Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tư tưởng dung thông nho, phật, đạo của nguyễn bỉnh khiêm, phùng khắc khoan và ng...

Tài liệu Tư tưởng dung thông nho, phật, đạo của nguyễn bỉnh khiêm, phùng khắc khoan và nguyễn dữ

.DOC
170
541
111

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ PHÚ DƯỠNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG NHO, PHẬT, ĐẠO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ NGUYỄN DỮ LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI VŨ PHÚ DƯỠNG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG NHO, PHẬT, ĐẠO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ NGUYỄN DỮ Chuyên ngành: Triết học Mã số: 9.22.90.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT Hà Nội - 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học được trình bày trong luận án chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác. Tác giả luận án Vũ Phú Dưỡng MỤC LỤC MỞ ĐẦU............................................................................................................ 1 Chương 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI.................5 1.1. Các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và mối quan hệ giữa Nho, Phật, Đạo...................................................................................................5 1.2. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ dung thông giữa Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ14 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông giữa Nho, Phật, Đạo trong di sản tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm.............................................14 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo trong di sản tư tưởng của Phùng Khắc Khoan...............................................27 1.2.3. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo trong di sản tư tưởng của Nguyễn Dữ.............................................................31 1.3. Khái quát những thành tựu và hạn chế của các công trình đã được khảo cứu và những vấn đề đặt ra cho luận án..............................................36 Chương 2. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ NGUYỄN DỮ...................................................................................................39 2.1. Khái niệm về tam giáo và dung thông tam giáo.................................... 39 2.1.1. Khái niệm “tam giáo”............................................................................ 39 2.1.2. Khái niệm về dung thông tam giáo........................................................40 2.2. Những điều kiện và tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ......................................................................................................................46 2.2.1. Bối cảnh lịch sử và tình hình kinh tế, chính trị - xã hội và văn hóa Đại Việt thế kỷ XVI.......................................................................................... 46 2.2.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành tư tưởng dung thông tam giáo ở Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ..................50 2.2.2.1. Sự du nhập của tam giáo vào Việt Nam.............................................50 2.2.2.2. Mối quan hệ tam giáo ở Việt Nam trước thế kỷ XVI.........................58 Chương 3. NỘI DUNG VÀ ĐẶC ĐIỂM TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN VÀ NGUYỄN DỮ............................................................................................80 3.1. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ............................................................................80 3.1.1. Thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Bỉnh Khiêm..................................80 3.1.2. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Phùng Khắc Khoan...................84 3.1.3.Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Nguyễn Dữ..................................86 3.2. Thế giới quan trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.................................................. 88 3.2.1. Quan niệm về “đạo trời”........................................................................88 3.2.2. Quan niệm về “đạo người”....................................................................95 3.3. Nhân sinh quan trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.......................................100 3.3.1. Nguyên tắc ứng xử của đạo làm người trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.........................................100 3.3.2. Triết lý nhàn dật trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ........................................................................... 108 3.4. Một số đặc điểm chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.........................118 3.4.1. Tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ là sự phản ánh nhu cầu thời đại về các phương diện cơ bản của đời sống tinh thần xã hội...................................... 118 3.4.2. Tư tưởng dung thông tam giáo của Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ là sự kế thừa và phát triển một số nội dung chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm.............................................123 Chương 4. NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CHỦ YẾU TRONG TƯ TƯỞNG DUNG THÔNG TAM GIÁO CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM, PHÙNG KHẮC KHOAN, NGUYỄN DỮ VÀ Ý NGHĨA LỊCH SỬ CỦA NÓ...................................................................................................................132 4.1. Những giá trị chủ yếu trong tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.........................132 4.2. Những hạn chế chủ yếu của tư tưởng dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ.........................137 4.3. Ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dung thông tam giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ................................................ 145 KẾT LUẬN....................................................................................................150 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................153 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tam giáo (Nho, Phật, Đạo) là ba học thuyết có nguồn gốc từ Trung Quốc và Ấn Độ, được truyền bá vào Việt Nam từ rất sớm. Trong suốt chiều dài lịch sử của dân tộc Việt Nam, các tôn giáo này không chỉ có sự tiếp biến với nhau mà còn với các yếu tố bản địa để hình thành nên các tư tưởng triết học, chính trị - xã hội và đạo đức của Việt Nam. Tuy các học thuyết trên có vị thế khác nhau trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể, song chính quá trình tiếp biến nói trên đã tạo nên mối quan hệ tam giáo với tính chất không đồng nhất với mối quan hệ tam giáo ở Trung Quốc và các nước đồng văn khác của khu vực. Từ trước tới nay, giới nghiên cứu lịch sử tư tưởng Việt Nam đã bàn nhiều đến các vấn đề về mối quan hệ tam giáo. Có người khẳng định cho rằng, tam giáo luôn bổ sung cho nhau, tạo nên xu hướng tam giáo thống nhất; số khác cho rằng, tam giáo xét cho cùng về phương diện đạo đức, là cùng chung nguồn gốc và tâm thế, họ dùng cụm từ Tam giáo đồng nguyên (cùng nguồn gốc); số thứ ba cho rằng, trong lịch sử tư tưởng Việt Nam có hiện tượng Tam giáo hòa đồng, Tam giáo hội nhập, bởi lẽ ở ba học thuyết ấy có một mục đích và nhiệm vụ chung trong việc giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống tôn giáo phức tạp, nếu thiếu sự hòa đồng và hội nhập sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường như xung đột tư tưởng, tín nhiệm, v.v.. Thế kỷ XVI mở ra một giai đoạn lịch sử hết sức phức tạp với sự suy yếu của nhà Lê Sơ, dẫn đến tình trạng chiến tranh và cát cứ. Tư tưởng đức trị, thống nhất của Nho giáo Khổng Mạnh trở nên có vấn đề khi trải qua một thế kỷ trị vì của nhà Lê Sơ lấy Nho giáo làm bệ đỡ hệ tư tưởng bị nhà Mạc lật đổ và kế theo đó là diễn biến trong ba thế kỷ khủng hoảng của chế độ phong kiến Việt Nam. Để có đủ cơ sở lý giải thời cuộc mà không phải lấy học thuyết duy nhất theo quan điểm chính thống là Nho giáo, các nhà tư tưởng, mà chủ yếu là nho sĩ đã tìm đến Phật và Đạo, làm xuất hiện xu hướng mới trong quan hệ tam giáo. Tiêu biểu cho xu hướng này là Nguyễn Bình Khiêm, Nguyễn Dữ và Phùng Khắc Khoan. 1 Vào cuối thế kỷ XVI, Trạng nguyên Nguyễn Bỉnh Khiêm, tức Trạng Trình đã viết Bài minh về tượng tam giáo ở chùa Cao Dương, huyện Thụy Anh (Thái Bình) rằng: “... đạo Phật gốc ở chỗ làm sáng cái sắc tướng và cái tâm, biện biệt nhân và quả; đạo Lão thì gốc ở chỗ chuyên vào một khí để đạt đến cùng của cái nhu, nắm cái duy nhất giữ bản chân; đạo của thánh Khổng thì gốc ở đạo đức, nhân nghĩa, văn chương, đức hạnh, trung tín, thảy đều là đạo noi theo tính để mà tu đạo vậy”[95, tr.1468]. Đoạn văn trên cho chúng ta thấy Trạng Trình nói về tâm thế hướng thiện của mình là nhất quán. Song thời thế lúc bấy giờ làm cho ông không thể giới hạn tâm thế đó ở Nho giáo và Nho học, mà cần phải mở rộng ra bằng việc tìm hiểu, bổ sung ở Phật giáo và Đạo giáo, tuy nội dung có nhiều điểm khác căn bản so với học thuyết Nho giáo. Điều này được ông bộc bạch trong di sản tư tưởng của mình qua tập thơ chữ Hán Bạch Vân am thi tập và chữ Nôm Bạch Vân quốc ngữ thi tập. Là nhà tư tưởng, nhà hoạt động chính trị, ông còn là nhà giáo từng đào tạo ra những người hoạt động nhà nước như Giác Hải, Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, v.v.. Tư tưởng của ông về dung thông tam giáo đã ảnh hưởng đến các học trò của mình, tuy ở mỗi người có sự thể hiện ở mức độ khác nhau, song việc nghiên cứu để tìm ra nét đặc trưng riêng trong tư tưởng của thầy trò sông Hàn thế kỷ XVI. Xuất phát từ nhận thức chung về giá trị truyền thống trong điều kiện phát triển đất nước ta hiện nay, chúng tôi thấy rằng, việc tìm hiểu và trình bày một cách có hệ thống các quan điểm trong Tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ việc làm mang tính cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn. Đó cũng chính là đề tài chúng tôi lựa chọn cho luận án tiến sĩ triết học của mình với nguyện vọng góp phần mình vào việc nghiên cứu di sản tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích nghiên cứu của luận án: Luận án phân tích một cách có hệ thống các quan điểm về dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn 2 Dữ; làm rõ những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dung thông Nho, Phật, Đạo Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. 2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của luận án Luận án tập trung thực hiện những nhiệm vụ sau: Thứ nhất, tổng quan các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và các công trình nghiên cứu về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. Thứ hai, trình bày khái quát về quá trình du nhập và phát triển của Nho, Phật, Đạo và sự dung thông Nho, Phật, Đạo trong các giai đoạn trước thế kỷ XVI. Thứ ba, luận án làm rõ những những quan điểm về dung thông tam giáo của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. Làm rõ một số đặc điểm chủ yếu của dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. Thứ tư, luận án bước đầu nêu những giá trị, hạn chế và ý nghĩa lịch sử về quan điểm dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án Luận án tập trung nghiên cứu là các quan điểm dung thông Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. 4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án 4.1. Phương pháp luận nghiên cứu của luận án Để thực hiện đề tài này, chúng tôi dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời luận án cũng dựa trên những nghiên cứu của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác – Lênin về lịch sử Triết học nói chung và lịch sử Triết học phương Đông nói riêng. 4.2. Phương pháp nghiên cứu của luận án Người viết quán triệt những nguyên tắc phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa Duy vật lịch sử, đồng thời sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể như: phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử, phân tích và tổng hợp, v.v., trong quá trình thực hiện luận án. 3 5. Những đóng góp mới về khoa học của luận án - Luận án phân tích các mối quan hệ tam giáo (Nho, Phật, Đạo) trước thế kỷ XVI, trên cơ sở đó đưa ra nhận định về những đặc điểm của các mối quan hệ tam giáo mang tính dung thông trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. Quan điểm về dung thông của tam giáo được thể hiện trong tư tưởng của họ bị qui định bởi các yếu tố thời đại và ảnh hưởng của sự phát triển tư tưởng triết học, chính trị - xã hội phương Đông đương thời. - Luận án bước đầu làm rõ được những giá trị cũng như hạn chế và ý nghĩa lịch sử của tư tưởng dung thông tam giáo Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ; xây dựng sơ bộ bức tranh tư tưởng và giúp người đọc có cách nhìn toàn diện hơn về tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ nói riêng và lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói chung. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận của luận án Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho giới khoa học xã hội và nhân văn nói chung, Tôn giáo học nói riêng; trong lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam nói chung và lịch sử tư tưởng triết học thế kỷ XVI nói riêng. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận án Luận án và kết quả nghiên cứu của nó có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy môn lịch sử tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVI nói chung, tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ nói riêng. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4 chương, 12 tiết. 4 Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo là ba học thuyết có sức lan tỏa và ảnh hưởng mạnh mẽ đến đời sống tinh thần của nhiều nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, trong đó có nước ta. Các học thuyết này đã trải qua một quá trình tiếp biến lâu dài trong lịch sử nước ta, hình thành nên các mối quan hệ khác nhau tùy thuộc vào điều kiện văn hóa bản địa và lịch sử cụ thể. Đó là mối quan hệ đồng nguyên, thống nhất, hòa đồng, hội nhập, v.v.. Tuy nhiên, trong phạm vi nghiên cứu của đề tài, chúng tôi chú trọng đến những công trình liên quan đến tư tưởng chính trị - xã hội của Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trước thế kỷ XVI; mối quan hệ theo hướng dung thông tam giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ thế kỷ XVI – đầu thế kỷ XVII. Trên cơ sở đó, luận án tiếp tục làm rõ những vấn đề còn bỏ ngỏ về mối quan hệ dung thông tam giáo trong tư tưởng của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan và Nguyễn Dữ. 1.1. Các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo và mối quan hệ giữa Nho, Phật, Đạo Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nho, Phật, Đạo Nghiên cứu về tam giáo (Nho, Phật, Đạo) đã có nhiều tác giả với nhiều công trình nghiên cứu về ba tôn giáo này. Tiêu biểu như cuốn sách Học thuyết chính trị xã hội của Nho giáo và ảnh hưởng của nó ở Việt Nam, và bài Quan niệm của Nho giáo về xã hội lý tưởng trên Tạp chí Triết học số 3, 3/2001, bài Tư tưởng về đạo trị nước ở các nhà nho Việt Nam, trên Tạp chí Triết học số 1(188), 1/2007 của Nguyễn Thanh Bình đã đề cập tới một số tư tưởng của Nho giáo về chính trị - xã hội, trong đó tác giả cũng đã trình bày những đặc trưng của xã hội lý tưởng một cách khái quát với ý nghĩa là một nội dung tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Trong công trình Nho giáo xưa và nay của tác giả Quang Đạm đã có nhiều bài viết bàn đến những nội dung liên quan đến cách tiếp cận các giá trị của Nho giáo và ảnh hưởng của Nho giáo ở Việt Nam. Các tác giả đã thể hiện được cách nhìn nhận đánh giá đa chiều về những mặt tích cực và tiêu cực của Nho giáo với xã hội 5 hiện tại nói chung và sự phát triển của Việt Nam nói riêng. Các công trình tiêu biểu như cuốn Nho giáo và kinh tế của Trần Đình Hượu, Nho giáo của Trần Trọng Kim, Từ phê phán đến khẳng định ở Trung Quốc gần đây của Trần Lê Sáng, Nho giáo và văn hóa Việt Nam của Trần Quốc Vượng. Trong cuốn sách Nho giáo và phát triển ở Việt Nam, bài Về giá trị đương đại của Nho giáo Việt Nam, bài Những vấn đề Nho giáo trong lịch sử tư tưởng Việt Nam của Vũ Khiêu đã đưa ra nhận định khá thuyết phục về những bài học kinh nghiệm của các nước được coi là con rồng của châu Á từng vận dụng Nho giáo trong quá trình xây dựng và phát triển đất nước như Hàn Quốc, Nhật Bản, Singapo. Trong các công trình này tác giả đã nhấn mạnh vào những giá trị của Nho giáo trong việc kết hợp tăng trưởng kinh tế với văn hóa. Những bài học từ tư tưởng trị nước của Nho giáo và giá trị đạo đức Nho giáo có ý nghĩa lớn đối với công cuộc xây dựng xã hội mới hiện nay. Ngoài các công trình kể trên còn có các công trình về Nho giáo của các tác giả khác như Bàn về đạo Nho của Nguyễn Khắc Viện, Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại với Các bài giảng về tư tưởng phương Đông của Trần Đình Huợu, Nho giáo với văn hóa Việt Nam của Nguyễn Đăng Duy, Một số vấn đề về Nho giáo Việt Nam của Phan Đại Doãn, Nho học và Nho học ở Việt Nam của Nguyễn Tài Thư; Tìm hiểu tư tưởng của Nho giáo trên trên Tạp chí Triết học số 12, năm 2002 của Minh Anh; Tư tưởng lễ và chính danh của Nho giáo trên Tạp chí Triết học số 5, 2003 của Ngọc Anh; Mấy vấn đề Nho giáo Việt Nam thế kỷ XVI và XVII, Tạp chí Triết học số 9 (184)/2006 của Nguyễn Đức Sự; Thế giới quan triết học của các nhà nho trong xã hội phong kiến Việt Nam, Tạp chí Triết học, số 2 (237), 2/2011 của Phạm Thị Loan; Góp phần tìm hiểu Khổng giáo ở Việt Nam, Nghiên cứu tôn giáo số 11(137), 2014 của Lê Quốc Tuấn; Sự phát triển của tư tưởng chính trị Nho giáo Việt Nam từ đầu công nguyên đến cuối thế kỷ XIV, Tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 9(94) năm 2015 của Nguyễn Hoài Văn. Điểm chung của các công trình này là tập trung bàn về vai trò của Nho giáo trong đời sống chính trị - xã hội Việt Nam trong lịch sử với tư cách là bệ đỡ hệ tư tưởng cho các triều đại phong kiến, đồng thời chỉ ra những giá trị và hạn chế của nó trong đường lối trị nước an dân trong lịch sử. 6 Các công trình nghiên cứu về Phật giáo Việt Nam như công trình Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thế kỷ XVIII của Trần Văn Giáp, do Tuệ Sỹ dịch, Nxb Ban tu thư viện Đại học Vạn Hạnh, 1968. Công trình này tác giả đã dựa trên những tài liệu của những người đi trước để trình bày một cách toàn bộ về Phật giáo Việt Nam từ thuở xưa. Trong phần 1, tác giả nói về những điểm thuộc về khởi nguyên của đạo Phật tại Việt Nam. Phần 2 tường thuật sự tích của một vài nhà chiêm bái, viết theo hồi ký của Nghĩa Tịnh, những nhà chiêm bái này gốc Trung Hoa hay Trung Á đã dừng chân trên đất Bắc Kỳ. Họ đã từng lãnh sứ mạng truyền bá Phật giáo và đi thỉnh kinh tại Ấn Độ. Công trình Việt Nam Phật giáo sử lược của Hòa Thượng Mật Thể, do Nxb Tôn Giáo, năm 1970. Trong công trình này tác giả khi viết về Phật giáo đã chia làm hai phần: phần Tự luận và phần Lịch sử. Phần Tự luận chia làm bốn chương, phần Lịch sử chia làm mười chương. Trong phần Tự luận, tác giả đã điểm qua đôi nét về nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Theo tác giả thì Phật giáo có nguồn gốc từ Ấn Độ truyền vào Trung Quốc và sang Việt Nam nên chúng ta cần phải nguồn gốc Phật giáo Ấn Độ và Phật giáo Trung Quốc. Cuốn Việt Nam Phật giáo sử luận của Nguyễn Lang (thiền sư Thích Nhất hạnh), tập 1 của bộ sách do Nxb La Bối, Sài Gòn in vào năm 1973, tập 2 vào năm 1978. Tác giả đã trình bày một cách uyển chuyển: kết hợp giữa viết sử và bình luận lịch sử; giữa xây dựng các mốc biên niên sử truyền giáo (bao gồm thế thứ các tông phái) và lần tìm ra sợi dây thống nhất bên trong kết nối các mốc biên niên sử ấy lại, qua đó tạo thành dáng nét riêng, là linh hồn, bản sắc của Phật giáo Việt Nam; giữa nghiên cứu tiểu sử các nhà tu hành và đi sâu tìm hiểu tính cách con người, tư tưởng, thơ ca của họ, v.v.. Trong công trình này, tác giả còn trình bày một cách cặn kẽ về Phật giáo Việt Nam một thực thể tinh thần đã tồn tại hàng nghìn năm, không phải với tư cách một tôn giáo ngoại nhập, mà đã được bản địa hóa từ rất lâu, và vẫn được thường xuyên bản địa hóa, để trở thành một phần tâm linh dân tộc; không phải chỉ là một tôn giáo đơn thuần mà cao hơn hẳn thế, còn là một thành tố trọng yếu của văn hóa, tư tưởng; và không phải là một thành tố rời rạc, phiến đoạn, mà luôn luôn hiện diện như một hệ thống có sức vận động và phát triển tự thân trong suốt tiến trình lịch sử. 7 Tác giả Nguyễn Tài Thư trong các công trình nghiên cứu do ông chủ biên như Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, năm 1988 và công trình Ảnh hưởng của các hệ tư tưởng và tôn giáo đối với con người Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1997. Các khái niệm từ, bi, hỷ, xả và các giá trị tư tưởng của Phật giáo đã được các tác giả đề cập khi viết về Phật giáo với tư tưởng của con người Việt Nam. Nguyễn Hùng Hậu, trong cuốn Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1, do Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002, đã khái quát và làm rõ những nét cơ bản về quá trình du nhập vào Việt Nam cũng như ảnh hưởng của nó đối với đời sống tinh thần dân tộc ta. Nghiên cứu về Phật giáo còn có cuốn Lịch sử Phật giáo Việt Nam từ khởi nguyên đến thời Lý Nam Đế, tập 1 và tập 2 Từ Lý Nam Đế (544) đến Lý Thái Tông (1054) của tác giả Lê Mạnh Thát, do Nxb thành phố Hồ Chí Minh, năm 2003. Trong đó tác giả đã chia lịch sử Phật giáo Việt Nam ra làm năm thời kỳ lớn: Thời kỳ thứ nhất, từ khởi nguyên cho đến khi Lý Bôn xưng đế lập nên Nhà nước Vạn Xuân. Thời kỳ thứ hai, bắt đầu từ lúc dòng thiền Pháp Vân ra đời cho đến thời vua Lý Thái Tông. Thời kỳ thứ ba, từ thời vua Lý Thánh Tông đến vua Trần Thánh Tông. Thời kỳ thứ tư, từ vua Trần Nhân Tông đến chúa Nguyễn Phúc Ánh. Thời kỳ thứ năm, từ chúa Nguyễn Phúc Ánh đến khi vua Bảo Đại thoái vị năm 1945. Mỗi một thời kỳ có một nét đặc trưng và một quá trình phát triển tất yếu của nó. Ngoài các công trình nghiên cứu về Phật giáo nói trên còn có các bài viết về Phật giáo đăng trên các tạp chí như: bài Tìm hiểu một số đặc điểm của Phật giáo trong hệ thống tôn giáo Việt Nam của Nguyễn Tất Đạt trên Nghiên cứu tôn giáo số 3 năm 2008 đã nêu ba đặc điểm của Phật giáo Việt Nam: một là, Phật giáo du nhập vào Việt Nam rất sớm bằng con đường giao lưu thương mại hòa bình; hai là, Phật giáo là tôn giáo có ảnh hưởng lớn đến lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc; ba là, Phật giáo có ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình hình thành các tôn giáo nội sinh ở Việt Nam. Ngoài ra còn có các công trình của các tác giả như Thế giới quan, nhân sinh quan đạo Phật và sự ảnh hưởng của nó tới xã hội Việt Nam, của Mai Xuân Hội; cuốn Lược khảo tư tưởng Thiền Trúc Lâm Việt Nam và cuốn Đại cương triết học Phật giáo Việt Nam, tập 1 của Nguyễn Hùng Hậu; Ảnh hưởng của đạo đức 8 phật giáo trong đời sống đạo đức của xã hội Việt Nam, luận án tiến sĩ triết học của Tạ Chí Hồng; Nhân sinh quan Phật giáo và ảnh hưởng của nó đến lối sống con người Việt Nam của Nguyễn Minh Nhựt; Vai trò của Phật giáo ở Việt Nam, của Phạm Văn Sinh; Ảnh hưởng của những tư tưởng Triết học Phật giáo trong đời sống văn hóa tinh thần dân tộc Việt Nam, của Lê Hữu Tuấn; cuốn Lịch sử triết học phương Đông của Nguyễn Đăng Thục. Các công trình này tập trung phân tích ảnh hưởng của Phật giáo đến đời sống văn hóa tinh thần con người Việt Nam trong lịch sử, chỉ ra những mặt tích cực cũng như hạn chế của sự ảnh hưởng đó trong đời sống đương đại. Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu về mối quan hệ giữa Nho, Phật, Đạo Trên các tạp chí Triết học, Sử học, Nghiên cứu Hán Nôm, Văn hóa nghệ thuật, v.v., cũng đã có những bài Phật giáo trong lịch Việt Nam trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 162 năm 1975, của Văn Tân; bài viết nói về tam giáo Nho, Phật, Đạo như bài Hệ tư tưởng Lý trên Tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số 1 năm 1986, Nguyễn Duy Hinh; bài Về xu hướng Tam giáo đồng nguyên trong Trúc lâm tông chỉ nguyên thanh trên Tạp chí Triết học số 4 năm 1986 của Trần Ðình Hượu; bài Phật giáo và thế giới quan người Việt trong lịch sử trên Tạp chí Nghiên cứu triết học, số 2 năm 1986, của Nguyễn Tài Thư; bài Hệ tư tưởng thời Lê và vai trò của nó trong quản lý xã hội trên Tạp chí Văn hóa nghệ thuật, số 306, tháng 12 năm 2009 của Lê Thị Tuyết; bài Lý hoặc luận - cuộc đụng độ đầu tiên giữa Nho, Phật, Lão ở Giao Châu dưới chính quyền Sĩ Nhiếp trên Tạp chí Triết học, số 2, 1992, của Nguyễn Hùng Hậu; bài Vua Lê Thánh Tông với Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội, Tạp chí Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật, số 2/1993 của Trần Thị Tâm Đan; bài Ảnh hưởng tam giáo trong tư tưởng trị nước của Vua Lê Thánh Tông của Trần Thị Châm trên tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo, số 1 năm 2011; bài Phật giáo và Khoa học trên báo chí Phật giáo Việt Nam trước 1945 trên Tạp chí khoa học xã hội số 1(173) năm 2013 của Nguyễn Thị Thảo, v.v.. Tiêu biểu là các bài như trong bài Tam giáo đồng nguyên hiện tượng tư tưởng chung của các nước Đông Á, của Nguyễn Tài Thư trên tạp chí Hán Nôm, số 3 năm 1999. Tác giả có viết: Hiện tượng “Tam giáo đồng nguyên” có nhiều tên gọi khác nhau trong lịch sử. Tùy theo mỗi người, mỗi lúc mà gọi là “Tam giáo đồng nguyên”, “Tam giáo nhất thể”, “Tam giáo nhất trí”, “Tam 9 giáo đỉnh lập”, “Tam giáo quy nhất”, “Hội tam quy nhất”, “Tam giáo nhất gia”, “Tam giáo nhất nguyên”, “Tam giáo dung hợp”, v.v.. Mỗi tên gọi trên đều có một ý nghĩa riêng nhất định, nhưng về cơ bản là giống nhau trong quan niệm. Ngoài ra tác giả Nguyễn Tài Thư còn có bài Thử tìm hiểu vị trí của ba đạo: Nho, Phật, Lão trong lịch sử tư tưởng Việt Nam trên Tạp chí Triết học số 01 năm 1982. Tác giả Nguyễn Công Lý có bài Tinh thần dung hợp tư tưởng Phật - Lão - Nho trong văn học Phật giáo thời Lý - Trần, trên tạp chí Hán Nôm số 2(51) năm 2002, tác giả viết: các nhà nghiên cứu đã thừa nhận dân tộc ta vốn có tinh thần dân chủ và sống phóng khoáng nên từ đầu khi Tam giáo vào Việt Nam, cha ông ta đã biết tự mở cửa đón nhận những tinh hoa của hệ tư tưởng ấy, chọn lọc, dung hợp và biến chúng thành cái của mình, phù hợp với điều kiện và hoàn cảnh sống của mình, phục vụ cho mình. Sự kết hợp giữa Phật và Thánh (Nho), hay là sự kết hợp giữa Phật với Lão – Trang một cách uyển chuyển để đi đến sự thống nhất Tam giáo đồng nguyên. Bài Về quá trình Nho giáo du nhập vào Việt Nam (từ đầu công nguyên đến thế kỷ XIX) của Doãn Chính và Nguyễn Sinh Kế trên tạp chí Triết học, số 9 (160), tháng 9 năm 2004. Các tác giả đã đưa ra một số nhận định về quá trình du nhập của Nho giáo vào Việt Nam: một là, du nhập vào Việt Nam từ đầu công nguyên, song phải trải qua một thời gian khá dài, Nho giáo mới bén rễ được vào đời sống chính trị và tinh thần của xã hội; hai là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam là Hán Nho và Tống Nho, khi du nhập vào Việt Nam nó đã được cải biến cho phù hợp với truyền thống của dân tộc cũng như nhu cầu của đất nước để trở thành nhân tố của chính trong nền văn hóa và hệ tư tưởng chính thống ở Việt Nam; ba là, Nho giáo du nhập vào Việt Nam trong sự phát triển đồng hành, tác động qua lại với Phật giáo và Đạo giáo. Tiếp tục quan niệm “Tam giáo đồng nguyên” của Nguyễn Tài Thư, trong bài Lại bàn về tam giáo đồng nguyên, trên tạp chí Hán Nôm số 5(66) năm 2004, của Lê Văn Quán cho rằng người truyền bá tư tưởng “Tam giáo nhất chí” ở Giao Châu là Mâu Tử, trước tác của ông có Lý hoặc luận. Ông cho rằng Chân nhân của Đạo giáo và Tam hoàng Ngũ đế của Nho gia cùng phối với nhau, giáo nghĩa của Phật giáo cũng có chỗ chung với học thuyết Nho, Đạo. 10 Bài Về mối quan hệ tam giáo trong tư tưởng Nguyễn Trãi của Trần Nguyên Việt trên tạp chí Triết học, số 7 (170), tháng 7 năm 2005. Tác giả viết Nguyễn Trãi xuất thân từ truyền thống Nho học, thấm nhuần sâu sắc đạo thánh hiền nhưng đến một thời điểm nào đó, Nguyễn Trãi đã tìm đến Phật giáo và Đạo giáo để mở rộng và làm sâu sắc thêm suy nghĩ của mình. Điều này là do trong mỗi học thuyết (Nho giáo, Phật giáo, Đạo giáo) có những yếu tố bổ sung cho nhau và đều chứa đựng những giá trị mang tính phổ quát. Trong Nghiên cứu tôn giáo số 11 năm 2007, Hà Thúc Minh có bài “Tam giáo thời Lý – Trần”, trong đó tác giả có viết: Thời Lý – Trần không phải chỉ có Phật giáo, Đạo giáo mà ngay cả Nho giáo không ít thì nhiều đều có tính tôn giáo và đều trở thành cái gọi là Tam giáo đồng nguyên nhưng nhiều lắm cũng chỉ là cánh tay phải của vương quyền mà thôi. Tác giả Lê Thị Tuyết có bài Hệ tư tưởng thời Lê và vai trò của nó trong quản lý xã hội trên tạp chí Văn hóa nghệ thuật số 306, tháng 12-2009 nhận định trong thời kỳ nhà Lê Sơ (1428-1527), Nho giáo đã trở thành hệ tư tưởng chính thống của vương triều và phổ cập trong đại bộ phận dân cư làng xã. Thời kỳ đầu sự độc tôn của Nho giáo đã làm cho tôn giáo này trở thành công cụ trị nước quan trọng của chính quyền phong kiến thời Lê Sơ. Tuy nhiên hệ tư tưởng chuyên chế này trở nên lỏng lẻo, tạo cho các hệ tư tưởng khác có điều kiện phục hồi trong giai đoạn Lê - Mạc, Lê Trung Hưng. Sau một trăm năm, nhà nước Lê Sơ thực hiện chủ trương “dương Nho, ức Phật”, thì từ thế kỷ XVI đến XVIII Phật giáo đã được chấn hưng trở lại, đạo Lão được tầng lớp dân chúng quan tâm phụng thờ. Đặc điểm nổi bật của hệ tư tưởng thời Lê mạt là Tam giáo đồng nguyên. Bài Mối quan hệ tam giáo trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ quốc gia độc lập thời Lý – Trần của Bùi Thanh Phương trên tạp chí Triết học, số 1 (212), tháng 1 năm 2009. Theo tác giả, thì Nhà nước phong kiến thời kỳ này đã sử dụng và khuyến khích phát triển cả Phật giáo, Nho giáo và Đạo giáo; thời kỳ này tam giáo (Nho, Phật, Đạo) không chỉ ảnh hưởng và tác động lẫn nhau, mà chúng còn cạnh tranh với nhau để giành vị trí hàng đầu. 11 Bài Biện chứng của tư tưởng dung hoà trong văn hoá - tôn giáo Việt Nam: lịch sử và hiện tại trên tạp chí Triết học, số 2 (177), tháng 2 năm 2006 và bài Vua Lý Nhân Tông với Tam giáo, trên Tạp chí Triết học, số 10 (233), tháng 10/2010 của Lê Thị Lan. Tác giả đã nhấn mạnh tư tưởng dung hoà (hoà hợp với tự nhiên; dung hoà với xã hội; dung hoà với con người) và coi đó như là một nguyên tắc tồn tại của người Việt Nam, nguyên tắc này đã được hình thành từ rất sớm trong lịch sử và ngày nay theo tiến trình phát triển của dân tộc thì nó càng được bổ sung thêm nhiều nội dung mới. Trong suốt thời kỳ lịch sử cổ - trung đại Việt Nam, và trong thời kỳ cận - hiện đại, khi được bổ sung thêm những giá trị nhân văn mới mẻ, tiến bộ của phương Tây. Tư tưởng dung hoà này đã vận động và tạo ra một diện mạo văn hoá Việt, làm nên một tổng thể các yếu tố văn hoá - tôn giáo (Nho, Đạo, Phật) và các yếu tố bản địa. Trong bài Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc, trên tạp chí Hán Nôm, Số 1-2005, tác giả Trần Nghĩa cũng đề cập tới các vấn đề như Nho học Trung Quốc truyền vào Việt Nam từ lúc nào? Tính chất của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc; Vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc. Ngoài ra tác giả Trần Nghĩa còn có bài: Quá trình hội nhập Nho - Phật - Lão hay sự hình thành tư tưởng “Tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam, trên Tạp chí Triết học, số 1 (244), tháng 1 năm 2010, trong đó có viết: Nho – Phật – Lão hội nhập là hiện tượng tư tưởng chung ở các nước Đông Á thời Trung đại. Bài viết này khảo cứu quá trình hội nhập Nho – Phật – Lão hay sự hình thành tư tưởng “tam giáo đồng nguyên” ở Việt Nam. Đây là một quá trình gồm ba bước: một là, tam giáo đỉnh lập; hai là, tam giáo dung hợp; và ba là, tam giáo đồng nguyên. Chính việc tam giáo “cầu đồng tồn dị” để xích lại gần nhau trong tiến trình lịch sử của chúng đã kết thành một mạng lưới tạo nên sức mạnh vì mục đích nhân văn, vì cuộc sống con người. Hoàng Ngọc Hiến có bài Tìm hiểu minh triết tam giáo trong văn hóa Việt Nam trên Tạp chí sông Hương, số 253 tháng 3 năm 2010, có viết: Tâm thế “xuất nhập” thoải mái trong tam giáo là điều đáng suy nghĩ có liên quan đến tín ngưỡng, đức tin của người Việt. Phải chăng ngay trong đức tin người Việt cũng thích sự 12 thoải mái, tránh những gì quá căng thẳng, gò bó. Có ý thức về “tính đồng nguyên” (chung một nguồn) của “tam giáo” tạo ra tâm thế “xuất nhập” thoải mái trong “tam giáo”. Tâm thế này tạo ra tinh thần khoan hòa trong đời sống tôn giáo của xã hội, từ cầu trường này không thể không ảnh hưởng đến toàn bộ đời sống tinh thần của xã hội. Tinh thần khoan hòa là một đức hạnh căn cốt của minh triết. Tác giả Trần Nguyên Việt trong bài Tư tưởng khoan dung của Khổng Tử và sự thể hiện của nó ở Nguyễn Trãi, trên tạp chí Triết học số 2 (237), năm 2011, có viết: nội dung căn bản của khoan dung trong tư tưởng Khổng Tử là trung thứ, thì ở Nguyễn Trãi, đạo lý nhân nghĩa đóng vai trò chủ đạo trong việc trừ bạo an dân. Trong bài Tam giáo đồng nguyên và tính đa nguyên trong truyền thống văn hóa Việt Nam của Nguyễn Tài Đông trên tạp chí Khoa học xã hội Việt Nam, số 5 (66) năm 2013, trong đó tác giả có đưa ra một số vấn đề: Thứ nhất, tam giáo đồng nguyên từ góc nhìn lịch đại cho rằng chủ trương tam giáo đồng nguyên ở Việt Nam được biết đến từ cuối thế kỷ thứ II qua tác phẩm Lý hoặc luận của Mâu Tử; Thứ 2, “Đồng nguyên” cái gì và trên cơ sở nào? Cả Nho, Phật, Đạo đều là tôn giáo, hệ tư tưởng ngoại lai được du nhập vào Việt Nam. Nhưng Tam giáo này đã được Việt Nam hóa, biến thành Tam giáo Việt Nam; Thứ 3, Đồng nguyên và đa nguyên văn hóa cho sự phát triển xã hội. Phạm Tấn Thiên có bài Sự dung hợp Nho - Phật - Đạo trong tín ngưỡng thờ cúng âm hồn trên tạp chí Khoa học xã hội số 7(179) năm 2013. Tác giả có viết: từ khi Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo du nhập vào Việt Nam, cha ông ta đã chủ động cởi mở đón nhận chọn lọc, dung hợp thành của riêng mình, phù hợp với hoàn cảnh sống và phục vụ cho lợi ích của chính mình. Sự hòa hợp ấy được thể hiện một cách rõ nét trong tín ngưỡng thờ cúng âm hồn phổ biến ở hầu khắp mọi miền trên đất nước ta. Trong bài Mối quan hệ giữa Phật giáo và Nho giáo trong tác phẩm Lý hoặc Luận của Đại đức Thích Đồng Niệm trên tạp chí Nghiên cứu Phật học số 5 năm 2015, tác giả có viết: trọng tâm quan hệ Phật giáo và Nho giáo là vấn đề hiếu hạnh được ghi rõ ở điều 9 và 10 của sách Lý hoặc Luận. Trong Tham luận tại Hội thảo quốc tế về Nho giáo tại Việt Nam do Học viện Harvard Yenching (Hoa Kỳ) phối hợp với Viện nghiên cứu Hán Nôm Việt 13 Nam tổ chức tháng 12 năm 2004, Nguyễn Kim Sơn có bài Xu hướng hội nhập tam giáo trong tư tưởng Việt Nam thế kỷ XVIII, trong bài viết này tác giả dùng Hội nhập tam giáo chỉ tính khuynh hướng của vận động, sự điều chỉnh tư tưởng của Nho, Phật, Đạo diễn ra ở một thời điểm cụ thể, có chủ thể và mục đích xác định. Dưới góc nhìn hạn định và trong phạm vi các hoạt động tư tưởng của nhà Nho, tác giả coi một sự biến thiên của Nho học là hội nhập Tam giáo. Đó là sự điều chỉnh của Nho học nhưng chưa bao quát các trước thuật của Phật giáo và Đạo gia có liên quan tới vấn đề này. Trong bài Cơ chế kết hợp tư tưởng Tam giáo của Trịnh Tuệ trong Tam giáo nhất nguyên thuyết của Nguyễn Kim Sơn trên tạp chí Khoa học Xã hội và Nhân văn, trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn tháng 12 năm 2016. Tác giả bài viết thông qua việc phân tích cơ chế kết hợp tư tưởng Tam giáo của Trịnh Tuệ trên các phương diện động cơ, mục tiêu, chỗ dựa kinh điển, tâm tính học, v.v., để chỉ ra đặc điểm của việc hội nhập tam giáo thế kỷ XVIII nói riêng và của lịch sử tư tưởng Việt Nam nói chung. 1.2. Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ dung thông giữa Nho, Phật, Đạo trong tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Dữ 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về tư tưởng dung thông giữa Nho, Phật, Đạo trong di sản tư tưởng Nguyễn Bỉnh Khiêm Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về Nguyên Bỉnh Khiêm nói chung Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585), “cây đại thụ tỏa bóng gần suốt cả thế kỷ XVI” (Đinh Gia Khánh) nên không có gì khó hiểu khi ông được rất nhiều thế hệ độc giả, nhà nghiên cứu quan tâm tìm hiểu. Ngay từ thời trung đại, cuộc đời và thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã được Đinh Thì Trung, Vũ Khâm Lân, Lê Quý Đôn, Bùi Huy Bích (thế kỷ XVIII) và Phan Huy Chú (thế kỷ XIX) ghi chép và bàn luận trong các tác phẩm của mình. Công trình Bạch Vân am cư sĩ Nguyễn công Văn Đạt phả ký của Ôn Đình hầu Vũ Khâm Lân, được ông biên soạn vào năm 1744, đã nhận định về di sản thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “không cần gọt dũa mà tự nhiên, giản dị mà lưu loát, thanh đạm mà có nhiều ý vị, v.v., như gió mát trăng thanh, nghìn năm sau còn tưởng thấy”. Phan Huy Chú là danh sĩ thời nhà Nguyễn, trong phần Văn tịch chí của bộ sách Lịch triều hiến chương loại chí, ông cũng có quan 14
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan