Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng giáo dục của jiddu krishnamurti...

Tài liệu Tư tưởng giáo dục của jiddu krishnamurti

.PDF
105
634
143

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- ĐINH THỊ TUYẾT TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA JIDDU KRISHNAMURTI LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội - 2014 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN -------------------------------------- ĐINH THỊ TUYẾT TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA JIDDU KRISHNAMURTI Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số: 60.22.03.01 Người hướng dẫn khoa học: TS. Lê Công Sự Hà Nội - 2014 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ với đề tài “Tư tưởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti” là công trình nghiên cứu của riêng cá nhân tôi và những kết quả nghiên cứu trong luận văn này hoàn toàn trung thực. Hà Nội, tháng 10 năm 2014 Tác giả luận văn Đinh Thị Tuyết LỜI CẢM ƠN! Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới các thầy giáo, cô giáo trong khoa Triết học - Trường Đại Học Khoa học Xã Hội và Nhân Văn, ĐHQGHN, đã đào tạo, giúp đỡ tôi trong suốt thời gian học vừa qua và đã tạo điều kiện cho tôi được thực hiện luận văn tốt nghiệp này. Đặc biệt, tôi xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của TS. Lê Công Sự - Giáo viên hướng dẫn trực tiếp đã giúp tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp một cách thuận lợi. Thầy đã luôn bên cạnh để đóng góp, sửa chữa những thiếu sót, khuyết điểm tôi mắc phải và đề ra hướng giải quyết tốt nhất từ khi tôi bắt đầu viết luận văn cho tới khi hoàn thành. Tôi cũng xin cảm ơn gia đình và các bạn trong tập thể lớp đã giúp đỡ, động viên tôi trong suốt thời gian học tập và làm luận văn. Luận văn chắc chắn sẽ không tránh khỏi hạn chế và thiếu sót, tôi rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô cùng toàn thể các bạn để đề tài của tôi được bổ sung và phát triển hoàn thiện hơn. Một lần nữa tôi xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 10, năm 2014 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu ........................................................ 1 2. Tình hình nghiên cứu đề tài ..................................................................... 3 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu........................................................... 5 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ........................................................... 6 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu .............................................. 6 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn................................................ 6 7. Kết cấu của luận văn ................................................................................ 6 Chƣơng 1: NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA JIDDU KRISHNAMURTI .............................................. 7 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Jiddu Krishnamurti .............................. 7 1.1.1. Gia đình, tuổi thơ và trường học .................................................... 7 1.1.2. Hành trình diễn thuyết và các tác phẩm cơ bản .......................... 20 1.2. Những điều kiện, tiền đề hình thành tƣ tƣởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti .............................................................................. 25 1.2.1. Điều kiện kinh tế- xã hội ............................................................... 25 1.2.2. Tiền đề văn hoá và tư tưởng .......................................................... 30 Chƣơng 2: NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA JIDDU KRISHNAMURTI ............................................ 34 2.1. Mục đích, ý nghĩa và nội dung của giáo dục ................................ 34 2.1.1. Mục đích và ý nghĩa của giáo dục .............................................. 34 2.1.2. Nội dung của giáo dục ................................................................ 42 2.2. Những nguyên tắc tiến hành giáo dục .......................................... 45 2.2.1. Giáo dục dựa trên tinh thần tự do, tình thương yêu và thiện tâm... 45 2.2.2. Giáo dục phải giúp con người hướng tới sự hiểu biết, từ đó xác định mục đích và lý tưởng sống ........................................... 58 2.3. Vai trò của các bậc phụ huynh và ngƣời thầy trong giáo dục ... 63 2.3.1. Vai trò của các bậc phụ huynh trong giáo dục ........................... 63 2.3.2. Vai trò của người thầy trong giáo dục ........................................ 69 2.4 Tƣ tƣởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti đối với thế giới và Việt Nam hiện nay ..................................................................... 77 2.4.1. Tư tưởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti đối với thế giới........ 77 2.4.2. Tư tưởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti trong sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay..................................................... 83 KẾT LUẬN .................................................................................................... 93 TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................. 97 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu Giáo dục và đào tạo là nhân tố quyết định phát huy tiềm năng trí tuệ cũng như khả năng sáng tạo của con người, là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đưa nước ta nhanh chóng hội nhập với khu vực và thế giới. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm việc mở mang dân trí, chăm lo sự nghiệp giáo dục. Người đánh giá cao vai trò của giáo dục đối với sự hưng thịnh đất nước, với nhiệm vụ trọng đại là nâng cao dân đức, mở mang dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng nhân tài, đưa nước nhà tiến tới giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu. Người luôn nhấn mạnh yêu cầu của nền giáo dục và đào tạo nước ta là phải gắng sức phấn đấu theo kịp trình độ và chất lượng của các nước văn minh, tiên tiến. Kế thừa và phát triển tư tưởng của Hồ Chí Minh về giáo dục, Đảng và Nhà nước ta luôn kiên trì mục tiêu giáo dục là hướng tới việc phát triển con người và nguồn nhân lực. Trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta khẳng định: “Phát triển giáo dục là quốc sách hàng đầu”, đồng thời đưa ra chủ trương: “Đổi mới căn bản, toàn diện nền giáo dục Việt Nam theo hướng chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa; đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp dạy và học; đổi mới cơ chế quản lý giáo dục, phát triển đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục, đào tạo” [6, tr. 41]. Tuy nhiên, hiện nay, thực trạng nền giáo dục Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, hạn chế trong việc xác định mục tiêu, quan điểm giáo dục, nội dung, phương pháp, chương trình đào tạo cũng như đội ngũ thầy giáo, hệ thống tổ chức và công tác quản lý. Tình hình đó đòi hỏi chúng ta phải có những biện pháp đổi mới "căn bản và toàn diện" nền giáo dục nước nhà, nâng cao chất lượng của giáo dục và đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đây là yêu cầu bức thiết đặt ra không chỉ với những người trực tiếp làm công tác giáo dục mà còn đối với toàn xã hội. Do vậy, trong thời gian vừa qua, có rất nhiều kiến nghị cũng như những biện pháp đưa ra nhằm cải cách nền giáo dục nước ta cho phù hợp với trình độ phát triển của thế giới. 1 Ở Việt Nam, việc nghiên cứu tư tưởng của các nhà giáo dục lớn trên thế giới có vai trò và ý nghĩa quan trọng. Thông qua việc nghiên cứu những quan niệm giáo dục tiến bộ và có ảnh hưởng lớn trên thế giới, chúng ta có thể học hỏi để tìm ra một triết lý giáo dục phù hợp với hoàn cảnh của Việt Nam nhưng không tách rời xu thế chung của thời đại. Trong tiến trình đó, hàng loạt những tác phẩm của các nhà giáo dục tiêu biểu trên thế giới cũng như những nghiên cứu về tư tưởng của họ được phổ biến rộng rãi và ảnh hưởng đến quan niệm giáo dục của nước ta. Là một trong số những nhân vật có ảnh hưởng lớn của thế kỷ XX, tư tưởng của Jiddu Krishnamurti đã soi sáng cuộc sống cho hàng triệu người khắp thế giới: cả những người trí thức và những người bình thường, trong đó có những nhân vật nổi tiếng về triết học, tôn giáo, nghệ thuật, văn hoá, tâm lý học, phân tâm học, chính trị học, khoa học như Adous Huxley, Henry Miller, Andre Niel, Indira Gandhi, David Bohn, Dalai Lama… Nhân dịp kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Liên Hiệp Quốc, Krishnamurti được mời đến trụ sở tại New York để nói chuyện với tư cách một triết gia thế tục vĩ đại. Bên cạnh vai trò là một hiền nhân, một triết gia, Krishnamurti còn là một nhà giáo dục có tầm ảnh hưởng ở nhiều nước. Những người ủng hộ ông, từng làm việc trong các tổ chức phi lợi nhuận hoặc trông nom một số trường học độc lập đã thực hiện nhiều quan điểm của ông về giáo dục tại Ấn Độ, Anh và Mỹ. Người ta đã sao chép và phổ biến hàng nghìn bài nói chuyện, các cuộc thảo luận nhóm, các tác phẩm khác, xuất bản chúng dưới nhiều hình thức như sách, sách điện tử, audio, video, internet bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau. Ở Việt Nam, một số tác phẩm của Krishnamurti mới chỉ được dịch và xuất bản trong thời gian gần đây. Những nghiên cứu về tư tưởng của Krishnamurti, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của ông còn ít. Do vậy, việc tìm hiểu tư tưởng của Krishnamurti, đặc biệt là những tư tưởng về giáo dục là một việc làm cần thiết. Điều đó không chỉ giúp chúng ta có hiểu biết về một nhà tư tưởng lớn của thế kỷ XX mà còn giúp ích cho việc học hỏi, tìm tòi một quan niệm giáo dục phù hợp với đất nước ta trong thời đại ngày nay. Vì tất cả những lý do trên, tôi chọn đề tài luận văn là: “Tư tưởng giáo dục của Jiddu Krishnamurti”. 2 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Những đóng góp của Jiddu Krishnamurti có ảnh hưởng rất lớn và để lại dấu ấn rõ nét trong suốt thế kỷ XX. Khi đánh giá về Krishnamurti, người ta xuất phát từ nhiều quan điểm khác nhau. Có người xem ông là nhà giáo dục, nhà tư tưởng; có người lại thích những điều huyền bí nên xem ông như một giáo chủ, bậc thầy tâm linh, là hiện thân của Bồ Tát hay một đấng tiên tri nào đó; nhiều người không thích tư tưởng của ông thì gọi ông là kẻ phản kháng, thậm chí phá hoại… và còn nhiều quan điểm khác nữa. Dù vậy, không ai có thể phủ nhận một điều rằng Krishnamurti là một triết gia yêu chuộng hoà bình; một người thuyết giảng đầy tài năng, cả cuộc đời có lẽ chỉ làm duy nhất một việc: nói và nói. Ở Việt Nam, do nhiều lý do khác nhau, việc nghiên cứu tư tưởng, đặc biệt là tư tưởng giáo dục của ông chưa được chú trọng. Nghiên cứu về Krishnamurti có thể kể đến công trình của các tác giả trong nước. Trước hết là tác phẩm Krishnamurti - Người nhập cuộc (Nxb. Thanh niên, 2004) của tác giả Mộc Nhiên. Tác phẩm đã giới thiệu tiểu sử và cuộc đời của Krishnamurti, trình bày những điểm mấu chốt trong tư tưởng của ông về triết học và đạo Phật. Ở đây tư tưởng giáo dục không được tác giả bàn đến một cách đầy đủ và độc lập. Gần đây nhất có bài báo: “Krishnamurti và quan niệm của ông về giáo dục” của tác giả Lê Công Sự được đăng trên tạp chí Khoa học Ngoại ngữ, số 16, 9-2008. Tác giả đã tập trung nêu những điểm cơ bản trong quan niệm của Krishnamurti như mục đích, ý nghĩa của giáo dục cũng như vai trò của người thầy trong nền giáo dục. Bên cạnh đó, tác giả cũng bước đầu chỉ ra một số giá trị của tư tưởng giáo dục của Krishnamurti đối với nền giáo dục trên thế giới và ở Việt Nam hiện nay. Trong bài: “Jiddu Krishnamurti và triết lý nhân sinh” đăng trên tạp chí Khoa học xã hội, số 314, 2-2009, tác giả Lê Công Sự đã nêu những nội dung nổi bật trong triết lý nhân sinh của Krishnamurti, trong đó không thể không kể đến quan niệm của ông về giáo dục. Có thể nói, hai bài báo trên chính là những gợi mở để chúng tôi tiếp cận và nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Krishnamurti. 3 Bên cạnh đó, nhiều tác phẩm nghiên cứu về tư tưởng của Krishnamurti cũng đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt. Đầu tiên có thể kể đến là cuốn “Krishnamurti cuộc đời và tư tưởng” (Nxb. Văn hoá Sài Gòn, 2007) của Rene Fouere do dịch giả Võ Văn Quế dịch. Trong tác phẩm này, tác giả đã nêu tóm tắt về cuộc đời của Krishnamurti và trình bày những tư tưởng cơ bản của ông. Tuy nhiên, tác phẩm này mang đậm dấu ấn cá nhân của người viết như chính tác giả đã thừa nhận: “Để nói về Krishnamurti là một việc làm khó khăn và mạo hiểm, vì ông là một người mà tôi tin, là một trong những người đáng kể nhất của tất cả mọi thời đại” [37, tr.15]. Bên cạnh đó, tác giả cũng không đề cập cụ thể đến tư tưởng giáo dục của Krishnamurti. Dịch giả Nguyễn Ước dày công biên dịch bộ sách: “Krishnamurti: cuộc đời và tư tưởng” (Nxb. Văn học, 2002). Đây là tập sách đồ sộ với ba tập bao quát tư tưởng của Krishnamurti qua các thời kỳ. Tập I: “Krishnamurti tinh yếu” là tuyển tập nguyên văn những bài diễn thuyết và thảo luận quan trọng nhất trong hơn 60 năm thuyết giảng của ông. Cuốn sách đề cập đến mọi vấn đề thuộc về cuộc sống hàng ngày, các đề tài đạo đức học và tôn giáo, tu trì và thế tục, hạnh phúc và đau khổ, nô lệ và giải thoát, cá nhân và thế giới… Tập II: “Đời không tâm điểm” nói về phần đầu cuộc đời Krishnamurti, từ lúc ông ra đời cho tới năm 1977. Đây là cuốn sách ghi lại những lời kể và đánh giá của bà Tayakar- một người gần như cũng thời và là cộng sự của Krishnamurti. Bà đặt tường trình của mình trong bối cảnh lịch sử, xã hội hiện đại của Ấn Độ, với những vấn đề quen thuộc của một đất nước mới được giải phóng: sự phân ly, chiến tranh, nghèo đói và các hội chứng trong cơn lốc đổi mới. Tập III: “Dòng sông thanh tẩy” tiếp tục bản tường trình của Jayakar và các bản tóm tắt lời giảng từ năm 1978 cho đến ngày ông từ trần. Bên cạnh đó, tập sách cũng ghi lại những tán đồng hoặc tranh luận về lối sống và tư tưởng của Krishnamurti từ những người thân cận. Ba tập sách trên chứa đựng nội dung phong phú và tương đối đầy đủ về cuộc đời và tư tưởng của Krishnamurti nhưng nó khá dàn trải, đặc biệt không có mục nào viết về tư tưởng giáo dục của Krishnamurti. 4 Ngoài ra còn có cuốn “Từ điển tôn giáo và các thể nghiệm siêu việt” (Nxb. Tôn giáo, 2005) của tác giả Rosemary Ellen Guiley, Nguyễn Kiên Cường và nhóm cộng sự dịch. Trong cuốn sách này, Krishnamurti được đề cập đến như là người sáng lập ra Hội Ngôi sao Phương Đông (The International Order of the Star in the East) và là người Thầy thế giới - hoá thân của Thượng đế theo quan niệm của Hội Thông Thiên học. Ngoài những công trình của các tác giả nghiên cứu về Krishnamurti và tư tưởng của ông, chúng tôi cũng tập trung vào các tác phẩm của chính Krishnamurti viết chuyên về đề tài giáo dục đã được dịch ra tiếng Việt. Đáng kể nhất trong số đó là tác phẩm “Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống” (Nxb. Văn hoá Sài Gòn, 2007) do dịch giả Hoài Khanh dịch. Cuốn sách tập trung hầu như toàn bộ các quan niệm của Krishnamurti về giáo dục như ý nghĩa, mục đích của giáo dục cũng như vai trò của các nhà giáo dục đối với việc hình thành nhân cách của những đứa trẻ. Ngoài ra còn có một số tác phẩm khác của Krishnamurti như “Đường vào hiện sinh” (Nxb. Lao động, 2010) do dịch giả Thanh Lương Thích Thiện Sáng dịch; tác phẩm “Thoát khỏi tri kiến thức” (Nxb. Thời đại, 2010) do dịch giả Đào Hữu Nghĩa dịch (2010); dịch giả trên cũng dịch nhiều tác phẩm khác của Krishnamurti như “Chân lý và thực tại” (Nxb. Thời đại, 2010), “Chất vấn Krishnamurti” (Nxb. Sách Thời đại, 2010). Chúng tôi coi đây là nguồn tư liệu quan trọng trong quá trình nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Krishnamurti, đồng thời cũng là căn cứ trích dẫn trong toàn luận văn. Việc nghiên cứu về cuộc đời và tư tưởng của Krishnamurti đã được bàn đến trong nhiều công trình, nhưng nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng giáo dục của ông thì cho đến nay chưa có tác phẩm nào đề cập đến. Kế thừa những giá trị trong các công trình đã kể trên, tác giả luận văn cố gắng bám sát nội dung đã trình bày trong tác phẩm “Giáo dục và ý nghĩa cuộc sống” để làm rõ tư tưởng của Krishnamurti về giáo dục. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Luận văn làm rõ tư tưởng giáo dục của Krishnamurti, từ đó chỉ ra giá trị của tư tưởng trên đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 5 - Để đạt được mục đích trên, luận văn cần thực hiện ba nhiệm vụ cơ bản: + Trình bày những điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng giáo dục của Krishnamurti. + Trình bày tư tưởng giáo dục của Krishnamurti. + Chỉ ra giá trị của tư tưởng giáo dục của Krishnamurti đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Luận văn nghiên cứu những tư tưởng giáo dục của Krishnamurti và giá trị của nó đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam. - Phạm vi nghiên cứu của luận văn là tư tưởng giáo dục của Krishnamurti thông qua các tác phẩm của ông, chủ yếu là những tác phẩm đã đã được dịch và xuất bản bằng tiếng Việt. 5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Tác giả nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Krishnamurti dựa trên nền tảng quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Ngoài ra, tác giả sử dụng những phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp hệ thống, phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống nhất giữa lôgic - lịch sử, phương pháp so sánh và các nguyên tắc của phép biện chứng duy vật. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn nghiên cứu tư tưởng giáo dục của Krishnamurti một cách tương đối đầy đủ và hệ thống, làm sáng tỏ những điều kiện, tiền đề hình thành tư tưởng giáo dục của Krishnamurti, qua đó chỉ ra những giá trị trong tư tưởng giáo dục của Krishnamurti với thế giới. Luận văn nghiên cứu giá trị của những quan niệm giáo dục của Krishnamurti đối với sự nghiệp giáo dục ở Việt Nam hiện nay. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 6 tiết. 6 Chƣơng 1 NHỮNG ĐIỀU KIỆN HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG GIÁO DỤC CỦA JIDDU KRISHNAMURTI 1.1. Cuộc đời và sự nghiệp của Jiddu Krishnamurti 1.1.1. Gia đình, tuổi thơ và trường học Krishnamurti sinh ngày 12 tháng 5 năm 1895 trong một gia đình theo đạo Bà la môn tại một thị trấn nhỏ thuộc Madanapalle, miền Nam Ấn Độ. Đây là mảnh đất thiêng liêng, nơi những thánh nhân đã sống, đã để lại lời giảng và thân thể của họ trên mảnh đất này. Tổ tiên của Jiddu Krishnamurti thuộc tầng lớp tri thức, có nguồn gốc từ Giddu hay Jiddu, một ngôi làng nằm giữa những cánh đồng lúa phì nhiêu của bờ biển Andhra. Cha của Krishnamurti là Marianiah Jiddu - một viên chức làm việc cho chính quyền Anh. Mẹ của ông là Sanjeevamma, một phụ nữ nhân từ và sùng đạo. Bà được cho là có nhãn quan tâm linh, kinh nghiệm, và có thể thấy màu sắc trong những hào quang của con người. Khi mang thai Krishnamurti, bà cảm nhận được sự kỳ lạ của đứa trẻ đang hình thành trong thân thể. Krishnamurti được sinh ra trong căn phòng puja của nhà Marianiah Jiddu. Đây là một điều đặc biệt đối với truyền thống Ấn Độ. Theo quan niệm truyền thống, phòng puja là nơi thiêng liêng, trung tâm của ngôi nhà, nơi những vị thần giữ nhà được thờ phụng. Nó là một căn phòng được làm để báo điềm tốt lành. Trong căn phòng luôn có hoa và hương trầm cùng với những câu thần chú thiêng liêng. Căn phòng dành cho những vị thần này chỉ có thể được đi vào sau một nghi thức tắm và mặc những bộ quần áo sạch sẽ. Sinh tử và chu kỳ kinh nguyệt được coi như là sự ô uế của nghi thức. Khi có hiện tượng sinh tử, người chủ nhà và gia đình của anh ấy cùng chia sẻ sự ô uế và bị cấm không được thực hiện nghi thức puja hàng ngày. Thay vì vậy một tư tế từ ngôi đền địa phương được mời đến để thực hiện nghi lễ. Krishnamurti được sinh ra trong căn phòng này là theo ước nguyện của mẹ ông. Sanjeevamma có linh cảm rằng đứa con thứ tám này chắc chắn sẽ phi thường theo cách nào đó. Do vậy, bất chấp sự phản đối 7 từ phía người chồng, bà kiên quyết đòi sinh Krishnamurti trong phòng nghi lễ. Trong căn phòng nhỏ xíu được thắp sáng bởi những cây đèn dầu, trong sự hiện diện của thần giữ nhà, Krishnamurti đã chào đời. Sáng hôm sau lá số tử vi của đứa trẻ được tiên đoán bởi Kumara Shrowthulu, người chiêm tinh nổi tiếng của vùng. Ông báo cho Narianiah biết rằng đứa trẻ sẽ là một con người vĩ đại. Lá số tử vi rất phức tạp; đứa trẻ sẽ gặp phải nhiều trở ngại trước khi lớn lên để trở thành một người thầy vĩ đại. Suốt mười một ngày của thời kỳ được quy định, đứa trẻ nghỉ ngơi trong một bầu không khí tái tạo trong môi trường tử cung. Đứa trẻ nằm trong bóng tối lờ mờ, được ru nhẹ trong một cái nôi vải đặt kế cận người mẹ. Giống như tất cả những đứa trẻ được sinh ra theo truyền thống của Ấn Độ, đường vào ánh sáng chói lòa của mặt trời và thế giới của Krishnamurti phải diễn ra dần dần. Vào ngày thứ sáu sau khi sinh ra, nghi thức đặt tên được tổ chức. Do gia đình bị trói buộc bởi truyền thống, chắc chắn đứa con trai thứ tám phải được đặt tên là Krishnamurti, biểu tượng của Krishna, sự hoá thân thứ tám của thần Vishnu trong Ấn giáo. Thần Krishna thường được miêu tả là một đứa trẻ sơ sinh hoặc cậu bé chơi một cây sáo, cũng có khi là hình ảnh một hoàng tử trẻ tuổi, người thích đùa giỡn, người yêu mô hình, vị anh hùng tối cao. Khi Krishnamurti lên sáu, nghi lễ gia nhập đạo Bà la môn được thực hiện. Đây là thời kỳ kỷ luật, là chặng đầu tiên trong cuộc sống của một người theo đạo. Nghi lễ diễn ra tại Kadiri, nơi Narianiah - cha của Krishnamurti đã được thâu nhận trước kia. Khi tất cả mọi người trong gia đình tụ họp đông đủ, Krishnamurti được tắm và được mặc vào bộ quần áo mới. Sau đó cậu bé được mang vào và đặt trên hai đầu gối người cha, trong khi bàn tay vươn dài của Narianiah đỡ một cái khay bạc rắc đầy hạt gạo. Mẹ cậu, ngồi bên cạnh Narianiah, cầm ngón trỏ bàn tay phải đứa bé, và vẽ ngón tay đó trên gạo từ ngữ thiêng liêng AUM – câu thần chú linh thiêng biểu hiện sức mạnh tinh thần, giúp thanh tẩy mà mang linh hồn đến Đấng tối cao. Sợi chỉ thiêng liêng được choàng quanh hai vai của Krishnamurti và câu thần chú huyền bí để cầu 8 khẩn mặt trời, được thì thầm vào tai của Krishna bởi người cha. Ông được dạy để lặp lại câu thần chú bằng ngữ điệu, nhấn giọng và thực hiện cử chỉ cho đúng. Ông cũng dạy Krishnamurti lặp lại câu thần chú cầu khẩn mặt trời vào lúc bình minh và thực hiện những nghi lễ vào hoàng hôn, tắm theo nghi thức để tránh sự ô uế. Sau nghi lễ tại nhà, Krishnamurti được đưa đến ngôi đền Narasimhaswami để bày tỏ sự sùng kính và cầu nguyện cho sự thành công trong tương lai. Từ đó, Krishna được đưa đến ngôi trường gần nhất, nơi cậu được giao cho thầy giáo để cậu được dạy dỗ theo truyền thống tôn giáo. Khi còn nhỏ, Krishnamurti là một đứa trẻ yếu ớt và phải chịu đựng những cơn sốt rét nghiêm trọng. Lúc hai tuổi, Krishna suýt chết vì bệnh sốt rét. Do vậy, cậu thường xuyên bị những cơn co giật và chảy máu cam. Thậm chí, cậu phải nghỉ ở nhà một năm vì bị chảy máu ở mũi và miệng. Trong khoảng thời gian này, cậu thường theo mẹ đến các ngôi đền, được nghe kể về Mahabharata và Ramayana. Cậu cũng rất chăm chỉ thực hiện các nghi lễ theo truyền thống Ấn Độ. Ở trường, Krishnamurti không được đánh giá cao về khả năng học hành. Cậu bị coi là một đứa trẻ kém thông minh và tinh thần không phát triển. Krishnamurti rất hay mơ mộng và lơ đãng. Cậu thích nhìn ngắm những đám mây, những con ong, những con kiến và những con côn trùng, nhìn vào những khoảng không mênh mông. Cậu cũng có bản tính rộng lượng, một nét đặc trưng mà cậu mang theo suốt cuộc đời. Khi từ trường học trở về, cậu thường không mang theo bảng, phấn, vở hay bất cứ thứ gì vì chúng đã được mang cho các bạn nghèo hơn. Theo tập quán, khi những người ăn mày đến nhà, mẹ cậu sai ra phát gạo thì cậu sẽ quay vào và xin thêm. Khi được mẹ thết đãi đồ ăn ngon, cậu chỉ giữ lấy một ít và chia sẻ phần còn lại cho các anh em. Krishna cũng có một đặc điểm khác trong tính cách của cậu mà xem ra có vẻ mâu thuẫn với tính lơ đãng - một tình yêu đáng kinh ngạc với máy móc. Có một ngày Krishnamurti trốn học. Người mẹ đi tìm và phát hiện ra cậu đang ở một mình trong phòng, đang mê mải tháo tung cái đồng hồ. Cậu sẽ không rời 9 khỏi phòng và không ăn uống gì cho đến lúc cậu đã tháo rời mọi bộ phận của cái đồng hồ, sau khi đã hiểu rõ nó vận hành ra sao rồi lắp các bộ phận trở lại vị trí cũ. Có một mối ràng buộc giữa Krishnamurti với người em Nityananda. Nitya rất lanh lẹ và thông minh ở trường trong khi Krishna lại không thể học hành gì được. Khi họ lớn lên, Krishnamurti càng phụ thuộc vào cậu em này. Năm 1904, người chị gái đầu của Krishnamurti - một người có bản tính duy tâm - qua đời. Sau cái chết của người chị, Krishnamurti bộc lộ khả năng thấu suốt lần đầu tiên của mình. Một năm rưỡi sau, khi Krishna được mười tuổi, thảm kịch thực sự đã xảy ra cho gia đình. Người mẹ - bà Sanjeevamma qua đời. Cái chết của bà có ảnh hưởng rất lớn đến những người trong gia đình, đặc biệt là cậu bé Krishna, vì cậu là người quyến luyến mẹ nhất trong số các anh chị em. Cái chết của bà mẹ khiến cho Krishnamurti và các anh em của cậu mất đi người thương yêu và chăm sóc cho chúng nhiều nhất. Người cha quá bận rộn với công việc nên không chăm sóc các con của mình được nhiều. Năm 1907, Narianiah phải thôi việc khi mới năm mươi hai tuổi cùng với tiền lương hưu chỉ bằng nửa tiền lương lúc trước. Với đồng lương ít ỏi, ông thấy không thể duy trì gia đình đông người cùng với trách nhiệm phải cấp dưỡng cho người chị và các cháu trai. Ông viết một lá thư xin Annie Besant lãnh đạo hội “Thông Thiên học” tại Ấn Độ - một công việc để có thể nuôi sống gia đình của mình tại Adyar. Lá thư bị từ chối vì Mrs Besant cho rằng trường học gần nhất cũng cách đó 3 dặm và những đứa trẻ sẽ gây náo động trong khu vực. Tuy nhiên, sau rất nhiều lần nài nỉ, cuối cùng, Narianiah cũng được chấp nhận làm thư ký trợ tá trong tổ chức. Ông cùng gia đình dọn đến Adyar ngày 23 tháng giêng năm 1909. Vì không có sẵn nhà trong khu vực nên gia đình ông phải ở trong ngôi nhà tranh xiêu vẹo bên ngoài, không có công trình vệ sinh trong nhà và điều kiện sống tồi tệ. Hàng ngày, Krishna và em trai Nytia phải đi bộ sáu dặm để đến trường - nơi mà Krishnamurti bị đánh đập thường xuyên vì ngu dốt. Trong khi đó, anh trai cả Sivaram muốn trở thành bác sỹ nên đã theo học tại trường Presidency College ở Madra. Krishnamurti 10 và các em được chăm sóc bởi người chị gái của cha cậu - một người không giỏi giang việc nội trợ. Cha của Krishnamurti làm cho Hội “Thông Thiên học” (Hội Thần trí) và gia đình được ở trung tâm của tổ chức đã có ảnh hưởng rất lớn đến cuộc đời của ông sau này. Người sáng lập ra hội Thông Thiên học là Madame Helena Petrovna Blavatsk (HPB). Bà sinh ngày 12 tháng 8 năm 1831, tại Ukraine. Năm 1849, bà kết hôn và sau đó bắt đầu du lịch vòng quanh thế giới trong suốt 20 năm. Hành trình này đã giúp bà tiếp xúc với truyền thống thần bí trên thế giới. Thông Thiên học là một tổ chức không giáo điều, phi chính trị, không bè phái và mang tính quốc tế. Cơ sở lý luận của Hội là thuyết Thần trí (Theosophy) - một học thuyết cho rằng người ta có thể hiểu biết được thực tại siêu việt bằng cách mặc khải hoặc truyền thống huyền bí. Thuật ngữ “theosophy” bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp: theos - thần thánh và sophia - hiểu biết. Nếu được rèn luyện trong thời hiện đại, thuyết Thần trí khẳng định mọi tôn giáo đều bắt nguồn từ một nguồn gốc cổ xưa, lặp lại truyện thần thoại và biểu tượng. Việc nghiên cứu những bí ẩn này sẽ dẫn đến chân lý và sự duy nhất tâm linh. Blavatsk cho rằng thuyết Thần trí có từ thế kỷ III sau CN. Theo thuyết này thì mọi tôn giáo đều có chung ba quan điểm chính: đức tin vào một vị thần tuyệt đối được coi là nguồn tạo thành vạn vật; tính bất tử của nhân loại xuất phát từ vị thần ấy; nếu làm cho mình trở nên thuần khiết thì có thể nhận được những bí mật thần thánh. Blavatsk cũng cho rằng những nền văn minh đầu tiên, chẳng hạn như Ai Cập và Hy Lạp, hiểu biết bí truyền tốt hơn các xã hội hiện đại và những người thầy của họ rất tinh thông thuật huyền bí. Những bậc Thầy này sống qua hàng thế kỷ với nhiều lần hoá thân khác nhau, gìn giữ kiến thức ấy cho những môn đệ xứng đáng. Hầu hết những người Thầy, theo Blavatsk, đều sống ở những nơi hẻo lánh thuộc Tây Tạng, Mông Cổ hay Ấn Độ. Năm 1909, Krishnamurti có cơ hội gặp gỡ với Charles Webster Leadbeater - một nhà huyền bí học nổi tiếng và có vị trí cao trong Hội Thông Thiên học tại một khu đất thuộc trụ sở chính của Hội ở Adyar thuộc Madras 11 (bây giờ là Chennai). C.W.Leadbeater nhận thấy ở Krishnamurti có một hào quang lạ thường, không bị ô uế bởi tính vị kỷ. Ông quả quyết rằng ngày nào đó chính Krishnamurti sẽ trở thành một người thầy tinh thần và một người giảng thuyết vĩ đại. Không lâu sau đó, Leadbeater thuyết phục Narianiah cho Krishna và Nitya được nghỉ học và cho phép các cậu được giáo dục dưới sự trông nom của ông trong khi các cậu vẫn sống cùng cha và gia đình. Việc giáo dục Krishna và Nitya được giao cho bốn giáo viên thuộc Hội Thông Thiên học nhưng môn học quan trọng nhất được dạy là tiếng Anh để các cậu có thể nói chuyện với Mrs Besant khi bà quay trở lại Ấn Độ. Ngoài việc học, các cậu còn được chăm lo về trang phục và được huấn luyện các môn thể thao. Điều này đặc biệt mang lại lợi ích khi Krishnamurti vốn là một đứa trẻ yếu đuối. Những chuyến đi xe đạp, dài, những buổi tập thể dục mang lại nhiều hứng thú cho Krishna. Cậu thích các hoạt động ngoài trời và giống như một vận động viên bẩm sinh nhưng vẫn không có hy vọng gì về các môn học khác. Thay vì nhìn vào giáo viên, cậu thường nhìn ra ngoài cửa sổ và không tập trung hẳn vào một cái gì. Bên cạnh việc học, Leadbeater cũng quan tâm đến việc giáo dục huyền bí cho các cậu. Ngày 17 tháng mười một năm 1909, Mrs Besant trở lại Ấn Độ và gặp Krishnamurti lần đầu tiên. Cuộc gặp gỡ này có vai trò rất quan trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến cuộc sống của Krishnamurti sau này. Sau đó, Mrs Besant đã nuôi dưỡng Krishnamurti với một tình yêu sâu sắc và sự quan tâm đặc biệt. Một nhóm các cậu trai đặc biệt được tuyển chọn để chơi đùa cùng Krishna; không người nào được phép ngồi trên ghế của cậu hay sử dụng cây vợt tennis của cậu. Mọi việc cậu làm đều được theo dõi chặt chẽ. Bên cạnh đó, bà cũng tìm mọi cách để quyền giám hộ Krishnamurti và Nitya được chuyển giao cho bà. Bà tin rằng Krishnamurti chính là Thầy thế giới mà bà đã tiên đoán sự xuất hiện trước đó nhiều năm. Đầu năm 1911, Hội Ngôi sao Phương Đông (The International Order of the Star in the East) được thành lập tại Adyar, Ấn Độ với người đứng đầu là 12 Krishnamurti; Leadbeater, Mrs Besant với tư cách là người bảo hộ của tổ chức. Mục đích của tổ chức là lôi kéo những người có cùng niềm tin vào Thầy thế giới và chuẩn bị tinh thần cho quần chúng đón nhận sự xuất hiện của Ngài. Sau đó, Krishnamurti được đưa đến Anh. Tại đây, cậu được chào đón một cách nồng nhiệt và có rất nhiều người tình nguyện gia nhập Hội Ngôi sao Phương Đông, sẵn sàng hiến nhà và xe để Mrs Besant và Krishnamurti sử dụng. Trong thời gian này, Krishnamurti và em trai được đi xem những nơi đẹp nhất ở nước Anh và tham gia những buổi họp của Hội Thông Thiên học. Leadbeater và Mrs Besant muốn các cậu được giáo dục tại Anh và học tại trường Oxford. Vì vậy, tháng 8 năm 1912, Krishnamurti và Nitya được ghi danh học tại New College - nơi Krishnamurti chờ đợi để được xét quyền cư trú vào năm 1914. Ngày 4 tháng 8 năm 1914, chiến tranh thế giới bùng nổ nhưng điều này không ảnh hưởng nhiều đến chuyện học của hai anh em Krishnamurti. Họ vẫn được sống trong ngôi nhà với đầy đủ tiện nghi do những người trong tổ chức hiến tặng. Nitya theo học cùng một gia sư tại Oxford và điều đó làm cho Krishna cảm thấy cô đơn. Cậu hầu như không có bạn cùng lứa tuổi để vui đùa bị ngăn cản gặp người ngoài. Cuối tháng 3 năm 1915, Nitya cũng rất buồn bã và mệt mỏi vì bị nhồi nhét quá nhiều bởi người thầy tại Oxford. Do vậy, cậu đã trốn tới Pháp như một người biệt phái đưa tin cho Hồng thập tự của Pháp. Krishna rất hào hứng và muốn đi cùng em trai nhưng vào phút cuối, nguyện vọng đó của cậu không được chấp nhận. Mrs Besant cho rằng việc quan trọng nhất của hai cậu là phải thi đậu vào trường Oxford. Tuy nhiên, cả hai cậu đều không thể nhập học vì những kiện tụng xung quanh chuyện Krishnamurti được lan truyền là Đấng cứu thế. Chẳng có trường đại học nào lại muốn học sinh của mình dính vào những rắc rối như vậy. Vậy là các cậu phải chuyển sang thi vào trường London University - một nơi còn khó khăn hơn Oxford rất nhiều. Krishnamurti cảm thấy thực sự mệt mỏi khi phải học những môn mà mình không có năng khiếu. Cậu cố gắng học để làm vừa lòng Mrs Besant 13 hơn là vì lợi ích cá nhân. Tháng giêng năm 1918, hai anh em Krishnamurti đi London để dự thi đại học. Krishna cảm thấy mình làm bài khá tốt nhưng cuối cùng không đủ điểm đỗ trong khi Nitya đỗ hạng danh dự. Nitya ở lại London để học ngành Luật nhưng Krishnamurti phải chuyển sang Pháp và theo học tại Đại học Sorbone. Việc học tập của cậu không diễn ra thuận lợi vì cậu cảm thấy sự tẻ nhạt và gò ép trong những môn học tại trường. Cuối cùng, những nỗ lực đào tạo cậu tại một trường đại học đành phải dừng lại. Bên cạnh việc học, Krishnamurti cũng theo các lớp diễn thuyết và có buổi nói chuyện tại Hội Thông Thiên học. Buổi diễn thuyết tại hội diễn ra tốt đẹp, mọi người chăm chú lắng nghe và vỗ tay tán thưởng khi kết thúc. Điều này đã để lại ấn tượng sâu đậm và có ảnh hưởng lớn đến cuộc đời Krishnamurti, lần đầu tiên cậu cảm thấy có thể làm tốt một công việc với niềm say mê lớn lao. Trong thời gian này, Krishna học tiếng Phạn (Sanskrit) mà theo cậu sẽ rất có ích cho công việc sau này tại Ấn Độ. Vào các kỳ nghỉ, Krishnamurti và em trai thường đi du lịch khắp các quốc gia châu Âu, châu Mỹ và châu Úc. Trong hành trình này, Krishnamurti có dịp được đến nhiều trường đại học nổi tiếng, quan sát cách giáo dục của họ. Điều này đã để lại dấu ấn đậm nét trong quan niệm về giáo dục của Krishnamurti sau này. Năm 1925, người em sau bao năm chung sống cùng Krishnamurti qua đời. Đây là một cú sốc lớn trong cuộc đời ông. Ông đã viết về sự đau khổ của mình: “Em tôi đã chết. Tôi đã khóc than trong nỗi cô đơn trơ trọi. Bất kỳ đi đến đâu tôi cũng đều nghe thấy giọng nói của nó và tiếng cười vui vẻ của nó. Tôi sẽ tìm kiếm khuôn mặt của nó giữa những khách quan đường và hỏi họ không biết họ có thấy em tôi không. Nhưng không một ai có thể đem đến cho tôi sự an ủi. Tôi đã cầu nguyện, tôi đã thờ phượng, song các vị Thần vẫn im lặng” [37, tr. 19]. Biến cố này đã làm thay đổi tư tưởng cũng như thái độ của ông đối với bậc thầy huyền bí. Điều này cũng góp phần vào việc ông chối bỏ vai trò của một Bậc Thầy thế giới - một việc mà ông đã chán nản từ rất lâu. Trong khoảng thời gian từ tháng 8 năm 1926 đến tháng 4 năm 1927, ông cùng 14 với Mrs Besant ở tại Ojai (Canifonia - Mỹ). Thành phố tuyệt đẹp này đã để lại cho ông trong nhiều ấn tượng sâu sắc. Ông đã dành nhiều thời giờ để trồng cây và suy ngẫm về những điều huyền bí xảy ra trong con người ông. Năm sau, mùa hè 1928, Krishnamurti có mặt tại Hà Lan. Ông đã bắt đầu nói với bạn bè về việc có thể giải tán hội Ngôi sao Phương Đông. Ông đã tổ chức một buổi diễn thuyết kéo dài mười ngày để nói về sự cần thiết phải loại bỏ tất cả những nền tảng của uy quyền, đặc biệt uy quyền của bậc Thầy Thế giới. Ngày 3 tháng 8 năm 1929, dưới sự chứng kiến của ba ngàn hội viên Hội Ngôi sao Phương Đông, ông tuyên bố giải tán hội. Việc Krishnamurti từ chối chấp nhận vai trò của Đấng Cứu thế được xếp đặt bởi Tổ chức Thông Thiên học đã làm Mrs Besant suy sụp tinh thần, thậm chí còn ngất xỉu khi nghe tin này. Sau đó, bà bị bệnh rất nặng, những khả năng tinh thần của bà biến dần từ từ; bà bị mất trí nhớ và không bao giờ hoàn toàn hồi phục. Sau đó, nhiều tổ chức và những quỹ khác nhau dưới danh nghĩa Hội Ngôi sao Phương Đông bị đóng cửa, những đất đai và những điền trang rộng lớn được giao lại cho những người dâng tặng ban đầu. Krishnamurti nổi lên như một triết gia thế tục, hoàn toàn căm ghét tất cả những niềm tin tôn giáo, và nhiều hội viên tích cực của Tổ chức Thông Thiên học khẳng định rằng Thầy Thế giới sắp đến đã bị hư hỏng. Nhưng chuyện này không làm ảnh hưởng đến Krishnamurti. Năm 1930, ông tuyên bố rút khỏi Tổ chức Thông Thiên học. Mọi mối dây liên hệ với tổ chức đều cắt đứt và ông cũng không nhận bất kì khoản trợ cấp hay ưu đãi nào từ tổ chức này nữa. Từ chối vai trò của người Thầy thế giới và từ bỏ tất cả những gì đã được sửa soạn cho mình sau hơn 20 năm, Krishnamurti đơn độc tiếp tục cuộc hành trình của mình. Năm 1933, ông đến Ấn Độ để thăm Mrs Besant. Lúc này bà đã rất yếu nhưng vẫn nhận ra đứa con mà bà đã thương yêu chăm sóc trong suốt một thời gian dài. Đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng giữa bà và Krishnamurti. Annie Besant chết tại Adyar ngày 20 tháng chín năm 1933. Krishnamurti không hề được thông báo về cái chết của bà, ông chỉ đọc được thông tin này trên một tờ 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan