Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng của khổng tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã ...

Tài liệu Tư tưởng của khổng tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở việt nam hiện nay

.DOCX
32
1
96

Mô tả:

TRƯỜNG ĐẠI HỌC NỘI VỤ HÀ NỘI KHOA PHÁP LUẬT HÀNH CHÍNH TÊN ĐỀ TÀI Tư tưởng của Khổng Tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay BÀI TẬP LỚN KẾT THÚC HỌC PHẦN Học phần:Lịch Sử học thuyết chính trị - pháp lý Mã phách:………………………………….(Để trống) Hà Nội 1 Mục Lục Mở Đầu.............................................................................................................................................3 Chương 1...........................................................................................................................................7 Tư Tưởng Của Khổng Tử..................................................................................................................7 1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Nho giáo........................................................................................7 1.1.1 Hoàn cảnh kinh tế, chính trị thời kỳ xuất hiện học thuyết Khổng Tử..............................7 1.1.2 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Trung Hoa....................................................................8 1.1.3 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Việt Nam....................................................................11 Chương 2.........................................................................................................................................12 ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY..................................12 2.1 Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay 12 2.2 Những điểm tích cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay............................................................14 2.3 Những điểm tiêu cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay............................................................19 Chương 3.........................................................................................................................................22 PHƯƠNG HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC, HẠN CHẾ TÍNH TIÊU CỰC CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY................................................................................................................................................22 3.1. PHƯƠNG HƯỚNG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY...................................................................................22 3.1.1 Sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam cùng những nguyên tắc cơ bản xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa....................................................................22 3.1.2 Phát huy vận dụng những ưu điểm tích cực, hạn chế tiêu cực của tư tưởng Khổng tử với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.............................24 3.2 Một số giải pháp được đưa ra....................................................................................24 3.2.1 Tiếp tục phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong đó cải tổ những quen điểm, tư tưởng lạc hậu của Khổng giáo......................................................24 3.2.2 Phát huy những yếu tố tích cực, hạn chế việc không tôn trọng pháp luật trong tư tưởng của Khổng Tử..................................................................................................25 3.2.3 Xây dựng cán bộ, công chức trong sạch, không tham nhũng quan liêu, thượng tôn pháp luật và phát huy tư tưởng dân chủ.................................................................26 Kết Luận..........................................................................................................................................28 Tài liệu tham khảo...........................................................................................................................29 2 Mở Đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Nho Giáo là một trong những học thuyết chính trị lớn của Trung Quốc, được ra đời từ thời Xuân Thu – Chiến Quốc do Khổng Tử (551 – 479 TCN) bậc thầy lớn nhất của Nho giáo, một nhà chính trị, giáo dục sáng lập lên. Với sự xuất hiện ở thời kỳ suy yếu về địa vị của nhà Chu trong vấn đề kinh tế chính trị đã hình thành lên một tư tưởng trị quốc đặc biệt về con người, ở đây là con người chính trị - con người đạo đức cho nên những quy phạm và chuẩn mực đạo đức mà nhà Nho yêu cầu, đòi hỏi mỗi người phải tu dưỡng, rèn luyện và học tập, thi hành nhằm mục đích chính trị [1, tr.5], xây dựng một quốc gia theo khuôn mẫu vua Nghiêu, vua Thuấn. Ở nước ta, sự xuất hiện của Nho giáo đi theo một quá trình lịch sử lâu dài trong quá trình đô hộc của các triều đại phương Bắc. Sự tồn tại của nó đã được ghi nhận từ thời kỳ Lý – Trần. Mặc dù trong thời kỳ này Phật giáo có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng của Việt Nam thời bấy giờ, điển hình trong đó là việc xuất gia của Phật hoàng Trần Nhân Tông hay việc xây dựng hàng loạt những ngôi chùa từ thời Lý, Trần thì Nho giáo được dùng chủ yếu trong giáo dục thực sự thúc đẩy nền văn hóa của nước ta thời kỳ này. Phải đến thời Lê, Nho giáo mới thực sự có vị thế chủ đạo trong nền tư tưởng chính trị thời đó, ảnh hưởng sâu rộng đến tinh thần, tư tưởng cũng như luật lệ. Theo Việt Nam sử lược [tr263, 273] , thời vua Lê Thành Tông thì Nho giáo đã thực sự được coi là quốc giáo, ảnh hưởng sâu rộng đến toàn bộ người dân cũng như tình chính trị quốc gia thời kì này. Từ đây Nho giáo đã thành một công cụ, phương tiện xuất hiện trong xuốt thời kì phát triển của Việt Nam trong việc quản lý cũng như xây dựng hình tượng con người thời kỳ phong kiến sau này. Như đã nói ở trên, Nho giáo bàn nhiều về con người chính trị vì vấn mà vấn đề trị quốc ở đây được bàn luận rất nhiều trong các cuốn sách được viết của Khổng Tử từ đó mà nước Nam ta cũng sản sinh ra hàng loạt những nhân kiệt trong văn học, chính trị, giáo dục như Nguyễn Du, Lê Quý Đôn,… Tuy nhiên bên cạnh tính hợp lý, đặc 3 sắc của hệ thống tư tưởng Nho giáo thì lý thuyết quân chủ tập quyền và quản lý xã hội của đạo Khổng Tử cũng còn nhiều hạn chế nhất định. Vì thế mà ảnh hưởng của Nho giáo đến quá trình xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay cần tiếp thu những tinh hoa trọn lọc, lược bỏ những yếu kém không phù hợp với thời kỳ hiện đại ngày nay. Việc xây dựng một nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân do dân và vì dân đã được Đảng và Nhà nước ta xây dựng từ lâu. Trong các văn kiện đại hội Đảng luôn khẳng định xây dựng một “nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân” từ đó xây dựng một nhà nước pháp quyền hiệu quả, bộ máy nhà nước tinh gọn trong sạch, vững mạnh, hoàn thiện hệ thống pháp luật [6, tr76]. Với thực tế đất nước ngày càng phát triển sâu, nền kinh tế hội nhập toàn cầu việc xây dựng một quốc gia với tinh thần thượng tôn pháp luật là hết sức cần thiết và nhanh chóng, đẩy mạnh hoàn thiện một nhà nước liêm chính, chấm dứt một sự suy thoái về tư tưởng, lối sống của những bộ phận công chức, cơ quan công quyền thì yêu cầu về nhà nước Pháp quyền là một đòi hỏi cấp bách và cần thiết. Một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vi hân dân với một mục tiêu không đổi, xuyên xuốt trong sự đấu tranh của dân tộc ta “ dân giàu, nước mạnh, công bằng văn minh” để đạt được mục tiêu mang tính dân tộc này chúng ta cần phải vận dụng thật tốt tinh hoa, tính túy bản chất tốt đẹp của dân tộc Việt Nam anh hùng, quật cường và có chọn lọc những thông tin, tư tưởng có ý nghĩa tiến bộ. Nho giáo với quan điểm xây dựng một quốc gia tích cực là xây dựng một quốc gia hòa đồng, tạo nên một truyền thống tốt đẹp về tư tưởng, đạo đức và nối sống. Ý thức trách nhiệm, nghĩa vụ tình cảm của người dân với cộng đồng, thúc đẩy sự hiếu học, tôn sư học đạo, thúc đẩy sự có đạo đức của mỗi con người trong xã hội [19]. Tư tương lấy dân làm gốc, một xã hội mang tính ổn định có những “con người đạo đức” cán bộ có phẩm giá, chuyên môn sâu năng lực và phẩm chất chuẩn mực cần gắn liền với một xã hội phát triển văn minh tiến bộ. Nhưng bên cạnh những giá trị tốt đẹp thì những vấn đề tiêu cực thì tâm lý không tôn trọng luật pháp, sự gia trưởng không dân chủ, sự dập khuôn, giáo điều trong công tác nghiên cứu và 4 phát triển, sự thiếu bình đẳng trong vấn đề giới tính, gia đình là những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống cũng như sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Với sự ảnh hưởng mang tính tương đối, có cả tích cực và tiêu cực thì việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay của tư tưởng Nho giáo với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền thực sự ở nước ta cần phải nghiên cứu và làm rõ những điểm tích cực, từ đó tìm ra phương hướng và đường lối hiệu quả đứng đắn với những điểm văn mình tốt đẹp, hạn chế và loại bỏ những điểm xấu trong con đường xây dựng và phát triển đất nước là hết sực thực tiễn. Xuất phát từ những cơ sở lý luận và thực tiễn nêu trên, nghiên cứu sinh đã chọn đề tài “Tư tưởng của Khổng Tử và ảnh hưởng đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay” làm đề tài thi kết thúc học phần môn học. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu Mục đích nghiên cứu đề tài Trên cơ sở làm rõ nội dung tư tưởng của Khổng Tử; phân tích thực trạng ảnh hưởng và nguyên nhân từ đó đưa ra những phương hướng cùng những giải pháp hiệu quả nhằm phát huy tính tích cực, hạn chế tiêu cực của học thuyết Nho giáo đối với việc xây dựng một nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Nhiệm vụ nghiên cứu Làm rõ sự hình thành, những nội dung chính trong tư tưởng của Khổng tử và sự phát triển, biến đổi ở Việt Nam. Phân tích sự ảnh hưởng của tư tưởng chính trị, trị quốc của Nho giáo với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay và nguyên nhân của sự ảnh hưởng. Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm thúc đẩy và phát triển sự tích cực, hạn chế các yếu tố tiêu cực của tư tưởng trị quốc của Khổng Tử với việc xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay 5 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của đề tài là ảnh hưởng của tư tưởng của Khổng Tử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Phạm vi nghiên cứu Phạm vi nghiên cứu là tư tưởng của Khổng Tử và Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, nghiên cứu chủ đạo về Tư tưởng pháp luật và trị quốc của đạo Khổng với Nhà nước pháp quyền. Trọng tâm là về tư tưởng của Nho giáo từ khi đất nước giành độc lập và bắt đầu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận Cơ sở lý luận của đề tài là phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các tài liệu, văn kiện của Đảng về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Phương pháp nghiên cứu Phương pháp nghiên cứu dựa trên phương pháp luận của Chủ nghĩa Duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử. Sử dụng những phương pháp cụ thể như: so sánh, đối chiếu, tổng hợp, quy nạp,… 5. Kết cấu của Tiểu luận Ngoài phần mở đâu, phần Kết luận, tài liệu tham khảo, tiểu luận gồm 3 chương 6 phần. 6 Chương 1 Tư Tưởng Của Khổng Tử 1.1 Cơ sở hình thành tư tưởng Nho giáo 1.1.1 Hoàn cảnh kinh tế, chính trị thời kỳ xuất hiện học thuyết Khổng Tử Trên thực tế, sự xuất hiện của một học thuyết, tư tưởng mới được hình thành thì yếu tố hoàn cảnh, điều kiện lịch sử nào thì sẽ khai sinh ra một học thuyết tương xứng trong hoàn cảnh đó. Hoàn cảnh sẽ hình thành và tác động đến những suy nghĩ, tư tưởng và cuối cùng là khai sinh ra một học thuyết mới. Tư tưởng Khổng Tử cũng không ngoại lệ, Nho giáo là sản phẩm của một hoàn cảnh lịch sử Trung Hoa thời Xuân Thu - Chiến Quốc loạn lạc. Trước thời nhà Chu vào thời nhà Thượng, mạng sống con người vô cùng rẻ mạt, tục lệ chôn người sống theo người chết vô cùng phổ biến, quyền sinh sát ở trong tay vua vì nhà Thương dựa trên nguyên tắc “Vương quyền chí thương” tức là sinh mạng của dân là do vua nhận được từ trời. Nhà Chu đã lật đổ nhà Thương và xóa các hủ tục vô nhân tính, bên cạnh đó nguyên lý trị đạo của nhà Chu đã dần có ý tưởng lấy dân làm gốc, chứ không phải lấy vương làm gốc như nhà Thương, Hạ. [3, tr.47] Những tư tương lấy dân làm gốc của nhà Chu đã được phát triển bởi Khổng Tử trở thành lấy người làm gốc. Khổng Tử chỉ coi bản tính của con người là giá trị tinh thần cao quý của con người, mà không có bản tính tự nhiên trong con người. Đây là một sự tân tiến tron nhận thức của ông, điều này rất phù hợp với lý thuyết của chủ nghĩa Mác về bản chất của con người [3, tr.50-51]. Sau quãng thời gian đó về Kinh tế, người dân đã sử dụng phổ biến những công cụ bằng sắt để phục cho cuộc sống cũng như nông nghiệp, sự phát triển của nông nghiệp cũng kéo theo sự lớn mạnh của các ngành kinh tế khác hư thủ công nghiệp 7 và thương nghiệp. Sự xuất hiện của hoạt động thương nghiệp đã tạo lên những thành thị lớn và sầm uất. Những người giàu có, thế lực lớn mạnh đã xuất hiện và không hoàn toàn chịu sự ban phát đất đai của thiên tử mà đã chiếm đất, thôn tĩnh lẫn nhau để thành của riêng. Tình hình xã hội cũng có biến động và phân hóa do sự đi nên của tầng lớp có nhiều của cải hơn trong xã hội, với sự biến đổi của các tầng lớp mà sự phân hóa ngày càng sâu sắc, những người nghèo càng ngày càng dựa vào ruộng đất của những người giàu có sống lang bạt, cùng cực, ngược lại thì những địa chủ ngày càng trở lên giàu có. Tình hình chính trị xã hội của Nhà Chu ban đầu tương đối phát triển và ổn định nhưng từ thời kỳ Đông Chu thì ngày càng suy yếu, loạn lạc từ nhiều hoạt động tranh giành, sự bất ổn chính trị leo thang cùng với việc lớn mạnh của các nước chư Hầu, đặc biệt là nhà Tần, các hoàn cảnh lịch sử của thời đại này đã chắp lối và hình thành các nhà tư tưởng vĩ đại muốn thay đổi thế cục tiêu biểu là Khổng Tử, Mạnh Tử. Ai ai cũng nhận và dạy học trò, số học trò đông đến hàng ngàn mở phong trào dạy tư đến đời sau [14, tr.91] nhờ phong trào này mà kẻ sĩ rất đông, tìm kiếm mô hình xã hội lý tưởng, học thuyết phù họp với tình hình thời bấy giờ. 1.1.2 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Trung Hoa Với sự ra đời của Nho giáo và các tư tưởng học thuyết khác thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc dựa trên sự kế thừa những tư tưởng chính trị, đọa đức và lối sống trước đó nhất là thời nhà Chu. Đạo Khổng Tử đã giải quyết những vấn đề thực tiễn xã hội đang đặt ra lúc bấy giờ, mục tiêu rõ ràng trong quan niệm của Nho giáo được thể hiện qua cát đặc điểm sau: Xã hội ổn định, trật tự theo đúng chuẩn mực của mối quan hệ. Nho giáo chủ yếu bàn về mối quan hệ Ngũ Luân nhưng đặc biệt là mối quan hệ Tam cương (vua – tôi), (cha – con), (vợ - chồng). Khổng Tử đưa ra những yêu cầu về thái độ, trách nhiệm và mặt đạo đức nghiêm ngặt nhằm những mục tiêu chính trị hà khắc. Quy định về “Chính danh” là đỏi hỏi sự tự giác, bất kể là vua hay quan lại, 8 dân thường đều phải tự giác giữ lấy chuẩn mực cùa Lễ, nhằm ngăn chặn sự “phạm thượng”. Theo Nho giáo sự ổn định, trật tự trong xã hội là vô cùng cần thiết, phải biết coi trọng hiếu đễ, coi đó là phẩm chất quan trọng trong giáo dục con em. Các nhà nho tin rằng người có hiếu, đễ thì sẽ không phạm thượng, không trái nghịch với bề trên thì ắt sẽ tuân lệnh bề trên, mà ở đây bề trên nhất, cha của toàn dân thiên hạ đó chính là Vua, người dân phải biết nuôi dưỡng mỗi cá nhân trong gia đình từ đó biết lễ nghĩa vợ chồng, cha mẹ, và quan hệ vua - tôi. Một xã hội với sự chuẩn mực đạo đức, đạo đức của mọi người là trên hết. Theo Khổng Tử, việc sống ở trên đời của mỗi người phải lấy cái đạo đức làm cốt lõi của mọi vấn đề, Vua phải quan tâm đến dân, phải lấy dân làm “gốc” đó mới là quý, phải thể hiện sự khoan dung độ lượng và có trách nhiệm đối với dân. Như thế thì vua mới được coi là bậc minh quân, xứng đáng là “cha mẹ của muôn dân thiên hạ”, mùa màng của dân phải giảm thuế má cho dân, dạy dân trồng trọt, biết chăn nuôi, biết phụng dưỡng người già [9, tr.1309]. Bên cạnh đó, xuất hiện quan điểm về Quân tử, mà theo Khổng Tử thì sự học của người quân tử mới là nghĩa lý, như thế mới là người có đức hạnh [11, tr.125]. Như vậy, chỉ có việc học mới có thể biên một người dân bình thường cũng thành quân tử miễn là phải có đạo đức và xứng đáng có thể quản lý nhà nước. Nhưng thực tế để theo được việc học mà Khổng Tử đã nói thì chỉ có những con em của gia đình có của cải mới có thể cho con cái theo học được, còn lại người dân bình thường thì xuốt ngày chỉ biết cặm cụi làm đồng áng, lấy đâu ra tâm trí mà thành kẻ sỹ, thành bậc quân tử. Bên cạnh đó người quân tử phải có “Trí”, “Dũng”, “Nghĩa”, xả thân vì nghĩa không màng lợi lộc. Trong đó việc tu dưỡng đạo đức được Khổng tử dăn dạy đặt ở hàng đầu đó là: “ Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ” đây là 4 bước thuộc 8 bước dể thực hiện 3 cương lĩnh của Nho giáo. Thực tế ở thời kì này việc chỉ lấy giáo dục đạo đức là hoàn toàn không đủ và thiếu tính thực tế. Vì thế, bên cạnh đạo đức cùng giáo dục thì pháp luật cũng phải được xuất hiện dùng để duy trì trật tự xã hội trong khuôn khổ của Nho giáo. Nghĩa là, giữa đạo đức với pháp luật và hình phạt, Khổng Tử đã thể hiện rằng coi trọng đạo 9 đức hơn nhưng cũng không phủ nhận vai trò của pháp luật cũng như hình phạt. Tuy nhiên theo các nhà Nho thì không nên lạm dụng nó và về lâu dài thì phải sử dụng đạo đức mới được. [8, tr.47-48] Như vậy có thể thấy những mặt tích cực trong Nho giáo của Khổng tử ở Trung Quốc thì mục tiêu trị quốc của Nho giáo là đời sống vật chất đầy đủ, đạo đức, phương hướng và cách thức giáo dục đạo đức thật sự quan trọng đối với việc duy trì bình ổn xã hội. Phương hướng dẫn dắt quốc gia của Khổng Tử đề cao và khẳng định quan trọng nhất là vai trò của đạo đức, dùng “Đức” để “Trị” nhưng cũng không phủ nhận pháp luật mà chủ trương sử dụng khi cần. Việc giữ chữ Tín là quan trọng nhất, bên cạnh đó thì vai trò lấy dân làm gốc cũng được nhấn mạnh. Những người có thể lãnh đạo đất nước đó là những kẻ Sỹ, Quân tử, đại trượng, Vua phải là người có đạo đức có tài năng biết dưỡng dân, giáo dân, lên án người cầm quyền xa dân, độc ác,… Song những hạn chế có thể thấy được đó là một xã hội lý tưởng của các nhà Nho trong thời kỳ này mang tính ảo tưởng, chưa có điều kiện về Kinh tế, chính trị, xã hội thực tế để đạt được nó. Có sự đề cập đến pháp luật ở đây, mặc dù thấy được vai trò của luật pháp nhưng Khổng Tử lại đề cao tuyệt đối hóa vai trò của “ Đức” mà chưa cho thấy được vai trò cũng như vị trícần thiết của luật pháp. Bên cạnh đó sự bất bình đẳng về giới tính thể hiện rõ trong những hình mẫu lý tưởng được nêu ra, vai trò của Nam giới được đề cao còn vai trò của Nữ giới thì ngược lại, đôi khi còn thể hiện sự coi thường Phụ Nữ. 1.1.3 Tư tưởng Nho giáo tác động đến Việt Nam Trong lịch sử hàng ngàn năm của dân tộc ta đã chứng kiến khoảng 12 cuộc tấn công của phong kiến Trung Hoa vào đất nước ta, có những cuộc chiến ta đã giành thắng lợi vẻ vang và lưu danh sử sách, nhưng cũng có những cuộc chiến chúng ta đã thất bại trong một khoảng thời gian nhất định, nhưng với tinh thần yêu nước, dòng máu Lạc Hồng nhân dân ta đã đứng lên đạnh bại ách đô hộ của các triều đại Trung Quốc. Đây là những bài học lịch sử cần phải khắc ghi sâu sắc trong mỗi người dân Việt Nam về bài học xây dựng và bảo vệ tổ quốc suốt hàng ngàn năm qua, để xứng đáng với hi sinh của cha ông để lại vì độc lập tự do cho thế hệ con cháu đất Việt. 10 Trong những năm giặc phương Bắc đô hộ bóc lột nhân dân ta cùng với kẻ thù thì các tư tưởng như Nho giáo cũng từ đó du nhập vào đất nước Âu Lạc từ thời gần 1000 năm bắc thuộc. Chúng dùng Nho giáo như một công cụ bóc lột, khai thác với mục đích đồng hóa dân tộc ta về văn hóa, con người, tư tưởng,… Có thể nói Nho giáo đến nước ta lúc đầu là vì mục đích phục vụ công cuộc khai thác và đồng hóa dân tộc ta. Xong phải đến thế kỷ thứ XV, Phật giáo thời kỳ này dần suy yếu và đến thời Lê Sơ, Nho giáo đã chiếm vị chí độc tôn trong đời sống, tư tưởng ở Việt Nam lúc bấy giờ [15, tr333]. Xong khi du nhập vào Việt Nam, Tư Tưởng trị quốc của Khổng Tử cũng đã có sự biến đổi, những nhà Nho Việt Nam đã loại bỏ, sửa đổi một số tư tưởng không phù hợp, những nét riêng biệt khác với Nho giáo Trung Quốc để hình thành một tư tưởng Nho giáo Việt Nam phong phú hơn. Những tác phẩm Nho giáo kinh điển thể hiện chủ quyền độc lập dân tộc ta như Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt, Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi đều khẳng định chủ quyền dân tộc ta từ ngàn đời, những tác phẩm Nho giáo thời kì này được dùng với mục đích hoàn toàn tốt đẹp là khẳng định chủ quyền lãnh thổ, sự độc lập và toàn vẹn của quốc gia, sự tự do của dân tộc Việt, đây là những lý tưởng chính trị xã hội cao cả trong Nho giáo của Khổng Tử. Ngày nay, tư tưởng của Khổng tử không còn giữ vai trò chính ở hệ tư tưởng chính và đã suy yếu rất nhiều, nhưng dấu ấn và sự ảnh hưởng thì vẫn chưa phải hết. Vì vậy mà việc sử dụng những tinh hoa trong tư tưởng Nho giáo là cần thiết trong việc xây dựng nhà nước Pháp quyền xã hội chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay. 11 Chương 2. ẢNH HƯỞNG CỦA TƯ TƯỞNG KHỔNG TỬ ĐỐI VỚI VIỆC XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 2.1 Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Ở Việt Nam, khái niệm “nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa” lần đầu tiên được nêu ra tại Hội nghị lần 2 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII (ngày 29/11/1991) và tiếp tục được khẳng định tại Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII của Đảng (năm 1994) cũng như trong các văn kiện khác của Đảng và Nhà nước. Tại Hiến pháp năm 2013, bản chất và đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta đã được thể chế hóa rõ hơn. Nhà nước pháp chúng ta có thể hiểu ngắn gọn là nhà nước có hệ thống pháp luật tiêu biểu cho quyền lực của một nhà nước, một chế độ. Hệ thống này phản ánh ý chí, nguyện vong, tâm tư của nhân dân, bảo đảm cho nhân dân quyền được làm chủ của mình. Như vậy, có thể nhận thấy, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam vừa mang những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói chung, nhất là tính thượng tôn Hiến pháp, pháp luật, vừa có những đặc thù của riêng Việt Nam, được nhấn mạnh ở ba điểm chính sau: Thứ nhất, cơ sở kinh tế của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường không phủ nhận các quy luật khách quan của thị trường, mà là cơ sở để xác định sự khác nhau giữa kinh tế thị trường trong chủ nghĩa tư bản và kinh tế thị trường trong chủ nghĩa xã hội. Do vậy, đặc tính của nền kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa tạo ra sự khác nhau giữa nhà nước pháp quyền tư sản và nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đồng thời tạo ra nét đặc trưng của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. 12 Thứ hai, cơ sở xã hội của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Với khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhà nước pháp quyền có được cơ sở xã hội rộng lớn và khả năng to lớn trong việc tập hợp, tổ chức các tầng lớp nhân dân thực hành và phát huy dân chủ. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tuy không loại bỏ được sự phân tầng xã hội theo hướng phân hoá giàu nghèo, nhưng có khả năng xử lý tốt hơn công bằng xã hội. Những mâu thuẫn xã hội phát sinh trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường do được điều tiết thông qua pháp luật, chính sách và các công cụ khác của nhà nước nên ít có nguy cơ trở thành các mâu thuẫn đối kháng và tạo ra các xung đột có tính chất chia rẽ xã hội. Đây là một trong những điều kiện đảm bảo ổn định chính trị, đoàn kết các lực lượng xã hội vì mục tiêu chung của sự phát triển. Ba là, tính nhất nguyên chính trị và sự lãnh đạo của một Đảng duy nhất cầm quyền tạo khả năng đồng thuận xã hội, tăng cường khả năng hợp tác và giúp đỡ lẫn nhau giữa các giai tầng, các cộng đồng dân cư và các dân tộc. Nhờ vậy, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa có được sự ủng hộ rộng rãi từ phía xã hội, nguồn sức mạnh từ sự đoàn kết toàn dân, phát huy được sức sáng tạo của các tầng lớp dân cư trong việc nâng cao quyền làm chủ của nhân dân. Tuy nhiên, thách thức từ việc thiếu cơ chế cạnh tranh, kiểm soát quyền lực của Đảng đặt ra yêu cầu phải xác định rõ nội hàm và phân định rõ chức năng lãnh đạo, cầm quyền của Đảng đối với Nhà nước và cả hệ thống chính trị [16, tr.2]. Có thể thấy những đặc điểm và tính ưu việt của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa cùng với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam thì việc lựa chọn xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là điều tất yếu. Theo văn kiện đại hội biểu toàn quốc lần thứ XII trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam cần lưu ý những yếu tố sau đây: Một, tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, nhà nước phải phục vụ nhân dân, tôn trọng nhân dân và thực hiện đầy đủ các điều ước quốc tế. 13 Hai là, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng có sự phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện các quyền lập pháp, tư pháp, hành pháp. Trong đó, Quốc hội là cơ quan duy nhấ có quyền lập Hiến và lập pháp; Chính phủ điều hành việc thực thi theo Hiến pháp và pháp luật; các cơ quan tư pháp khi xét xử chỉ tuân theo pháp luật của nhà nước đã ban hành. Ba là, mọi cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội chỉ được hoạt động trong khuôn khổ, giới hạn của Hiến pháp và phát luật Bốn là, Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng chủ trương, đường lối, không bằng chỉ thị, mệnh lệnh, không bao biện làm thay Nhà nước. Ta thấy rằng việc hướng tới mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đòi hỏi phải có sự chung tay vào cuộc của toàn bộ hệ thống chính trị phấn đấu không ngừng nghỉ, với sự đồng lòng chung sức của toàn thể người dân Việt Nam đưa đất nước ta ngày càng giàu mạnh phồn vinh, trong đó tư tưởng của Khổng Tử để rút ra những bài học kinh nghiệm, những tinh hoa để áp dụng và loại bỏ những tiêu cực từ đó con đường đi tới vinh quang của toàn Đảng, toàn dân ta mới thật sự hiệu quả. 2.2 Những điểm tích cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. Các điểm tích cực của tư tưởng Nho giáo được thể hiện qua những đặc điểm chính như sau đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay. 1. Tư tưởng tích cực trong việc giáo dục con người sống phải có đạo đức, có trách nhiệm với cộng đồng, phải xây dựng một trật tự xã hội ổn định. Việc giáo dục đạo đức của con người trong đời sống ta đã bàn luận, chủ trương theo tư tưởng của Khổng Tử là một xã hội theo trật tự ổn định, đất nước phải yên ổn. Để đạt được điều này thì phải coi trọng đạo đức của mỗi người trong xã hội đó, từ việc giáo dục trong gia đình đến giáo dục cộng đồng thì đều phải lấy cái “Đức” làm chủ 14 đạo ấy mới là vững bền. Mặc dù việc không thừa nhận tầm quan trọng của luật pháp là điểm thiếu xót của Nho giáo, tuy nhiên về một phần phương diện của pháp luật thì đạo đức là một thứ hết sức cần thiết trong mỗi một cá nhân. Trong nhà nước pháp quyền thì pháp luật là chuẩn mực, là công cụ để điều chỉnh hành vi của các cá nhân trong xã hội, để phòng ngừa dăn đe những hành vi sai trái xâm phạm đến lợi ích hợp pháp được quy định trong luật định, tuy nhiên con người chúng ta không chỉ chịu sự điều chỉnh của pháp luật mà còn bị các yếu tố như đạo đức, tôn giáo, tín ngưỡng, tục lẹ địa phương tác động, điều này luật pháp không thể bao trùm toàn bộ mà được Nhà nước thừa nhận trong khuôn khổ nhất định. Bên cạnh đó với tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử rất coi trọng đạo đức, trách nhiệm của các cá nhân trong các mối quan hệ, thái độ sống mà thiếu luật lệ, coi thường nguyên tắc là điều trái ngược với tư tưởng của Nho giáo vì thế mà những hành vi đó luôn bị lên án bởi các nhà Nho. Ngày nay đất nước ta đang tiến sâu vào con đường hội nhập sâu rộng với thế giới, tốc độ tăng trưởng kinh tế của nước ta theo Viện nghiên cứu Kinh tê và chính sách là 7,02% năm 2019, là một điểm sáng trong khu vực, nhất là trong tình hình dịch bệnh covid là 2,91% [2] đây là một mức tăng trưởng thần kì trong khi tại hầu hết các quốc gia trên thế giới mắc tăng trưởng này đều âm. Đây là một lỗ lực đáng biểu dương của Đảng và Nhà nước ta trong công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước, kinh tế tăng trưởng tốt đi theo đó là cuộc sống của người dân ngày càng được cải thiện, đời sống ngày càng đủ đầy. Nhưng điều đáng báo động ở đây là Đạo Đức lại không xong hành cùng với sự phát triển Kinh tế mà lại thụt lùi đi, hàng loạt các vụ việc làm chấn động dư luật, chỉ cần một từ khóa trên mạng Internet là có thể thấy rất nhiều vụ việc suy đồi về đạo đức, sai phạm của cả cán bộ công chức cũng như người dân. Trong một phiên họp toàn thể lần thứ 11 chuẩn bị nội dung cho kỳ họp thứ 6, Quốc hội khóa XII của Ủy ban Tư pháp của Quốc Hội đưa chỉ ra số liệu của toàn quốc xảy ra 40.088 vụ (giảm 4.03% so với cùng kỳ năm 2017), tính chất vẫn nghiêm trọng, mức độ bạo lực gia tăng; hoạt động của các băng, nhóm tội phạm có sự đan xen mức độ tội phạm ngày càng phức tạp tinh vi. Đáng báo động nhất là tội 15 phạm có xu hướng ngày càng trẻ hóa, số vụ thanh, thiếu niên phạm tội tăng, tình trạng bạo hành, xâm phạm trẻ em nhất là hiếp dâm trẻ em xảy ra trên nhiều địa phương. Vì vậy quan điểm trong đại hội XII của Đảng đã nhận định rõ: “Phải thẳng thắn chỉ ra rằng, đạo đức xã hội và kinh tế chưa song hành, đạo đức xã hội chưa bắt kịp sự phát triển của kinh tế có một phần nguyên nhân là do tinh thần “Xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển”[17] Đây là mặt tiêu cực của nền kinh tế thị trường mà Đảng và Nhà nước ta đã xác định được trong công cuộc phát triển đất nước, và đưa ra các phương án để giải quyết vấn đề gặp phải này. Bên cạnh đó vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân ta như đã tiên đoán trước những khó khăn thách thức, Hồ chủ tịch đã nói Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội phải có con người xã hội chủ nghĩa”. Người cũng nói: “Người có bốn đức: cần, kiệm, liêm, chính. Thiếu một đức thì không thành người”, con người chúng ta xây dựng ở đây là con người chính trị có đạo đức, có lối sống chuẩn mực. Điều này đã cho thấy loại trừ các yếu tố lỗi thời thì việc coi trọng con người có đạo đức, kỷ luật trong tư tưởng của Khổng Tử để áp dụng vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay là phù hợp, tuy nhiên phải là những giá trị và đạo đức mới, phù hợp với hoàn cảnh thời điểm hiện tại, có lợi cho công cuộc phát triển đất nước chứ không phải là những lý lẽ giáo điều cổ hủ lạc hậu. 2. Tư tưởng của Nho giáo có ảnh hưởng và nghĩa lớn trong việc xây dựng một chính quyền của dân do dân và vì dân Tư tưởng trị quốc của Khổng Tử luôn đề cao người dân phải có một cuộc sống vật chất đủ đầy, yếu tố “dưỡng dân” của Khổng Tử luôn là tư tưởng nhà cầm quyền đất nước phải chú ý vào yếu tố đặc biệt này, đây là một phần quan trọng để đất nước thái bình thịnh trị theo tư tưởng Nho giáo. Xong Khổng Tử không chỉ chủ trương là giúp dân giàu có đủ đầy mà người dân phải được nuôi dưỡng, nuôi dưỡng ở đây không phải là nuôi lớn mà là giáo dục người dân. Phải chủ trương dạy học cho dân, miễn ai ham học hỏi, muốn học không kể tầng lớp từ nghèo cho đến giàu từ thiện 16 tới ác, ai cũng có quyền được học. Đây là một điểm vô cùng tích cực, một cái nhìn vượt xa thời đại lúc bấy giờ, mà đến ngày nay bất kì quốc gia nào trên thế giới đều chú trọng quan tâm đến giáo dục. Bác Hồ kính yêu, vị cha già của dân tộc cũng luôn đề cao việc học tập, quan niệm của bác chỉ duy nhất con đường học tập và rèn luyện tu dưỡng đạo đức thì chúng ta mới sách vai với cường quốc năm châu, dân tộc ta mới vững bền, độc lập chủ quyền mới toàn vẹn. Trong di chúc, Bác viết: “cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân”. [12, tr.612]. Tư tưởng và lời dạy của Bác Hồ về chăm lo đời sống vật chất, tinh thần ta thấy chủ trương dưỡng, giáo dân trong đường lối tư tưởng của Khổng Tử là có điểm chung, mang tính thời đại sâu sắc. Tại nghị quyết Trung ương 2 khóa VIII về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000 đã thể hiện rõ quan điểm của Đảng là “lấy việc phát huy nhân tố con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Nhất quán tư tưởng chiến lược phát triển con người trong thời kỳ đổi mới, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã khẳng định: Xã hội ta là xã hội vì con người và coi con người luôn giữ vị trí trung tâm của sự phát triển kinh tế xã hội. Con người trước hết là tiềm năng trí tuệ, tinh thần, đạo đức, là nhân tố quyết định là vốn quý nhất của chúng ta trên con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Quan điểm đó được thực hiện ở chủ trương “phát triển giáo dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững” [5, tr.108-109]. Với tinh thần và những đường lối chủ trương đứng đắn ấy chúng ta phải học tập những điểm sáng, phát huy tích cực vào công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay, tất cả đều vi một mục tiêu cao cả “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” với tinh thần thượng tôn pháp luật. 17 Xây dựng một nhà nước vì dân, lấy người dân làm gốc đã là tư tưởng chủ đạo trong đường lối phát triển dựng xây nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta, người dân là nền móng là chủ của quốc gia : “ Chính phủ ta là một Chính phủ đầy tớ của nhân dân, một lòng, một dạ phục vụ nhân dân” [13, tr.227,228]. 3. Cán bộ, Công chức những người lãnh đạo, điều hành đất nước phải đủ đức đủ tài, phải có đủ phẩm chất năng lực phát triển đất nước. Tinh thần tự tu thân, rèn luyện bản thân của Khổng Tử cũng như việc là một bậc quân tử ta đã bàn luận ở trên, nhưng ở đây việc đủ đức, vẹn tài, tự rèn luyện ý chí bản lĩnh giữ vững lập trường đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước lại càng được bộc lộ rõ, Khổng Tử rất đề cao việc người đứng đầu, lãnh đạo quốc gia phải là một tấm gương sáng để người dân học tập noi theo, nếu vua mà tồi tệ thì ắt hẳn dân sẽ không nghe theo [8, tr.94]. Đặc điểm này có yếu tố tưởng đồng trong tư tưởng lãnh đạo đất nước của Bác Hồ và Đảng ta, tại văn kiện Nâng cao đạo đức cách mạng, quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Bác viết: Nhân dân ta thường nói: đảng viên đi trước, làng nước theo sau. Đó là một lời khen chân thành đối với đảng viên và cán bộ chúng ta… Trong lịch sử đấu tranh của Đảng và trong mọi hoạt động hàng ngày, nhất là trên mặt trận chiến đấu sản xuất, rất nhiều cán bộ, đảng viên ta tỏ ra anh dũn, gương mẫu, gian khổ đi trước, hưởng thụ đi sau và đã làm nên những thành tích rất vẻ vang [13, tr.546]. Đây là phương hướng dẫn đường cho hoạt động lãnh đạo đất nước, việc này luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng nghe theo lời dạy của Bác, cán bộ, công chức nhà nước phải là tấm gương sáng để người dân loi theo, phải chủ động xung phong không ngại khó, ngại khổ đương đầu với thử thách điều này sẽ giúp Đảng ta luôn gắn bó máu thịt mật thiết với nhân dân. Tư tưởng này cũng khá giống với những tư tưởng được Khổng Tử đề cập tới về đạo đức của người trị quốc, một tư tưởng mang tính thời sự đi trước thời đại. Tuy nhiên với công cuộc đổi mới của đất nước một số bộ phận không nhỏ cán bổ đảng viên viên có những suy nghĩ lệch lạc, suy thoái về 18 đạo đức tư tưởng chính trị, đạo đức lỗi sống, có những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vướng vào tham nhũng, lãng phí, tiêu cực [4, tr47.47]. Ngày nay đất nước ta đang xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đây là một con đường vô cùng gian nan vất vả, vô cùng khó khăn, việc có một nguồn nhân lực chất lượng, có đủ đức đủ tài là điều cần thiết. Bởi vậy mà ở yếu tố nhất định, tư tưởng chính của Khổng Tử đã phù hợp với con đường xây dựng những con người đủ đức vẹn tài, đủ phẩm giá để phục vụ người dân phục vụ quốc gia dân tộc. Từ đó loại bỏ những hành vi tiêu cực, nguy hiểm những người không đủ phẩm chất vào làm việc tại những bộ máy công quyền sẽ làm chậm, phá hủy đất nước từ bên trong. 2.3 Những điểm tiêu cực của tư tưởng Khổng tử đối với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay Vì hoàn cảnh lịch sử, cũng như thời đại thì những tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử không thể tránh khỏi những yếu tố tiêu cực, chủ quan và không phù hợp với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, những yếu tố này cần phải loại bỏ, giảm thiểu một cách tốt nhất để công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thật sự vững mạnh. 1. Tâm lý coi thường thiếu tôn trọng pháp luật Trong tư tưởng Nho giáo của Khổng Tử đề cao vai trò đạo đức một các thái quá, khiên việc áp dụng và tôn trọng pháp luật kém hiệu quả gây ra tình trạng coi thường pháp luật. Trong tư tưởng Nho giáo Khổng Tử không những không thừa nhận mà đôi khi còn thể hiện pháp luật là cần thiết ở mức độ nhất định. Tuy nhiên thực tế hiện nay tư tưởng “Đức” trị một cách tuyệt đối hóa là không phù hợp và hoàn toàn có thể gây tổn thương nghiêm trọng đến tình hình chính trị - xã hội ở một quốc gia, nhất là con đường xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay. 19 Với sự phát triển của nền kinh tế thị trường, việc xuống cấp của đạo đức là đáng báo động, không chỉ thể mà là còn nhân danh đạo đức để can thiệp vào pháp luật, sử dụng “đạo đức” giả để trục lợi, điều này đã hạ thấp vai trò của pháp luật. Trong những báo cáo của lực lượng Công an thì tỷ lệ tội phạm phạm tội diễn biến còn rất phức tạp số liệu thống kê 5 năm thực hiện chỉ thị có tới 43.033 vụ phạm tội về trật tự xã hội, 88.259 đối tượng, đạt tỷ lệ 74.49% cao hơn 1,09% so với năm trước đó. Một khảo sát năm 2015 lực lượng Công an đã điều tra, triệt phá 44.000 vụ phạm pháp hình sự, 16.000 vụ phạm tội về kinh tế, hơn 26.000 đối tượng phạm tội về ma túy,… Đây là những con số đáng báo động vì tỷ lệ tội phạm vẫn ở mức cao. Nếu áp dụng một cách mù quáng tính đạo đức mà không thượng tôn pháp luật thì chúng ta sao có thể xây dựng mà nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, một nhà nước của dân, do dân và vì dân, một nhà nước vững mạnh về cả kinh tế, chính trị xã hội. 2. Tư tưởng gia trưởng, không dân chủ, không coi trọng phụ nữ và sức mạnh của thế hệ trẻ Sự phân biệt, đối xử trong xã hội Nho giáo của Khổng Tử việc bề trên mặc quyền sai bảo, những người dưới phải tuyệt nhiên nghe theo, bề tôi phải chịu sự sai nghiên của vua, con cái được cha mẹ sinh ra phải mặc nhiên nghe lời cha mẹ, vợ lấy chồng thì phải theo nhà chồng phải nghe lời chồng không được làm sai lời chồng. Điều này đã gây ảnh hưởng xấu tới suy nghĩ của người dân trong cuộc sống gia đình đặc biệt là đội ngũ cán bộ, công chức trong việc thực thi hoạt động công vụ công chức, khiến họ có suy nghĩ lạm quyền là bề trên, đứng trên người khác, ai cũng phải nghe theo họ. Cán bộ, công chức trở lên hách dịch, nhũng nhiễu người dân gậy hậu quả to lớn mà chúng ta có thể nhìn thấy nhiều năm về trước đó là vấn nạn phong bì, sự quan liêu, tư tưởng chuyên quyền sẽ khiến đất nước thụt lùi, gây cản trở trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta, điều này hoàn toàn phải loại bỏ. Bên cạnh đó tư tưởng Nho giáo còn chưa đề cao yếu tố vai trò của người phụ nữ cũng như lớp trẻ trong công cuộc dựng xây, phát triển và bảo vệ tổ quốc. Nữ giới có 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan