ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN XUÂN NGUYÊN
TƢ TƢỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ
LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH TRỊ HỌC
Hà Nội - 2014
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
TRẦN XUÂN NGUYÊN
TƢ TƢỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ
Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60 31 02 01
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Văn Vĩnh
Hà Nội - 2014
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu,
tư liệu được sử dụng trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc và xuất xứ rõ
ràng. Những kết quả khoa học của luận văn chưa được công bố trong bất kỳ
công trình nào.
Tác giả
MỤC LỤC
Trang
Mở đầu ................................................................................................................1
1. Tính cấp thiết của đề tài ...................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu đề tài .............................................................................3
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu...................................................................6
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ......................................................7
6. Đóng góp của luận văn ....................................................................................7
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................7
Chƣơng 1: CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ
TƢỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ ......................... 9
1.1. Những lý luận chung về con người chính trị ................................................9
1.2. Khái quát những cơ sở hình thành tư tưởng của Khổng Tử về con người
chính trị ..............................................................................................................21
Chƣơng 2: NỘI DUNG TƢ TƢỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ CON NGƢỜI
CHÍNH TRỊ ......................................................................................................38
2.1. Quan niệm về “nhân” của con người chính trị ...........................................38
2.2. Quan niệm về “lễ” của con người chính trị ................................................46
2.3. Quan niệm về “chính danh” của con người chính trị .................................49
2.4. Quan niệm về “cai trị” của con người chính trị ..........................................56
2.5. Quan niệm về “người quân tử” ...................................................................62
Chƣơng 3: NHỮNG GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ CỦA TƢ TƢỞNG KHỔNG
TỬ VỀ CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ................................................................69
3.1. Những giá trị lịch sử trong tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị.
............................................................................................................................69
3.2. Một số hạn chế trong tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị .......74
3.3. Một số liên hệ vận dụng những giá trị và khắc phục những hạn chế trong tư
tưởng của Khổng Tử về con người chính trị vào việc xây dựng con người chính
trị Việt Nam hiện nay.........................................................................................77
KẾT LUẬN .......................................................................................................92
Tài liệu tham khảo ...........................................................................................93
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Lý do chọn đề tài:
Các học thuyết chính trị Trung Quốc cổ đại ra đời cách đây hơn hai
nghìn năm, mặc dù còn có nhiều hạn chế do lịch sử, do bản chất giai cấp nhưng
vẫn có nhiều giá trị tư tưởng quý báu, những giá trị tư tưởng này đã đóng một
vai trò tích cực trong lịch sử Trung Quốc nói riêng và của các nước Á Đông nói
chung, đặc biệt ở Việt Nam; một trong những tư tưởng chính trị tiến bộ mang
giá trị và còn phổ biến cho đến ngày nay, đó là tư tưởng chính trị của Khổng
Tử. Xét về tổng thể, tư tưởng này vừa là tư tưởng triết học, vừa là tư tưởng
chính trị - xã hội, đồng thời cũng là tư tưởng đề cao quan niệm về con người
chính trị. Theo dòng chảy tư duy chính trị và các ý nghĩa thời đại, chúng ta đã
vận dụng nhiều điểm tiến bộ trong tư tưởng của Khổng Tử về con người chính
trị.
Tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị do đã đáp ứng được yêu
cầu của thời cuộc, phản ánh đúng quy luật khách quan nên đã đáp ứng được yêu
cầu của lịch sử. Đối với xã hội phong kiến Á Đông, việc xây dựng và đề cao
quan niệm về con người chính trị đã là đường lối trị nước duy nhất trong hơn
hai nghìn năm lịch sử - một đường lối trị nước được độc tôn lâu dài như vậy
trong lịch sử rất cần được đi sâu nghiên cứu. Trong đời sống xã hội đương đại,
việc nghiên cứu, bổ sung và phát huy những giá trị đó cũng không phải là vấn
đề cổ xưa, càng không phải là vấn đề đã hoàn toàn thuộc về lịch sử.
Về phương diện chính trị xã hội, tư tưởng của Khổng Tử về con người
chính trị là một trong những nội dung được đặc biệt quan tâm, mục tiêu nhằm
cứu vãn trật tự xã hội rối loạn thời Xuân Thu. Hiểu theo nghĩa khái quát, đó là
cách thức, là phương pháp để đạt tới mục tiêu, là hoạt động được sắp xếp theo
một trật tự nhất định; trong đó, người cầm quyền phải không ngừng tìm ra cách
thức nhằm thực hiện một cách có hiệu quả những mục tiêu chính trị đề ra.
1
Ngày nay, cùng với sự vận động, phát triển của xã hội; các vấn đề về con
người chính trị ngày càng được quan tâm; như trong việc xây dựng và hoàn
thiện thể chế chính trị, xây dựng tiêu chuẩn đạo đức của người cán bộ chính trị;
xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất, đồng bộ, tạo môi trường pháp lý ổn
định cho phát triển kinh tế - xã hội; cũng như việc giữ gìn phát huy bản sắc văn
hóa dân tộc trong thời đại giao lưu văn hóa Đông - Tây và sự xâm nhập của các
lý thuyết chính trị hiện đại,... những nội dung trên đều không thể tách rời các
vấn đề về con người chính trị. Ngoài ra, trong kinh nghiệm khai thác và vận
dụng các giá trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị
của các nước phát triển như Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore,... đều thừa nhận
có sự đóng góp tích cực của Nho giáo; những luận điểm đó vẫn còn có giá trị
thời đại, là những giá trị sâu sắc mà thế hệ sau nên tiếp thu; đặc biệt là vấn đề
đặt ra đối với thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển kinh tế - xã
hội ở Việt Nam hiện nay như thế nào? Tác giả với niềm say mê tìm hiểu về tư
tưởng các học thuyết cổ đại Trung Quốc, đặc biệt là tư tưởng chính trị của
Khổng Tử, xin góp phần nghiên cứu một cách hệ thống tư tưởng này về con
người chính trị. Mặc dù, việc đánh giá những giá trị và hạn chế trong tư tưởng
của Khổng Tử về con người chính trị còn nhiều tranh luận; nhưng việc kế thừa,
tiếp thu những giá trị tích cực và loại bỏ những hạn chế trong tư tưởng của
Khổng Tử về con người chính trị, rút ra những yếu tố phù hợp và có giá trị đối
với thực tiễn đáp ứng được yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa
đất nước trong tình hình mới là một việc làm vừa mang ý nghĩa lý luận vừa có
ý nghĩa thực tiễn thiết thực. Với những lý do trên, tôi đã chọn vấn đề: “Tư
tưởng của Khổng Tử về con người chính trị” làm đề tài luận văn chính trị học
của mình.
Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của đề tài:
Về lý luận: luận văn thông qua việc nghiên cứu, phân tích làm rõ tư
tưởng của Khổng Tử về con người chính trị; từ đó rút ra những mặt tích cực
2
trong tư tưởng này, qua đó góp phần vận dụng những giá trị vào việc xây dựng
con người chính trị Việt Nam trong thời kỳ mới.
Về thực tiễn: trên cơ sở khai thác những mặt tích cực trong hoạt động
thực tiễn chính trị của công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc nghiên cứu tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị từ trước
tới nay đã có nhiều công trình nghiên cứu và khai thác ở những góc độ khác
nhau.
Cuốn Tứ thư tập chú của Chu Hy (do Nguyễn Đức Lân dịch và chú giải,
Nhà xuất bản Văn hóa - Thông tin, năm 1998) đã chú giải tư tưởng chính trị của
Khổng Tử, làm nổi bật nhiều nội dung cơ bản về học thuyết đức trị, mà trọng
tâm là nhân, lễ, nghĩa, chính danh.
Trong tác phẩm Nho giáo của Trần Trọng Kim, khi đề cập đến Khổng Tử
và tư tưởng của ông, tác giả cũng thể hiện tư tưởng chính trị cơ bản của Khổng
Tử về người quân tử, đạo vua tôi, phải thực hiện chính danh định phận.
Cuốn Nho giáo Trung Quốc của Nguyễn Tôn Nhan, Nhà xuất bản Văn
hóa - Thông tin, cũng đã khái quát quá trình phát triển của Nho giáo và diện
mạo của Nho giáo Việt Nam.
Trong cuốn Khổng Tử của Lý Tường Hải, Nhà xuất bản Văn học cũng đã
phân tích về tư tưởng triết học Khổng Tử; trong đó nổi lên vấn đề quan niệm về
điều nhân, lễ, nghĩa, trí, tín, và đạo làm người quân tử.
Trong cuốn Khổng Tử của Nguyễn Hiến Lê, Nhà xuất bản Văn hóa
Thông tin, phần nào nói lên thân thế, sự nghiệp, cuộc đời gian nan của Khổng
Tử, để từ đó ông quan niệm thế nào về con người, đạo làm người; bên cạnh
thuyết chính danh, giáo dục, chính trị.
Tác phẩm Tứ thư bình giải của Lý Minh Tuấn, Nhà xuất bản Tôn giáo đã
cơ bản khái quát được hệ tư tưởng chính trị của Khổng Tử và Nho giáo.
Việc nghiên cứu về nền triết học và tôn giáo Trung Hoa trong cuốn Lịch
sử triết học Phương Đông, tập 1 của Nguyễn Đăng Thục, Nhà xuất bản Thành
3
phố Hồ Chí Minh có đề cập đến địa vị Khổng Tử - nhà trí giả và nhà giáo dục
văn hóa lớn trong lịch sử Trung Hoa; bên cạnh đó, Nguyễn Đăng Thục còn
nghiên cứu về triết học Khổng Tử xoay quanh vấn đề vũ trụ quan, thuyết chính
danh, đạo nhân và đặc biệt là triết lý nhân sinh quan với đạo trung thứ và chữ
nhân là trung tâm của nó.
Trong Khổng học đăng, Phan Bội Châu đã trình bày rõ một số phạm trù,
nguyên lý cơ bản của Nho giáo. Tác giả đặc biệt đề cao những giá trị của Nho
giáo và coi đạo đức Nho giáo có vai trò cực kỳ to lớn trong việc giáo dục, hoàn
thiện nhân cách con người.
Trong tác phẩm Khổng giáo phê bình tiểu luận, Đào Duy Anh cho rằng,
chúng ta phải có thái độ khách quan, toàn diện và khoa học khi nhận xét vai trò
của Nho giáo trong xã hội. Ông phê phán thái độ của một số trí thức ở Trung
Quốc và Việt Nam coi Nho giáo chỉ là vô dụng, không phù hợp với khoa học.
Đặc biệt, ông đã nghiên cứu, phân tích, tổng hợp những nội dung cơ bản của
Nho giáo để từ đó đi đến kết luận, Nho giáo “dẫu nó không thích hợp nữa ở đời
nay, mà công dụng nó, sự nghiệp nó, vẫn trọn vẹn trong lịch sử, không ai có thể
chối cãi hay xóa bỏ đi được”.
Tác phẩm Giá trị tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam của Trần
Văn Giàu, từ chỗ chỉ ra những điểm khác nhau cơ bản giữa đạo đức Nho giáo
và đạo đức truyền thống Việt Nam, tác giả khái quát một số đặc điểm của nền
đạo đức truyền thống và nêu lên những tàn dư của đạo đức Nho giáo cần phải
khắc phục trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đó là chủ
nghĩa gia đình, chủ nghĩa đồng tộc, phương châm trị đạo “thân thân” gây trở
ngại cho thực hiện dân chủ, động viên tài năng.
Nguyễn Thị Nga, Hồ Trọng Hoài trong Quan niệm của Nho giáo về giáo
dục con người đã khái quát quan điểm giáo dục con người của Nho giáo nhằm
đào tạo những người quân tử, những kẻ sĩ có phẩm chất đạo đức cao quý, ham
hiểu biết, có nhân cách, có ý thức đối với cộng đồng để làm quan. Những người
này vừa là hạt nhân trong cuộc sống xã hội, vừa là lực lượng để bổ sung cho
4
các thế lực cầm quyền duy trì chế độ phong kiến. Song, Nho giáo dạy đạo làm
người theo quan điểm “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” chứa đựng nhiều yếu tố hợp lý.
Những điều răn dạy đó được cha ông ta tiếp thu có chọn lọc, bởi vậy, nó trở
thành giá trị truyền thống của người Việt Nam.
Nguyễn Bình Yên trong luận án tiến sĩ Ảnh hưởng tiêu cực của tư tưởng
phong kiến trong cán bộ lãnh đạo, quản lý và phương hướng khắc phục, đã chỉ
ra những tiêu cực cơ bản của tư tưởng phong kiến Việt Nam và ảnh hưởng của
nó trong các lĩnh vực đạo đức, lối sống; trong nhận thức, thực hiện dân chủ;
trong thế giới quan và phương pháp tư duy. Một trong những tiêu cực của tư
tưởng phong kiến đó chính là “Đạo đức phong kiến Việt Nam có đặc trưng là...
địa vị, tôn ti trật tự nặng nề, bè phái cục bộ, trọng nam khinh nữ, xem thường
lớp trẻ, đạo đức giả”.
Nghiên cứu tư tưởng chính trị của Khổng Tử đối với các vấn đề về phát
triển kinh tế và hiện đại hóa xã hội của Nguyễn Thanh Bình: Nho giáo với vấn
đề phát triển kinh tế và hoàn thiện con người (Tạp chí Giáo dục lý luận, số 5,
năm 2000); Khổng giáo với vấn đề hiện đại hoá xã hội của Lê Thanh Sinh (Tạp
chí Khoa học xã hội, số 1, năm 2003),... Tuy nhiên, các công trình trên đây mới
chỉ nghiên cứu một cách khái lược về ý nghĩa trong tư tưởng giáo dục của
Khổng Tử đối với sự phát triển đất nước nói chung, hay đi vào từng vấn đề
riêng biệt như triết học, đạo đức, văn hoá, giáo dục, mà chưa đi sâu nghiên cứu
phân tích tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị và giá trị lịch sử của tư
tưởng này.
Như vậy, từ việc nhìn nhận trước thực trạng của xã hội thời Xuân Thu,
các nước chư hầu tranh giành đoạt lợi, thiên hạ loạn lạc, cuộc sống của người
dân vô cùng khổ cực; Khổng Tử muốn đem cái đạo lớn của thánh hiền để
khuyên răn, giáo hóa cho mọi người và đặc biệt là những người cai trị để đạt
được mục tiêu: tề gia, trị quốc, bình thiên hạ “齊家,治國,平天下”. Qua đó, có
thể thấy tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị đã được nghiên cứu từ
nhiều góc độ và phương diện khác nhau; tuy nhiên, việc trình bày, phân tích
5
một cách có hệ thống và vận dụng những tư tưởng tiến bộ này về con người
chính trị vẫn còn rất cần thiết, có ý nghĩa đồi với việc xây dựng con người
chính trị Việt Nam trong thời kỳ mới.
Kết quả mà các công trình đi trước đã đạt được là những tài liệu quý báu
cho tôi khi viết luận văn này tham khảo, nên tác giả đã kế thừa những thành tựu
đã đạt được và nghiên cứu sâu hơn tư tưởng của Khổng Tử về con người chính
trị và giá trị lịch sử của nó, góp phần đóng góp vào công cuộc đổi mới ở Việt
Nam hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu:
Làm rõ nội dung tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị; đồng
thời đề xuất vận dụng những giá trị trong tư tưởng của Khổng Tử về con người
chính trị vào việc xây dựng con người chính trị Việt Nam hiện nay.
- Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ lý luận chung về con người chính trị; phân tích cơ sở hình
thành tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị;
+ Làm rõ nội dung tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị;
+ Đề xuất vận dụng những giá trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử
về con người chính trị vào việc xây dựng con người chính trị Việt Nam hiện
nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tƣợng nghiên cứu: Luận văn đi sâu nghiên cứu tư tưởng của
Khổng Tử về con người chính trị.
- Phạm vi nghiên cứu:
Thứ nhất, về cách tiếp cận, luận văn nghiên cứu vấn đề từ giác độ của
khoa học chính trị, mà không phải từ cách tiếp cận sử học hay một chuyên
ngành nào khác.
Thứ hai, về mặt thời gian, luận văn giới hạn đối tượng nghiên cứu là tư
tưởng của Khổng Tử về con người chính trị.
6
Thứ ba, về không gian, luận văn nghiên cứu giá trị lịch sử tư tưởng của
Khổng Tử về con người chính trị và đưa ra những điểm tích cực gắn với những
điều kiện kinh tế, chính trị - xã hội, văn hoá... đóng góp cho công cuộc đổi mới
ở Việt Nam hiện nay.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận:
Dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về con người chính trị, đồng
thời kế thừa kết quả nghiên cứu của các nhà nghiên cứu khác về tư tưởng chính
trị của Khổng Tử nói chung, về con người chính trị nói riêng.
- Phƣơng pháp nghiên cứu:
Trên cơ sở các tài liệu tham khảo và nhận thức của mình, luận văn tiến
hành nghiên cứu với phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử; cụ thể
sử dụng những phương pháp nghiên cứu chính: Phương pháp lịch sử, logic,
phương pháp khái quát, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp đánh
giá, phương pháp nghiên cứu văn bản...
6. Đóng góp của luận văn
Những kết quả đạt được của luận văn sẽ là sự bổ sung cần thiết trong
việc nghiên cứu và đánh giá một cách toàn diện hơn tư tưởng của Khổng Tử về
con người chính trị; đồng thời, luận văn góp thêm đề xuất khai thác những giá
trị tích cực trong tư tưởng của Khổng Tử về con người chính trị vào công cuộc
đổi mới ở Việt Nam hiện nay.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác giảng dạy,
nghiên cứu và học tập tư tưởng chính trị của Khổng Tử nói chung và về con
người chính trị nói riêng.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn, ngoài phần mở đầu, đề tài gồm 03 chương 10 tiết
và danh mục tài liệu tham khảo:
7
Chƣơng 1. Con ngƣời chính trị và cơ sở hình thành tƣ tƣởng của
Khổng Tử về con ngƣời chính trị.
Chƣơng 2. Nội dung tƣ tƣởng của Khổng Tử về con ngƣời chính trị.
Chƣơng 3. Những giá trị và hạn chế của tƣ tƣởng Khổng Tử về con
ngƣời chính trị.
8
Chƣơng 1
CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ VÀ CƠ SỞ HÌNH THÀNH
TƢ TƢỞNG CỦA KHỔNG TỬ VỀ CON NGƢỜI CHÍNH TRỊ
1.1. Những lý luận chung về con ngƣời chính trị
1.1.1. Khái niệm chính trị
Chính trị là toàn bộ những hoạt động có liên quan đến các mối quan hệ
giữa các giai cấp, giữa các dân tộc, các tầng lớp xã hội, mà cốt lõi của nó là
vấn đề giành chính quyền, duy trì và sử dụng quyền lực nhà nước, sự tham gia
vào công việc của nhà nước, sự xác định hình thức tổ chức, nhiệm vụ, nội dung
hoạt động của nhà nước [62].
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan hệ giai
cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh vấn đề giành, giữ và sử
dụng quyền lực nhà nước. Hiện nay trên thế giới đã hình thành bốn cách hiểu
khác nhau về chính trị - chính trị là nghệ thuật của phép cai trị, những công việc
của chung, sự thoả hiệp và đồng thuận, quyền lực và cách phân phối tài nguyên
hay lợi ích.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm xây
dựng, gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động
trực tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung đó. Với cách hiểu như vậy thì dù trong xã hội cộng sản,
chính trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con
người cũng như toàn xã hội. Trong bất kỳ xã hội nào thì cũng cần những luật lệ
chung để hoạt động nhịp nhàng và khoa học, tránh tình trạng vô tình hay cố ý
xâm phạm quyền lợi, lợi ích, tài sản, sức khỏe hay thậm chí tính mạng của
người khác hay của cộng đồng.
Trong lịch sử phát triển của xã hội, chính trị là một hiện tượng lịch sử
mang tính tất yếu liên quan chặt chẽ với sự xuất hiện và hoạt động của xã hội
có phân chia giai cấp. Trong đó, vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc đấu
tranh giai cấp thuộc về nhà nước. Cuộc đấu tranh này trước hết là nhằm giúp
9
cho một giai cấp chiếm được quyền lực nhà nước và sau đó là quá trình gìn giữ,
củng cố và sử dụng nó. Nếu quan niệm rằng chính trị chỉ là những hoạt động
xoay quanh vấn đề giành giữ và thực thi quyền lực nhà nước thì, theo lý luận
của chủ nghĩa Mác - Lênin, trong xã hội cộng sản tương lai sẽ không có chính
trị bởi vì lúc đó nhà nước đã tiêu vong. Nói cách khác, chính trị sẽ dần dần trở
nên thừa và mất hẳn trong xã hội lý tưởng của nhân loại - xã hội cộng sản. Điều
này không mâu thuẫn với nhận định ở trên, vì dù trong xã hội cộng sản, chính
trị vẫn còn tồn tại và vẫn giữ vai trò hết sức quan trọng đối với từng con người
cũng như toàn bộ xã hội. Ở đây khái niệm “chính trị” theo quan niệm là toàn
dân làm chính trị, tự quản nhà nước, tự quản xã hội.
Chính trị là lĩnh vực hoạt động phổ biến, quan trọng của xã hội - là khoa
học và nghệ thuật giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, nhằm thực hiện
mục đích giai cấp, dân tộc, quốc gia. Chính trị là một hiện tượng xã hội đặc
biệt. Nó xuất hiện từ khi xã hội phân chia giai cấp và nhà nước. Chính trị theo
nguyên nghĩa tiếng Hy Lạp (politica) có nghĩa là những công việc thành bang
(poliz), là nghệ thuật cai trị nhà nước, là phương pháp nhất định để thực hiện
các mục tiêu của quốc gia.
Từ thời cổ đại đến hiện nay, các nhà tư tưởng đã đưa ra nhiều quan niệm
khác nhau về chính trị, mỗi quan niệm có những yếu tố hợp lý riêng và có
những cách tiếp cận riêng.
Hê-rô-đốt: Được mệnh danh là người “cha của chính trị học”. Từ chỗ
nghiên cứu và phân tích sự khác biệt giữa các hình thức chính thể: Quân chủ,
quý tộc và dân chủ, ông khẳng định chính trị tốt nhất là thể chế hỗn hợp của các
chính thể này [31].
Platôn: “Chính trị là công việc nhà nước, công việc xã hội”; “chính trị là
nghệ thuật cai trị” [65].
Arixtốt: “Chính trị là khoa học lãnh đạo con người, là khoa học làm chủ,
là khoa học kiến trúc xã hội của mọi công dân”. Chính trị là sản phẩm của sự
phát triển tự nhiên là hình thức giao tiếp cao nhất của con người; con người là
10
động vật chính trị; quyền lực chính trị có thể được phân chia thành lập pháp,
hành pháp và tư pháp [65].
Khổng Tử: “Chính trị là sự sắp đặt, lo liệu, quản lý để xã hội có kỷ
cương, nề nếp”. Chính trị là công việc của người quân tử, là làm cho chính đạo,
chính danh. Ông xây học thuyết Nho gia với các quan điểm Tam cương, Ngũ
thường - là cơ sở nền tảng cho các xã hội phong kiến phương Đông lúc bấy giờ
và cả sau này [31].
Hàn Phi Tử: Ông quan niệm để thực hiện hoạt động chính trị cần thiết
phải xây dựng và ban hành pháp luật. Với luận thuyết nổi tiếng về thế, thuật và
pháp - ông là đại diện tiêu biểu của phái Pháp gia [65].
Lão tử: Với quan điểm “vô vi nhi trị” - không làm gì mà mọi người tự
thuần phục, tự tìm đến với con đường chính đạo thì đó là cái gốc của nghệ thuật
trị nước [66].
Thời Trung cổ ở phương Tây: Chính trị được các nhà thần học và chủ
nghĩa duy tâm như S.Tômát Đacanh... cho rằng “chính trị có nguồn gốc từ
quyền lực tối cao của Thượng đế”.
Thời kỳ các học thuyết và tư tưởng tư sản về chính trị: Với các thuyết
“tam quyền phân lập, khế ước xã hội”. Chính trị được quan niệm là công việc
của những “công dân” có tài sản [31].
Các tư tưởng và học thuyết nêu trên ít nhiều đã đề cập được những vấn
đề cơ bản của chính trị như vấn đề tổ chức Nhà nước, các hình thức Nhà nước
và các chính thể, vấn đề quyền lực Nhà nước, thủ lĩnh chính trị... Tuy nhiên do
những hạn chế về lập trường, quan điểm, điều kiện lịch sử - xã hội mà các học
thuyết đó ít nhiều còn bộc lộ những quan điểm thô sơ, chất phác, thậm chí là sai
lầm về chính trị. Chỉ đến khi chủ nghĩa Mác - Lênin ra đời, những quan niệm
đúng đắn và khoa học về chính trị mới được khẳng định. Theo đó: “... giai cấp
nào muốn nắm quyền thống trị - ngay cả khi quyền thống trị của nó đòi hỏi phải
thủ tiêu toàn bộ hình thức xã hội cũ và sự thống trị nói chung, như trong trường
hợp của giai cấp vô sản - thì giai cấp ấy trước hết phải chiếm lấy chính quyền
11
để đến lượt mình, có thể biểu hiện lợi ích của bản thân mình như là lợi ích phổ
biến, điều mà giai cấp ấy buộc phải thực hiện trong bước đầu” [10, 7].
Như vậy, chính trị bao giờ cũng gắn liền với giai cấp. Giai cấp nào muốn
nắm được chính quyền, xóa bỏ xã hội cũ và xây dựng xã hội mới thì trước hết
đều phải giành lấy chính quyền. Theo V.I.Lênin, chính trị là “lĩnh vực của
những mỗi quan hệ của tất cả giai cấp, các tầng lớp với nhà nước và chính phủ,
lĩnh vực của những mỗi quan hệ giữa tất cả các giai cấp với nhau” [39, 101].
Như vậy, bất kỳ một vấn đề xã hội nào cũng đều mang tính chính trị nếu
việc giải quyết chúng, trực tiếp hay gián tiếp gắn với lợi ích giai cấp, với vấn đề
quyền lực. Chính trị xuất hiện khi xuất hiện giai cấp và đấu tranh giai cấp. Và
chừng nào giai cấp còn tồn tại thì chính trị cũng tồn tại với tư cách là một hình
thức hoạt động xã hội đặc biệt. Vì vậy, có thể xem chính trị là lĩnh vực hoạt
động gắn liền với mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc và giữa các tập
đoàn xã hội khác nhau mà hạt nhân là vấn đề giành, giữ và thực thi quyền lực
nhà nước.
Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định, chính trị thực chất là vấn đề quyền
lực thuộc về giai cấp nào, là quan hệ giai cấp và đấu tranh giai cấp diễn ra xung
quanh vấn đề chính quyền, vấn đề quyền lực, mà trước hết là quyền lực nhà
nước. Xét đến cùng, mọi căn nguyên của quyền lực chính trị đều tìm thấy ở
kinh tế, tất yếu kinh tế quy định tất yếu chính trị, mọi cuộc đấu tranh chính trị
bao giờ cũng nhằm giải quyết lợi ích kinh tế trong sự thống nhất với chính trị.
Chính trị và kinh tế có mối quan hệ biện chứng nhưng không phải lúc nào cũng
thống nhất với nhau, mà có khi tồn tại nhiều mâu thuẫn. Chính trị là biểu hiện
tập trung của kinh tế, nhưng chính trị không thể không giữ vị trí ưu tiên so với
kinh tế. Đó là quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về chính trị xét
trong mối quan hệ biện chứng với kinh tế.
Trong đời sống thực tiễn, chính trị còn được hiểu là những quan điểm
chính trị; những lý luận, lý tưởng chính trị; hệ tư tưởng chính trị; các chuẩn
mực chính trị; các thiết chế chính trị; đường lối, chính sách và hoạt động chính
12
trị thực tiễn,... Một đường lối chính trị bao giờ cũng mang bản chất giai cấp,
phản ánh lợi ích, nguyện vọng, ý chí của xã hội, đóng vai trò hướng dẫn và thực
hiện sự phát triển kinh tế. Chính trị luôn liên quan đến số phận của hàng triệu
con người. Đồng thời chính trị là sự nghiệp của hàng triệu con người, sự nghiệp
của quần chúng. Chính trị vừa là khoa học, vừa là nghệ thuật, khoa học và nghệ
thuật không chỉ trong nhận thức, tổ chức mà còn thể hiện cả trong đời sống
chính trị. Bởi vì chính trị là vấn đề lãnh đạo, quản lý nên mọi quyết sách chính
trị phải có khả năng đi vào cuộc sống, tăng lên không ngừng khả năng phát huy
tính tích cực của quần chúng và khả năng tham gia của quần chúng vào công
việc nhà nước.
Khái quát lại, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, chính trị là
mối quan hệ giữa các giai cấp, các dân tộc, các quốc gia, các lực lượng xã hội
trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị, mà tập trung nhất ở quyền
lực nhà nước.
1.1.2. Khái niệm con ngƣời chính trị
Xã hội hình thành với tư cách là xã hội loài người, khi con người hợp tụ
lại với nhau để cùng sống, cùng hoạt động để tồn tại, để duy trì cuộc sống.
Trạng thái xã hội đầu tiên đó kéo dài hàng triệu năm, tuy chưa có tính chất
chính trị, nhưng đã biểu hiện những yếu tố của tổ chức, của “sự phân công” xã
hội nhằm đạt tới hiệu quả của hoạt động sống; ở đó cũng đã hình thành tình
cảm, ý thức cộng đồng, đặc biệt là ý thức về lợi ích cả vật chất lẫn tinh thần,
những ý tưởng có tính dự phòng cho cuộc sống tương lai của mỗi cá nhân và
của cả cộng đồng.
Những yếu tố, những tính chất và những xu hướng đó trong đời sống con
người chính là những nhân tố căn cốt bên trong của xã hội thể hiện bản chất
người, làm cho xã hội chuyển lên những trình độ xã hội ngày một cao hơn, mà
nguyên tắc đó thể hiện đầu tiên ở sự vượt qua đời sống của công xã nguyên
thủy, hình thành xã hội chiếm hữu nô lệ. Sự phân chia các đối tượng dân cư
thành các nhóm người, các tầng lớp, các giai cấp trong xã hội theo các lãnh thổ
13
đã được phân chia của các thị tộc, bộ lạc trước đây đã làm nảy sinh nhu cầu
quản lý, điều hành các hoạt động của các nhóm thị tộc, bộ lạc nhằm đảm bảo
trật tự, an ninh và hiệu quả của các hoạt động lao động, sản xuất, sinh hoạt và
các hoạt động khác của cộng đồng. Hơn nữa, sự tranh giành nhau về các quyền
lợi vật chất, tinh thần, địa vị xã hội đã làm cho trong xã hội nảy sinh những
mâu thuẫn, thậm chí là mâu thuẫn đối kháng quyết liệt.
Việc giải quyết những mối quan hệ khác nhau về các quyền lợi vật chất
và tinh thần, về các địa vị xã hội trong cộng đồng, giữa cộng đồng này với cộng
đồng khác và sự giải quyết các tranh chấp, cao hơn là những mâu thuẫn gay gắt
đó; hơn nữa, để bảo đảm quyền lợi của cộng đồng, của nhóm, tầng lớp, giai cấp
và để thực hiện ý chí, nguyện vọng của cộng đồng... tất yếu xuất hiện một loạt
các hoạt động lãnh đạo, quản lý, điều hành chung của toàn cộng đồng, đó là
mầm mống của chính trị, và xuất hiện hoạt động chính trị.
Vậy là chính trị đã tất yếu xuất hiện khi xã hội phát triển đến một trình
độ nhất định - trình độ mà ở đó có các quan hệ lợi ích quan trọng và có ý nghĩa
lớn lao đối với sự sinh tồn, sự bảo đảm vững chắc cho cuộc sống và sự phát
triển của cộng đồng với tư cách là giai cấp, với tư cách là một quốc gia, mà
công cụ hữu hiệu để thực hiện được mục đích của nó là nhà nước. Chính trị với
bản chất và chức năng như vậy, có đặc điểm là gắn với nhu cầu an sinh và phát
triển của con người, của cộng đồng, thỏa mãn những mục đích của xã hội; nó
như là nhu cầu, phương thức và phương tiện thực hiện những mục đích chân
chính của con người và xã hội. Chính trị như là bản chất sống của con người,
nói chính xác hơn, chính trị là bản chất sống của con người cộng đồng, con
người xã hội. Bản thân cuộc sống con người, nhu cầu bảo tồn, an sinh và phát
triển của chính con người cần đến một phẩm chất cuộc sống đặc thù nhưng lại
có tính phổ biến là chính trị; và đến lượt mình, chính trị đáp ứng nhu cầu có
tính chính trị của chính con người mà nói đúng hơn là con người cộng đồng,
con người xã hội.
14
Như vậy, do nhu cầu cuộc sống, do sự cần thiết phải tổ chức hoạt động
một cách có hướng đích và hiệu quả mà có chính trị và có hoạt động chính trị
trong xã hội; nó như là nhu cầu thiết yếu của sự tồn tại, phát triển xã hội loài
người. Chính trị là sản phẩm của con người (loài người), nó do loài người tạo ra
và đồng thời nó cũng chính do bản thân con người thực hiện, và thực hiện vì
mục đích, lợi ích của chính con người.
Hoạt động sống của loài người có thể chung quy là loại hoạt động tập
trung và có tính quyết định nhất, đó là hoạt động chính trị. Từ khi xã hội phân
chia thành giai cấp, có nghĩa là từ khi xã hội có nhà nước, đấu trang giai cấp và
sử dụng nhà nước như là công cụ thiết yếu và đầy đủ sức mạnh để giải quyết
các quan hệ xã hội, giữa con người với con người... và có thể nói là lịch sử
chính trị. Vì đó là loại hoạt động đầy sức mạnh (quyền lực xã hội, tập trung ở
quyền lực chính trị, quyền lực chính trị lại tập trung ở quyền lực nhà nước)
nhằm thực hiện ý chí, nguyện vọng, và nói đến cùng là thực hiện lợi ích của
chủ thể chính trị, của cộng đồng, của giai cấp, của xã hội, điều mà bất cứ cộng
đồng, quốc gia, dân tộc nào cũng muốn đạt tới. Điều đó cũng có thể khái quát
rằng hoạt động chính trị là loại hoạt động phổ biến của con người, của toàn thể
loài người; và con người là chủ thể của loại hoạt động đó; cho nên, con người
mà phẩm chất phổ quát và cao cả của nó là con người chính trị.
Những quan niệm, những quan điểm, những tư tưởng về con người chính
trị vô cùng phong phú và đa dạng đã xuất hiện ngay từ thời cổ đại - từ khi xuất
hiện hoạt động chính trị trong xã hội. Tính phong phú và đa dạng đó nảy sinh từ
các quan niệm về chính trị, phụ thuộc vào thời đại, vào mục tiêu chính trị của
từng chủ thể khác nhau. Lịch sử tư tưởng chính trị thế giới đã để lại rất nhiều
quan niệm khác nhau về con người chính trị.
Xênôphôn (427-355 Tr.CN): Nội dung chủ yếu trong tư tưởng chính trị
của ông là quan niệm về thủ lĩnh chính trị. Xênôphôn cho rằng trong hoạt động
chính trị, việc làm chủ nghệ thuật chính trị là trình độ cao hơn mà con người có
thể đạt tới. Hoạt động cai trị nhà nước trong đời sống nhân loại là việc quan
15
- Xem thêm -