra với Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010), đã chỉ ra một số quan niệm về chủ quyền quốc gia dân tộc trong lịch sử, và trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay quan niệm về chủ quyền quốc gia đã có sự thay đổi nhất định so với quan niệm truyền thống. Chủ quyền quốc gia dân tộc ngày nay còn bao hàm cả lĩnh vực an ninh phi truyền thống, trong quyết định con đường phát triển quốc gia gắn với phát triển kinh tế - xã hội hội nhập quốc tế. Tác giả Nguyễn Xuân Thắng với “Độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế của Việt Nam trong bối cảnh mới” (Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011), đã làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế. Từ góc độ chính trị học, tác giả đã phân tích giải quyết khái niệm chủ quyền quốc gia là sự kết hợp thống nhất, biện chứng của hai mặt: một mặt là khuôn khổ độc lập - ranh giới luật pháp bên ngoài và bên trong của quốc gia; một mặt là năng lực tự chủ quyền lực thực tế cả về đối nội và đối ngoại mà quốc gia đó nắm giữ. “Nhận thức về chủ quyền quốc gia và hội nhập quốc tế trong giai đoạn hiện nay” (Tạp chí Cộng sản, số 833/2012), của tác giả Đỗ Sơn Hải, đã chỉ ra sự “mềm hóa” của khái niệm chủ quyền quốc gia và mối quan hệ giữa chủ quyền quốc gia và chính sách hội nhập quốc tế. Tác giả cho rằng, hội nhập quốc tế luôn gắn liền với trách nhiệm quốc tế và để thực hiện được những trách nhiệm này, đôi khi phải chấp nhận hy sinh một phần lợi ích quốc gia, và sâu xa hơn, là một phần chủ quyền quốc gia (quốc gia không thể hành động hoàn toàn và tuyệt đối theo ý muốn chủ quan 9 được). Một số quốc gia khác, vì e ngại chủ quyền bị xâm hại, nên bỏ lỡ cơ hội trong tiến trình hội nhập quốc tế. Như vậy, hội nhập quốc tế như “con dao hai lưỡi”, chỉ có những người biết sử dụng nó thì mới đạt được hiệu quả mong muốn. “Sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam với cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của các nước đang phát triển sau chiến tranh lạnh” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2013, của tác giả Nguyễn Hữu Toàn, đề cập đến vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, các cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập dân tộc của các nước đang phát triển. Trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, vấn đề độc lập dân tộc là bảo vệ, củng cố vững chắc độc lập, thống nhất, có chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam; bảo vệ Đảng, Nhà nước và chế độ xã hội chủ nghĩa, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình - bạo loạn lật đổ” của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch; bảo vệ công cuộc đổi mới theo con đường xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội. Tác giả Phạm Thị Hoàng Hà với bài “Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vấn đề dân tộc”, trong sách “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội, 2014), đã phân tích trong từng giai đoạn cách mạng Việt Nam, tư tưởng nhất quán trong chính sách dân tộc của Đảng ta là: Các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng, giúp nhau cùng phát triển. Trong đó, đặc biệt chú trọng đến vấn đề bình đẳng: Tất cả các dân tộc, dù đông hay ít người đều có tư cách chính trị - xã hội - pháp lý như nhau trong các quan hệ tộc người, trong quyền hạn và nghĩa vụ đối với đất nước. Dưới góc nhìn an ninh quốc phòng, tác giả Đàm Trọng Tùng đã phân tích các yếu tố đe dọa đến độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bài “Các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống đối với độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia” (Tạp chí Lý luận chính trị, số 6/2015). Theo tác giả, một loạt các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống là: biến đổi khí hậu, an ninh tài chính, an ninh năng lượng, khủng bố, các vấn đề về môi trường... đã trở thành vấn đề toàn cầu, ảnh hưởng đến sự tồn vong của quốc gia và nhân loại. 10 Sự tiếp cận “Về chủ quyền dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa” (Tạp chí Triết học, số 5 (300)/2016) của tác giả Đỗ Minh Hợp, sau khi phân tích các tác động của hình thức hiện đại của chủ nghĩa đế quốc - chủ nghĩa đế quốc về văn hóa - đã kết luận: “Mỗi cộng đồng dân tộc phải trở thành và có quyền trở thành một thành viên bình quyền và có ý thức gánh vác trách nhiệm về số phận của dân tộc mình và cũng là số phận chung của một loài người thống nhất. Nhà nước dân tộc chính là chủ thể hoàn thành mục đích cao cả nhưng nặng nề ấy trong điều kiện toàn cầu hóa”. Việt Nam là một quốc gia dân tộc đa sắc tộc, do đó vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc, tộc người và chính sách dân tộc là những vấn đề đáng lưu tâm khi nghiên cứu về chủ quyền quốc gia. Đây là hướng nghiên cứu của các tác giả Trịnh Quốc Tuấn với “Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996); nhóm tác giả Trần Hữu Tiến, Nguyễn Ngọc Long, Nguyễn Xuân Sơn với “Quan hệ giai cấp dân tộc - quốc tế” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002); tác giả Hoàng Chí Bảo với công trình “Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009); tác giả Lê Đại Nghĩa, Dương Văn Lượng với công trình “Dân tộc và chính sách dân tộc ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010). Ngoài các công trình có tính chất khái quát cao như trên, còn có một số bài viết có tính chất trao đổi, nghiên cứu được đăng trên các tạp chí trong nước thời gian qua như: “Về mối quan hệ giữa toàn cầu hóa, nhà nước - dân tộc và chủ quyền quốc gia” của tác giả Phạm Thái Việt (Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, số 6/2006), “Độc lập, tự chủ: Tiếp cận từ góc độ chủ quyền quốc gia” của tác giả Nguyễn Xuân Thắng, Đặng Xuân Thanh (Tạp chí Những vấn đề Kinh tế và Chính trị thế giới, số 10 (162)/2009), “Bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia, giữ gìn hòa bình, ổn định để phát triển đất nước” của tác giả Phạm Văn Linh (Tạp chí Thông tin đối ngoại, 11/2009), “Tư tưởng của V.I.Lênin về quan hệ giữa các quốc gia dân tộc và sự vận dụng của Đảng ta về công tác đối ngoại” của tác giả Trần Nguyễn Tuyên (Tạp chí 11 Lý luận chính trị, 11/2010), “Độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế” của tác giả Nguyễn Hoàng Giáp (Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, 8/2011), ““Sắc lệnh về hòa bình” của V.I.Lênin khẳng định nguyên tắc cùng tồn tại hòa bình, hữu nghị giữa các quốc gia, dân tộc”, của tác giả Nguyễn Đức Thắng (Tạp chí Cộng sản, số 858/2014), “Vấn đề dân tộc ở Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”, của tác giả Nguyễn Lâm Thành, Lê Ngọc Thắng (Tạp chí Cộng sản, số 874/2015). Nhìn chung các công trình này tập trung giải quyết vấn đề độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia trong hoàn cảnh mở cửa, hội nhập quốc tế và quan điểm vấn đề dân tộc ở Việt Nam từ truyền thống đến hiện đại. Các công trình này đều thống nhất chủ quyền quốc gia là tối thượng, một giá trị bất biến, duy nhất, không thể phân chia trong hội nhập quốc tế. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu liên quan cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người Tác giả Hoàng Hùng Hải trong “Góp phần tìm hiểu quyền con người ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2008), đã khảo sát tìm hiểu sự phát triển của quyền con người trong các tác phẩm của C.Mác, Ph.Ăngghen và tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm và chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước Việt Nam về quyền con người; xây dựng, hoàn thiện pháp luật vì quyền con người với sự lãnh đạo của Đảng; nội dung của các nhóm quyền cụ thể. Bên cạnh việc phân tích các khái niệm, nguồn gốc, cơ sở hình thành và phát triển tư tưởng của V.I.Lênin về quyền con người trong cuốn sách “Tư tưởng của V.I.Lênin về quyền con người và giá trị thực tiễn ở Việt Nam” (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010), các tác giả Hoàng Mai Hương, Nguyễn Hồng Hải còn làm rõ nội dung tư tưởng của V.I.Lênin về dân chủ, quyền dân tộc tự quyết, quyền chính trị và quyền tham gia. Tác giả chỉ rõ, thực chất của vấn đề quyền dân tộc tự quyết trong thời kỳ đế quốc chủ nghĩa chính là vấn đề giải phóng các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc. “Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng dân tộc hiện thân văn hóa châu Á và thời đại” (Nhà xuất bản Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2010), của tác giả Nguyễn Văn 12 Hồng, chỉ ra chủ nghĩa Tam dân của Tôn Trung Sơn, tư tưởng Hồ Chí Minh đều là triết học yêu nước cách mạng dân tộc. Xuất phát từ bối cảnh lịch sử tương đồng đã tạo nên sự gặp gỡ nhận thức của hai nhà tư tưởng và nhằm tiến tới “cải tạo” một xã hội áp bức, bất công để xây dựng một xã hội đạt tới lý tưởng công bằng, ấm no, hạnh phúc - “thế giới đại đồng”. Tác giả Trịnh Thị Hằng với bài “Sự khác nhau giữa tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn” (Tạp chí Triết học, số 12 (259)/2012), đã luận giải sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong việc tiếp thu một cách có chọn lọc những yếu tố phù hợp trong chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn vào điều kiện lịch sử cụ thể của Việt Nam. Chủ nghĩa dân tộc ở Hồ Chí Minh là đấu tranh giải phóng dân tộc, chính quyền thuộc về nhân dân, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội,.. chứ không đơn thuần là vấn đề dòng tộc, tông tộc như Tôn Trung Sơn quan niệm. Tác giả luận án tiếp thu từ các công trình này cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về chủ quyền quốc gia và quyền con người từ tinh hoa văn hóa nhân loại và chủ nghĩa Mác - Lênin. Các bài báo đăng trên các tạp chí uy tín trong nước như: “Quan điểm về quyền con người trong các tác phẩm của C.Mác và Ph.Ăngghen” của tác giả Lê Thị Thanh Hà (Tạp chí Khoa học xã hội, số 7/2007), “Dân chủ và quyền con người như những phạm trù lịch sử” của tác giả Hoàng Văn Nghĩa (Tạp chí Lý luận chính trị, số 5/2010), “Nhân quyền và nhân ái trong truyền thống” của tác giả Văn Tạo (Tạp chí Khoa học và Tổ quốc, tháng 1+2/2010), “Quyền con người, đạo đức và pháp luật” của tác giả Hoàng Thị Kim Quế (Tạp chí Nhà nước và Pháp luật, số 3/2012), “Tư tưởng của Ph.Ăngghen về bình đẳng và đoàn kết dân tộc soi sáng con đường cách mạng Việt Nam” của tác giả Nguyễn Đức Thắng (Tạp chí Cộng sản, số 853, 11/2013),... trong nhóm này, thì bài “Cơ sở lý luận của quyền con người vì sự phát triển con người” (Tạp chí Triết học, số 7 (266)/2013), của tác giả Lương Đình Hải, như là một sự khái quát, đã chỉ ra tám cơ sở lý luận khách quan và quan trọng trong việc xác định các vấn đề cơ bản về quyền con người vì mục tiêu phát triển con người, 13 đó là: Các tư tưởng về quyền con người và phát triển con người; lý luận về lịch sử văn hóa của các quyền con người; cơ sở pháp lý của các quyền con người được định hình dưới các chuẩn mực, giá trị đạo đức, tinh thần tập quán; các tiếp cận quyền con người; sự phân định phạm trù quyền con người với các phạm trù khác như quyền công dân, an ninh con người, phát triển con người...; các văn kiện quốc tế về quyền con người mà nước ta đã ký kết; những quan điểm, tư tưởng của Đảng ta về con người và phát triển con người; Hiến pháp với những nội dung liên quan trực tiếp và gián tiếp về quyền con người. Với bài “Vấn đề độc lập trong triết lý bảo vệ Tổ quốc Việt Nam truyền thống”, đăng Tạp chí Lý luận chính trị, số 1-2017 của tác giả Phan Mạnh Toàn nhận định, “quan niệm về quốc gia độc lập trong triết lý bảo vệ Tổ quốc Việt Nam truyền thống, bên cạnh những hạn chế mang tính lịch sử là điều không thể tránh khỏi, nó để lại cho lịch sử tư tưởng dân tộc những giá trị không thể phủ nhận. Nó khẳng định, quốc gia độc lập, thống nhất của chúng ta là một thực tế lịch sử và là điều thiêng liêng, không kẻ thù nào có thể xâm phạm. Việc giữ gìn, bảo vệ quốc gia độc lập, thống nhất ấy cũng chính là yêu cầu của nhân dân ta qua các thời đại. Mọi hành động làm tổn hại đến độc lập dân tộc và sự thống nhất đất nước là có tội với Tổ quốc và nhân dân”. Tác giả Hoàng Văn Nghĩa với bài “Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội hiện thực với sự phát triển hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người”, đăng Tạp chí Lý luận chính trị, số 11-2017, chỉ rõ những đóng góp của Cách mạng Tháng Mười và chủ nghĩa xã hội hiện thực vào sự phát triển hệ thống pháp luật quốc tế về quyền con người là: Thứ nhất, tiếp cận duy vật và lịch sử về quyền con người. Thứ hai, đấu tranh vì các quyền phổ thông đầu phiếu, bình đẳng về kinh tế và các quyền xã hội cơ bản khác. Thứ ba, khẳng định quyền dân tộc tự quyết. Ở thế kỷ XX, Hồ Chí Minh góp phần thay đổi cả lý luận và thực tiễn pháp luật quốc tế trong việc ghi nhận quyền dân tộc tự quyết như là một quyền con người cơ bản, là bộ phận tất yếu gắn liền với các quyền cá nhân. Những tuyên bố của Người trong “Tuyên ngôn Độc lập” 14 1945 và trong “Hiến pháp Việt Nam năm 1946” đã được Liên hợp quốc ghi nhận vào trong hệ thống pháp luật quốc tế về quyền dân tộc tự quyết năm 1948 và 1966. Bàn một cách đầy đủ nhất về cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người là “Tư tưởng Hồ Chí Minh về quyền con người”, của tác giả Phạm Ngọc Anh (chủ biên) (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005). Trong chương 1 của cuốn sách, các tác giả đã chỉ rõ: Bối cảnh Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX với ba đặc trưng. Một là, với hai mâu thuẫn cơ bản quan hệ khăng khít nhau (Mâu thuẫn giữa thực dân Pháp cùng phong kiến tay sai với toàn thể dân tộc Việt Nam; mâu thuẫn giữa địa chủ phong kiến với nhân dân Việt Nam), nhân dân Việt Nam vừa không có quyền sống, quyền tự do, lại còn bị xâm phạm về thân thể, chịu nhục hình, bị đối xử dã man, vô nhân đạo, bị hạ thấp nhân phẩm. Hai là, chắt lọc tư tưởng của các nhà khai sáng Môngtexkiơ (1689-1755), Vônte (1694-1778), Rútxô (1712-1778), Hồ Chí Minh thường lên án cái gọi là “công lý” của nhà nước tư sản. Ba là, mâu thuẫn dân tộc là sự bao trùm xã hội Việt Nam, tất yếu dẫn đến các phong trào đấu tranh thực hiện khát vọng độc lập, tự do và quyền con người. Đó là thực tiễn hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân của Hồ Chí Minh. Về đặc điểm quê hương, gia đình: Hồ Chí Minh sinh trưởng trong gia đình nhà Nho yêu nước, học tập và trưởng thành trên hai quê hương (Nam Đàn và Huế) là các nôi cách mạng Việt Nam. Gia đình, quê hương, đất nước đã chuẩn bị rất đầy đủ chủ nghĩa yêu nước truyền thống của Việt Nam để Người ra đi tìm đường cứu nước, cứu dân. Về bối cảnh thời đại, với vốn tri thức uyên thâm, phong phú qua tích lũy rèn luyện trong nước và nước ngoài, năm 1920, khi đến được “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về dân tộc và dân tộc thuộc địa” của V.I. Lênin, Người đã có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về quyền con người. Từ đó, Người không ngừng phát triển, hoàn thiện lý luận nhân quyền của mình bằng thực tiễn cách mạng Việt Nam, cho ra đời “Tuyên ngôn Độc lập” 1945 và “Hiến pháp Việt Nam 1946”. Những tuyên bố bất hủ, không thể chối cãi được của Người về nhân quyền trong hai tác phẩm ấy trùng khít, nhưng có trước “Tuyên ngôn về quyền con người” của Liên hợp quốc 10/12/1948. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan