Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tư tưởng chính trị xã hội thời trần (1225 1400)...

Tài liệu Tư tưởng chính trị xã hội thời trần (1225 1400)

.PDF
43
27
107

Mô tả:

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ====================== NGUYỄN THỊ THU HUYỀN TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN (1225-1400) LUẬN VĂN THẠC SĨ Chuyên ngành: Triết học Hà Nội - 2016 ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN ====================== NGUYỄN THỊ THU HUYỀN TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN (1225-1400) Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết học Mã số : 60220301 Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thanh Bình Hà Nội - 2016 MỤC LỤC MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1 PHẦN NỘI DUNG .............................................................................................. 7 Chƣơng 1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN .............................................................................................. 7 1.1. Bối cảnh xã hội hình thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần .................... 7 1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XIII - XIV ..... 7 1.1.2. Nhu cầu và nhiệm vụ thực tiễn đặt ra của quốc gia Đại Việt thời Trần ..24 1.2. Tiền đề lý luận hình thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ................... 27 Tiểu kết chương 1............................................................................................ 40 Chƣơng 2. MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN ............................................................................ 41 2.1. Những quan điểm cơ bản về thể chế chính trị và tổ chức xã hội trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần .................................................................... 41 2.1.1. Quan điểm về cơ cấu xã hội và mối quan hệ giữa các tầng lớp...............41 2.1.2. Quan điểm về quyền lực chính trị và thể chế chính trị trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần......................................................................................50 2.1.3. Quan điểm về tổ chức và quản lý xã hội trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ...................................................................................................................55 2.2. Những quan điểm cơ bản về đối nội và đối ngoại trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ............................................................................................. 69 2.2.1. Chủ nghĩa yêu nước, ý thức tự chủ, tinh thần đoàn kết dân tộc trong hoạt động đối nội của nhà Trần......................................................................................69 2.2.2. Quan điểm về cách thức tổ chức quân sự của nhà nước phong kiến thời Trần .................................................................................... 73 2.2.3. Tư tưởng chính trị - xã hội thể hiện trong chính sách và đường lối ngoại giao của chính quyền phong kiến thời Trần..........................................................81 2.3. Những giá trị chủ yếu của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần ................... 85 Tiểu kết chƣơng 2 .......................................................................................... 94 KẾT LUẬN ........................................................................................................ 95 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 97 1 MỞ ĐẦU 1. Lý do chọn đề tài Chính trị là một phạm trù triết học và chính trị học dùng để chỉ công việc cai trị, quản lý xã hội nhằm duy trì sự tồn tại xã hội trong vòng trật tự và phát triển thông qua hoạt động của nhà nước và pháp luật. Chính trị mà biểu hiện đặc biệt của nó là quyền lực nhà nước trực tiếp can thiệp và chi phối các lĩnh vực khác nhau trong đời sống xã hội. Do đó, trong xã hội có giai cấp, tư tưởng chính trị mà cấp độ cao là hệ tư tưởng chính trị là nền tảng, là căn cứ lý luận, là nguyên tắc chủ đạo để giai cấp thống trị xây dựng hệ thống quyền lực nhà nước của mình vì lợi ích giai cấp thống trị và lợi ích dân tộc. Ở nước ta, đồng thời với phát triển kinh tế, xây dựng văn hóa, phát triển khoa học công nghệ thì ổn định chính trị là điều kiện tiên quyết để tiến hành các hoạt động khác trong xã hội. Sau 30 năm đổi mới đất nước, trong bối cảnh hội nhập với nền kinh tế khu vực và trên thế giới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Bên cạnh những cơ hội phát triển mà quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế đem lại thì quá trình này cũng dẫn đến những tranh chấp quyền lực, những bất ổn về kinh tế chính trị, xã hội ở một số quốc gia trên thế giới, đặc biệt là những quốc gia đang phát triển. Điển hình là các hoạt động tranh chấp, xung đột cục bộ, hoạt động khủng bố quốc tế đang gây mất ổn định chính trị ở khu vực và nhiều nơi trên thế giới như khủng bố ở Mỹ và các nước phương Tây, khủng hoảng chính trị ở nhiều nước trên thế giới, tranh chấp quyền lợi kinh tế và chính trị giữa các nước khu vực biển Đông… Do đó, để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thành công, Đảng ta luôn khẳng định, nhiệm vụ phát triển kinh tế là trọng tâm, còn nhiệm vụ ổn định chính trị là then chốt. Để giữ vững sự ổn định chính trị - xã hội của một quốc gia luôn bị đe dọa bởi sự xâm lăng và nguy cơ đồng hóa như đất nước ta trong 1 lịch sử, trong suốt tiến trình dựng nước và giữ nước, dân tộc ta đã biết dựa vào sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc để thực hiện chủ quyền độc lập, tự do của mình. Một trong những yếu tố tạo nên sức mạnh tổng hợp, hình thành nên nội lực mạnh mẽ của toàn thể dân tộc ta đó chính là bản sắc văn hóa truyền thống, những giá trị tinh thần dân tộc. Nội lực đó đã và đang phát huy sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước hiện nay. Vì vậy, tìm hiểu và nghiên cứu những giá trị văn hóa tinh thần của dân tộc ta, trên cơ sở đó phát huy sức mạnh của những giá trị đó trong việc xây dựng hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa của nước ta hiện nay là việc làm có ý nghĩa lý luận lâu dài và cấp bách. Trong tiến trình lịch sử Việt Nam, thời Trần được xem là mốc son chói lọi trong sự nghiệp xây dựng và phát triển diện mạo văn hóa, tư tưởng của một quốc gia phong kiến độc lập, đánh dấu bước ngoặt căn bản trong tư duy, nhận thức của dân tộc ta về lòng yêu nước và tinh thần độc lập, tự cường. Đồng thời, đây cũng là giai đoạn phát triển rực rỡ không chỉ trong lĩnh vực kinh tế, văn hóa mà cả trong lĩnh vực chính trị, biểu hiện rõ nét trong công cuộc xây dựng một quốc gia thống nhất, độc lập, có chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, trong phát triển mọi mặt về kinh tế và văn hóa; trong tổ chức và quản lý xã hội quy củ và thống nhất từ trung ương đến địa phương; trong việc thống nhất tư tưởng, đoàn kết lòng dân, tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc để chiến thắng giặc ngoại xâm… Những thành tựu ấy là minh chứng hùng hồn cho những giá trị lý luận và tư tưởng được nhà Trần vận dụng trong tổ chức và quản lý xã hội, nhất là tư tưởng chính trị. Những vấn đề chính trị - xã hội như: tổ chức bộ máy nhà nước, xây dựng hệ thống pháp luật, quản lí và vận dụng sức mạnh của các tầng lớp trong xã hội, khoan thư sức dân, phát huy sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, tổ chức quân sự và các chính sách ngoại giao trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc 2 được thể hiện trong tư tưởng chính trị thời Trần đến nay vẫn có ý nghĩa và giá trị nhất định trong đời sống chính trị đương đại. Để hoàn thiện và phát huy hiệu quả vai trò của chính trị và hệ thống chính trị trong quá trình phát triển đất nước hiện nay, việc tiếp thu, kế thừa tư tưởng chính trị của cha ông ta trong lịch sử, đặc biệt là tư tưởng chính trị thời Trần là hết sức cần thiết và bổ ích. Do vậy, luận văn chọn vấn đề “Tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam thời Trần (1225 - 1400)” làm đề tài nghiên cứu của mình với mong muốn làm sáng tỏ những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự hình thành và phát triển của tư tưởng chính trị thời Trần, những nội dung chủ yếu của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần, từ đó nêu lên những giá trị cơ bản trong tư tưởng chính trị thời Trần. 2. Tổng quan tình hình nghiên cứu Từ trước tới nay, tìm hiểu tư tưởng chính trị thời Trần, đã có nhiều công trình nghiên cứu, những bài viết dưới các phương diện, hình thức và mức độ khác nhau. Liên quan đến đề tài luận văn có thể khái quát một số công trình nghiên cứu tiêu biểu theo các hướng nghiên cứu sau: Hướng thứ nhất: đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng chính trị thời Trần dưới góc độ lịch sử - xã hội, trước hết là những bộ sách sử lớn hoặc viết về lịch sử Việt Nam thời Trần có giá trị về Khoa học lịch sử như: - Việt Sử lược của Trần Quốc Vượng (Nxb.Văn Sử Địa, Hà Nội, 1960) - Tìm hiểu xã hội Việt Nam thời Lý - Trần của Viện Sử học (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1981) - Đại Việt sử ký toàn thư, tập 1 và tập 2 (NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998) - Tìm hiểu về kết cấu xã hội thời Trần của Trương Thị Yến (Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2000) 3 - Nước Đại Việt thời Lý – Trần của Nguyễn Khắc Thuần (Nxb. Thanh niên Thành phố Hồ Chí Minh, 2002) - Đại cương lịch sử Việt Nam do Trương Hữu Quýnh, Đinh Xuân Lâm, Lê Mậu Hãn chủ biên (Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2009) Qua nghiên cứu những công trình khoa học nêu trên cho thấy, các tác giả đã trình bày và phân tích khá sâu sắc những sự kiện lịch sử xuyên suốt thời đại nhà Trần, trong đó làm nổi bật những vấn đề kinh tế, chính trị và văn hóa xã hội Đại Việt từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỉ XIV. Tiêu biểu là công trình Đại Việt sử ký toàn thư tập 1 và tập 2 được biên soạn qua nhiều đời, gắn liền với tên tuổi của những nhà sử học lớn như Lê Văn Hưu thế kỷ XIII, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên thế kỷ XV… Đó là nguồn tư liệu nguyên bản, đáng tin cậy nhất mà tác giả luận văn sử dụng để trích dẫn cho những nội dung nghiên cứu, những nhận định đánh giá trong luận văn của mình. Hướng thứ hai: đó là các công trình nghiên cứu tư tưởng chính trị thời Trần dưới các góc độ văn hóa, tôn giáo như: - Thơ văn Lý - Trần do Viện Văn học biên soạn (Nxb. Khoa học xã hội, tập 1 xuất bản năm 1977, tập 2 xuất bản năm 1989 và tập 3 xuất bản năm 1978) - Lịch sử các định chế chính trị và pháp quyền Việt Nam, (tập1), của Phan Đăng Thanh, Trương Thị Hoa (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995) - Tổng tập văn học Phật giáo Việt Nam, (tập 1), của Lê Mạt Thát (Nxb. Văn hóa, Huế, 1999) - Một số nội dung cơ bản của tư tưởng Nho giáo Việt Nam thời Trần (Luận án tiến sĩ triết học của Vũ Văn Vinh, Viện Triết học, Hà Nội, năm 1999) Hướng thứ ba: đó là các công trình nghiên cứu về tư tưởng chính trị thời Trần dưới góc độ tư tưởng triết học. - Lịch sử tư tưởng Việt Nam, (tập 1), do Nguyễn Tài Thư chủ biên, Nbx. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993. 4 - Lịch sử tư tưởng Việt Nam của Nguyễn Đăng Thục (Nxb. Thành phố Hồ Chí Minh, năm 1998) - Tư tưởng triết học của Thiền phái Trúc Lâm đời Trần của Trương Văn Chung (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1998) - Đại cương lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam, (tập 1), do Nguyễn Hùng Hậu chủ biên (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002) - Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam do Nguyễn Trọng Chuẩn chủ biên (Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2006) - Tư tưởng Việt Nam thời Lý – Trần do Doãn Chính và Trương Văn Chung chủ biên (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008) - Lịch sử tư tưởng chính trị - xã hội Việt Nam từ Bắc thuộc đến thời kỳ Lý - Trần của Lê Văn Quán (Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 2008)… Kết quả của những công trình nghiên cứu kể trên là tài liệu khoa học bổ ích cho tác giả trong việc nghiên cứu, kế thừa, phát triển những nội dung cần trình bày trong luận văn của mình. Tuy nhiên, trong các công trình kể trên, các tác giả chủ yếu tập trung phân tích khái quát các khía cạnh lịch sử, văn hóa, tôn giáo, triết lý, tư tưởng của các nhà tư tưởng qua các triều đại theo tiến trình lịch sử. Tiếp thu thành quả của các công trình trên, tác giả luận văn cố gắng đi sâu vào nghiên cứu, trình bày những điều kiện, tiền đề dẫn đến sự hình thành tư tưởng chính trị thời Trần cùng những nội dung tư tưởng chính trị thời Trần một cách có hệ thống. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận văn * Mục đích của luận văn: Mục đích của luận văn là tập trung phân tích, làm rõ những nội dung cơ bản của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần và từ đó, chỉ ra những giá trị chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần. * Nhiệm vụ của luận văn: Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ sau: 5 - Thứ nhất: Phân tích bối cảnh xã hội và những tiền đề lý luận hình thành tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần. - Thứ hai: Phân tích một số nội dung cơ bản trong tư tưởng chính trị xã hội thời Trần. - Thứ ba: Chỉ ra những giá trị chủ yếu trong tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để đạt được mục đích và nhiệm vụ trên, tác giả luận văn dựa trên cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời, tác giả còn sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên cứu cự thể như: phương pháp nghiên cứu lịch sử triết học, phương pháp hệ thống cấu trúc, phương pháp phân tích và tổng hợp, lôgic và lịch sử, diễn dịch và quy nạp, đối chiếu và so sánh… để nghiên cứu và trình bày luận văn. 5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu của luận văn Đối tượng nghiên cứu của luận văn là: Hệ thống tư tưởng chính trị xã hội ` thời Trần. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là: Những nội dung và giá trị cơ bản của tư tưởng chính trị - xã hội thời Trần được thể hiện tập trung thông qua đường lối, chính sách chính trị - xã hội của nhà Trần và sử liệu thời Trần là tác phẩm Đại Việt Sử Ký Toàn Thư (2 tập, 1998), Nxb. Khoa học xã hội Việt Nam. 6. Kết cấu của luận văn Với mục đích và nhiệm vụ trên, ngoài các phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, phần Nội dung của luận văn được kết cấu thành 2 chương, 5 tiết. 6 PHẦN NỘI DUNG Chƣơng 1 CƠ SỞ HÌNH THÀNH TƢ TƢỞNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI THỜI TRẦN 1.1. Bối cảnh xã hội hình thành tƣ tƣởng chính trị - xã hội thời Trần 1.1.1. Bối cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị - xã hội Việt Nam thế kỷ XIII - XIV Về kinh tế và các hoạt động kinh tế thời Trần. Dựa trên các tài liệu lịch sử, các nhà sử học đều thống nhất rằng, “cơ sở kinh tế của xã hội thời Lý – Trần (từ thế kỷ X đến thế kỷ XIII) về cơ bản là chế độ sở hữu nhà nước về đất đai thông qua công xã nông thôn” [8, tr.14]. Dưới thời Trần, kinh tế nông nghiệp nông thôn giữ vai trò chủ đạo, nổi bật là sự phát triển mạnh mẽ của chế độ tư hữu về ruộng đất, dẫn đến sự xuất hiện tầng lớp địa chủ, quí tộc nhà Trần. Do yêu cầu tăng cường sức mạnh của quốc gia và ổn định xã hội, đời sống mà hàng năm, nhân dân và nhà nước thời kỳ này đều chăm lo phát triển nông nghiệp. Bên cạnh đó, sự phát triển của nông nghiệp cũng làm cho các hoạt động mua bán, trao đổi hàng hóa ngày càng phát triển, tiền tệ giữ vai trò quan trọng trong xã hội và việc mua bán ruộng đất cũng dần được phổ biến hơn trong xã hội. Tất cả điều đó đã làm cho chế độ ruộng đất nói chung và chế độ sở hữu nhà nước, sở hữu tư nhân về ruộng đất nói riêng dưới thời Trần rất phát triển. Đồng thời, sự phát triển của nền kinh tế cũng làm bộc lộ mầm mống của những mâu thuẫn mới trong quan hệ giai cấp dưới chế độ phong kiến nhà Trần trên bình diện xã hội. Về chế độ ruộng đất dưới thời Trần, hình thức sở hữu ruộng đất gồm có ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước và ruộng đất thuộc sở hữu tư nhân. Về hình thức ruộng đất thuộc sở hữu nhà nước được cấu thành bởi hai bộ phận: Ruộng đất do nhà nước trực tiếp quản lý và ruộng đất công làng xã (ruộng 7 đất công do làng xã trực tiếp quản lý). Chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất thực chất là quyền sở hữu tối cao về ruộng đất của nhà vua - người đứng đầu nhà nước chuyên chế. Loại ruộng đất này tồn tại như tài sản của bản thân nhà vua và hoàng cung. Quyền sở hữu được biểu hiện ở quyền được hưởng những hoa lợi do bóc lột, quyền thu địa tô do thần dân cống nạp cho riêng hoàng đế. Bộ phận này bao gồm sơn lăng, tịch điền và quốc khố, chiếm diện tích không lớn, nhưng cũng là nguồn thu nhập đáng kể cho triều đình. Tuy ruộng đất công về danh nghĩa là của vua, nhưng thực chất là công điền, công thổ của làng xã, do công xã quản lý và phân phối cho các thành viên công xã cày cấy; nông dân nộp lại tô thuế, nô dịch cho nhà nước. Ruộng công làng xã dưới thời Trần đã thực sự trở thành một cơ sở kinh tế của nhà nước. Như vậy, quyền sở hữu nhà nước được thiết lập trên các công xã nông thôn, nghĩa là vua nắm quyền sở hữu tối cao về ruộng đất, còn các công xã được nắm quyền chiếm dụng và phân phối lại ruộng đất cho các thành viên công xã. Đây là mối quan hệ sở hữu kép mang đậm màu sắc của chế độ phong kiến phương Đông. Tuy nhiên, sự chi phối của nhà nước và ý thức bộ phận ruộng đất công này còn chưa chặt chẽ, biểu hiện ra là các làng xã được phân công ruộng đất công không bằng nhau và không phải nhân đinh nào cũng được chia đều ruộng đất như nhau, “nhân đinh có ruộng đất thì nộp tiền thóc, người không có ruộng đất thì miễn cả” [60, tr. 19]. Quan hệ sở hữu kép này cộng hưởng với chính sách ban cấp ruộng đất cho công thần của các vua Trần đã góp phần làm lộ diện mạnh mẽ hình thức sở hữu tư nhân về ruộng đất dưới thời Trần… Trên bước đường xây dựng một nhà nước ngày càng hoàn chỉnh, đến thời nhà Trần, nhà nước định lệ cấp bổng cho các quan văn võ trong ngoài, sử dụng ruộng đất công làng xã vào việc phong cấp cho quan lại, họ hàng, cận thần và công thần của mình. Chính sách ban cấp ruộng đất và bổng lộc 8 của nhà Trần được thể hiện tiêu biểu nhất là thái ấp. Việc ban cấp thái ấp chính là chính sách kinh tế quan trọng nhằm tạo ra cơ sở xã hội cho chính quyền nhà Trần. Sử thần Ngô Sỹ Liên chép: “theo qui chế nhà Trần, các vương hầu đều ở phủ đệ. Như Quốc Tuấn ở Vạn Kiếp, Thủ Độ ở Quắc Hương, Quốc Chẩn ở Chí Linh đều thế cả” [60, tr. 32]. Vua Trần Thái Tông khi đỡ tội làm phản cho Trần Liễu, đã “lấy đất Yên Phụ, Yên Dưỡng, Yên Sinh, Yên Hưng, Yên Bang cho Liễu làm ấp thang mộc” [60, tr. 16]. Thái ấp là tài sản riêng, thuộc sở hữu tư nhân của quí tộc, do đó sự tồn tại của nó gắn chặt với triều đình, với dòng họ nhà Trần. Mặt khác, do nhu cầu mở rộng diện tích canh tác và thực hiện chủ trương xây dựng, củng cố thế lực của quí tộc nhà Trần, nhà nước chủ trương khai hoang, lập đồn điền ở nơi đất hoang nhiều, dân cư thưa thớt. Chẳng hạn như vào tháng 10 năm 1266, nhà vua “xuống chiếu cho các vương hầu, công chúa, phò mã, cung tần chiêu tập những người xiêu tán không có sản nghiệp làm nô tỳ để khai khẩn ruộng hoang lập làm điền trang. Vương hầu có trang thực bắt đầu từ đấy” [11, tr. 291]. Như vậy, người lao động chủ yếu trong các điền trang, thái ấp là các nông nô, nô tỳ. Họ có thân phận khác nhau, có người là nô tỳ, có người là nông dân bị lệ thuộc, hoặc là những người nô tỳ sau khi khai khẩn đất hoang thành ruộng thì cho lấy nhau mà ở ngay đấy. Việc thực hiện định lệ lập điền trang đã đẩy mạnh sự phát triển sở hữu lớn của quí tộc nhà Trần, làm phát triển mạnh mẽ việc chiếm hữu tư nhân về ruộng đất, tạo thêm một bước chuyển biến và mở rộng cho hình thái kinh tế phong kiến. Điền trang và thái ấp là hai bộ phận quan trọng có ý nghĩa quyết định tính chất, loại hình sở hữu ruộng đất phong kiến quí tộc thời bấy giờ. Cùng với đó, việc nhà Trần cho bán công điền thành tư điền thì chế độ sở hữu về ruộng đất đã có thêm điều kiện để phát triển mạnh mẽ, rộng khắp và trở thành một nhân tố kinh tế mới. Từ năm 1254, nhà Trần bắt đầu thực 9 hiện chính sách tư nhân hóa ruộng đất, bắt đầu bằng việc vào tháng 6 năm 1254, triều đình ra lệnh “bán ruộng công, mỗi một diện là 5 quan tiền (bấy giờ gọi mẫu là diện), cho phép nhân dân mua làm của tư” [11, tr. 281]. Tiền tệ cũng đã xâm nhập mạnh mẽ vào ruộng đất. Ruộng đất trở thành hàng hóa có thể mua bán trao đổi, do vậy mà chế độ sở hữu tư nhân được mở rộng và phát triển mạnh. Đến khi việc mua bán ruộng đất thường xuyên hơn, triều đình phải đưa ra qui định về thể thức làm văn tự bán hay đợ ruộng đất, như xuống chiếu “những người mua dân lương thiện làm nô tỳ thì cho chuộc lại, ruộng đất và nhà ở không theo luật này” [60, tr. 68]; “phát thóc công chẩn cấp dân nghèo và miễn thuế dân đinh” [60, tr. 67]. Như vậy đến thời Trần, ruộng đất đã thực sự biến thành hàng hóa, kích thích tầng lớp quí tộc xúc tiến mạnh mẽ việc khai khẩn đất hoang lập điền trang, mua bán ruộng đất, kinh doanh làm giàu. Do đó, diện tích đất của nông dân ngày càng bị thu hẹp. Hệ quả của nó là sự phân hóa sâu sắc trong xã hội, sự bóc lột của giai cấp phong kiến thống trị tất yếu làm bùng nổ những cuộc khởi nghĩa của nông nô, nô tỳ, tạo ra những trở lực trên bình diện chung của nền kinh tế xã hội thời Trần. Bên cạnh sự phát triển mạnh mẽ của nông nghiệp với đặc trưng là chế độ sở hữu về ruộng đất, trong thời Trần, triều đình cũng chú trọng xây dựng các công trình thủy lợi, trị thủy, xây dựng hệ thống đê điều dọc sông Hồng và các sông vùng đồng bằng Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ. Như vào tháng 2 năm 1255, vua Trần Thái Tông đã “sai Lưu Miễn bồi đắp đê sông các xứ ở Thanh Hóa” [11, tr. 282], đồng thời cho nạo vét kênh ngòi tạo điều kiện thuận lợi để sản xuất, bảo vệ mùa màng, khắc phục thiên tai, phát triển nông nghiệp. Sách Đại Việt sử ký toàn thư còn chép rằng: “Mùa xuân, tháng giêng năm 1231, sai Nội minh tự Nguyễn Bang Cốc (hoạn quan) chỉ huy binh lính phủ mình đào vét kênh Trầm và kênh Hào từ phủ Thanh Hóa 10 đến địa giới phía nam Diễn Châu” [60, tr. 13], vào tháng 3 năm 1248, vua Trần Thái Tông “sai các lộ đắp đê giữ nước sông, gọi là đê đỉnh nhĩ (quai vạc), đắp suốt từ đầu nguồn cho đến bờ biển để giữ nước lụt tràn ngập. Đặt chức Hà đê chính phó sứ để trông coi. Chỗ đắp thì đo xem đắp vào mất bao nhiêu ruộng đất của dân, theo giá trả lại tiền. Đắp đê đỉnh nhĩ (hình giống cái quai vạc quai xanh) bắt đầu từ đấy” [11, tr. 278], tháng 2 năm 1284, vua Trần Nhân Tông cho “vét sông Tô Lịch” [11, tr. 302] nhằm đảm bảo giao thông và tưới tiêu cho các vùng xung quanh kinh thành. Hoặc như vào tháng 6 năm 1248, vua Trần Thái Tông “Sai những nhà phong thủy đi xem khắp các núi sông trong nước, chỗ nào có vượng khí thì dùng phép thuật để trấn áp, như là đào sông Bà Mã (tức sông Mã ở tỉnh Thanh Hóa), sông Lễ (sông Chu ở Thanh Hóa), đục núi Chiếu Bạc (thuộc huyện Hà Trung, Thanh Hóa ngày nay) ở Thanh Hóa,v.v... còn lấp các khe kênh mở đường ngang dọc thì nhiều không kể xiết. Đó là theo lời của Trần Thủ Độ” [11, tr. 278]. Như vậy, bên cạnh việc xây dựng và củng cố chính quyền, nhà Trần có biện pháp nhanh chóng phục hồi sản xuất nông nghiệp, mở rộng thêm diện tích canh tác thì một biện pháp khuyến khích nông nghiệp, phát triển kinh tế được nhà Trần hết sức chú trọng đó là tổ chức làm thủy lợi trên phạm vi cả nước. Với mạng lưới sông ngòi dày đặc, các trung tâm kinh tế văn hóa, chính trị Đại Việt đều phát triển quanh các con sông mà nhà Trần ý thức được rằng, muốn bảo vệ mùa màng, nhà cửa, tính mạng nhân dân một cách ổn định, lâu dài phải có quy hoạch đắp đê theo quy mô cả dòng sông. Để thực hiện công cuộc đó, nhà nước tổ chức đắp đê trên các triền sông và thiết lập cơ quan chuyên trách để chỉ đạo việc quản lý đê điều, như cơ quan Hà đê, có chánh sứ, phó sứ phụ trách. Việc trị thủy hiệu quả và tiến bộ của nhà Trần so với các triều đại khác đã có tác dụng hết sức quan trọng trong việc phục hồi nền kinh tế đình trệ của Đại Việt cuối thời Lý và thúc đẩy sự phát triển của sản xuất nông nghiệp, thương nghiệp về sau. 11 Kinh tế nông nghiệp phát triển đã tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế công, thương nghiệp, thủ công nghiệp của nhà nước. Các quan xưởng thủ công nhà nước chế tạo ra nhiều binh khí, đồ trang sức, đúc tiền, chuông, xây dựng đền, đài, cung điện. Thủ công nghiệp nhân dân cũng là bộ phận quan trọng và phổ biến trong thời Trần, nó góp phần làm nên đặc trưng của nền kinh tế tiểu nông thời bấy giờ. Loại hình thủ công nghiệp nhân dân này phát triển mạnh mẽ các nghề thủ công như dệt lụa, làm gốm, mỹ nghệ, v. v… Về thương nghiệp, qua nghiên cứu bộ Đại Việt sử ký toàn thư và tư liệu lịch sử cho thấy, sự phát triển của kinh tế nông nghiệp và thủ công nghiệp tất yếu kéo theo hoạt động mua bán rất sầm uất, chợ lớn nhỏ mọc ở nhiều nơi, tiền tệ đóng vai trò rất quan trọng trong xã hội. Để thuận tiện cho việc trao đổi mua bán hàng hóa trong xã hội, nhà Trần “xuống chiếu cho dân gian dùng tiền “tỉnh bách” mỗi tiền là 69 đồng. Tiền nộp cho nhà nước (tiền “thượng cung” thì mỗi tiền là 70 đồng” [60, tr. 9]. Những qui định như vậy cho thấy chức năng thanh toán của tiền tệ thời Trần đã phát triển rộng lớn. Quan hệ tiền tệ cũng xâm nhập vào đời sống chính trị bằng việc nhà nước nhiều lần xuống chiếu quy định việc thu thuế, thưởng phạt bằng tiền. Trước sự phát triển mạnh mẽ của thủ công nghiệp và thương nghiệp thời bấy giờ, nhà nước đã đặt ra các chính sách thu thuế theo sản phẩm, đặt ty phụ trách kho lúa để thu mua thóc lúa của nhân dân, nghiêm trị những người thu thêm thuế lụa, trả công thợ bằng tiền, thống nhất các đơn vị đo lường, cho đào vét sông ngòi, đắp đường, làm cầu cống, xây dựng hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy để dễ dàng giao lưu, buôn bán. Nhà Trần cũng rất chú trọng xây dựng mạng lưới thương nghiệp và thành thị, xây dựng hệ thống giao thông đường bộ và đường thủy, đồng thời với việc phát triển các phủ lộ ở đồng bằng sông Hồng, như phố Luy Lâu bên bờ sông Dâu (Bắc Ninh), phố Lố bên bờ sông Nghĩa Trụ (Hưng Yên). Đặc biệt 12 với vị trí trung tâm rất thuận lợi cho giao lưu buôn bán, Thăng Long đã phát triển rất sầm uất. Tận dụng những cơ sở có từ thời Lý, nhà Trần đã tu bổ thêm và phát triển đô thành Thăng Long trở thành một trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa lớn nhất của Đại Việt thời bấy giờ. Sự phát triển của Thăng Long đã có những ảnh hưởng, tác động đến các vùng ven, tạo sợi dây liên kết về kinh tế, văn hóa giữa các vùng trong cả nước. Bên cạnh đó, tận dụng mạng lưới sông ngòi dày đặc, đường bờ biển dài là mạch nối giữa Đại Việt với các nước xung quanh và truyền thống giao thông vận tải bằng thuyền trên sông nước của người Việt mà nhà Trần còn chú ý đến việc phát triển các tuyến giao thông đường biển và các cảng biển như cảng Vân Đồn (Quảng Ninh), các cảng biển ở Nghệ Tĩnh, Thanh Hóa. Tất cả đã tạo những điều kiện thuận lợi, ổn định để phát triển thương nghiệp và những ngành nghề thủ công truyền thống thời bấy giờ. Tóm lại, việc duy trì sự tồn tại song song hình thức công hữu (công điền) và tư hữu (tư điền) đã giúp nhà Trần tập trung được toàn bộ của cải và nhân lực, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thực hiện di dân, lập làng, làm chức năng trị thủy, thủy lợi, phát triển công thương nghiệp, mở rộng giao lưu buôn bán, trao đổi, làm cho nền kinh tế Đại Việt thực sự phát triển. Những vấn đề kinh tế nổi bật đó cần ở giai cấp thống trị thời Trần một hệ thống tư tưởng chính trị làm cơ sở để đề ra những chính sách kinh tế, những quy định pháp luật hỗ trợ cho những chính sách kinh tế đó, và hơn hết là những quan điểm chính trị thân dân, phát huy được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc, từ đó khai thác được toàn bộ sức người sức của trong dân chúng phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, chống lại địch thù trong ngoài. Bên cạnh đó, mặc dù công thương nghiệp thời kỳ này còn phát triển theo quy luật, trong khuôn khổ của nền kinh tế tự cấp, tự túc, trong sự ràng buộc của địa tô phong kiến, chưa là động lực kinh tế tạo nên những mâu 13 thuẫn đối lập dẫn đến những nguy cơ có thể làm tan rã của chế độ phong kiến, nhưng sự phát triển trên tất cả mọi lĩnh vực ấy đã bộc lộ thành những mâu thuẫn cơ bản trong xã hội, đặc biệt là mâu thuẫn giữa hình thức công hữu với sự chiếm dụng tư nhân về ruộng đất, mâu thuẫn trong chính sách thu thuế, cấp chẩn cho dân chúng… Một khi xã hội đã bộc lộ nhiều mâu thuẫn, nó sẽ đòi hỏi sự giải quyết thỏa đáng được lí luận hóa bằng một hệ tư tưởng chính trị nhằm đáp ứng nhu cầu giữ vững độc lập, tự chủ, phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội của Đại Việt thời bấy giờ. Trên bình diện xã hội nói chung và lĩnh vực hoạt động chính trị - xã hội nói riêng. Đại Việt bắt đầu từ thế kỷ XIII đã chứng kiến những tiến bộ to lớn về mặt xã hội, đó là sự kiện nhà Trần thay thế nhà Lý vào tháng 12 năm 1225. Sau một thời kỳ dài huy hoàng với nhiều thành tựu nổi bật trên mọi phương diện, nhà Lý từ đời vua Anh Tông (1138 - 1175) trở đi, nền chính trị đã dần suy yếu, sút kém. Sách Đại Việt sử ký toàn thư đã nhận xét vua Lý Anh Tông rằng: “Trong việc bỏ con nọ lập con kia, vua không mê hoặc lời nói của đàn bà, ký thác được người phụ chính hiền tài, có thể gọi là không thẹn với việc gánh vác. Song không phân biệt được kẻ gian tà, không sáng suốt trong việc hình phạt, cho nên trời xuống tai biến để răn, giặc cướp nổi lên, giềng mối rối loạn, không thể nói xiết” [11, tr. 232]. Các vua lên ngôi đều nhỏ tuổi, chết yểu, ham thích tiền của, như vua Lý Cao Tông “xây dựng không ngớt, ngao du không chừng mực, hàng ngày cùng cung nữ dạo chơi làm vui, nghe ngoài thành có trộm cướp giả cách không biết” [11, tr. 254], quyền hành triều chính dần dần nằm trong tay bọn quan lại, mọt nước, hại dân. Trong khi “Người Tống sang cướp biên giới, dân ta khó nhọc đối phó, giặc cướp dần nổi”, thì “Vua thì thích làm tiền, các quan phần nhiều bán quan chức buôn hình ngục” [11, tr. 254]. Cùng với sự khủng hoảng trầm trọng của đất nước và sự suy yếu của chính quyền trung 14 ương, là sự đói khổ, lầm than của đông đảo quần chúng nhân dân, những người đang cam chịu sự bóc lột nặng nề nhằm phục vụ cho sự ăn chơi xa xỉ của giai cấp thống trị; cam chịu nạn mất mùa, thiên tai liên tiếp xảy ra, năm 1156 “năm ấy đói to, một thăng gạo giá 70 đồng tiền” [11, tr. 243], năm 1208, dưới thời vua Lý Cao Tông trị vì (1176 – 1210) xảy ra hiện tượng “Đói to, xác người chết đói nằm gối lên nhau” [11, tr. 255]. Bên cạnh đó, các thế lực phong kiến nổi lên chống lại triều đình, chém giết lẫn nhau hòng chia sẻ quyền lực, đất đai, chẳng hạn như vào tháng 2 năm 1212, lợi dụng việc nhà vua Lý Huệ Tông sai đi chiêu mộ dân Châu Hồng để bắt giặc cướp, Đoàn Thượng ( cùng vú nuôi với nhà vua) và là một hào trưởng lớn, trấn giữ đất Hồng Châu (vùng Hải Dương – Hải Phòng) và nhân “thế nước suy nhược, triều đình không có chính sách hay, mất mùa đói kém luôn, nhân dân cùng khổ” đã tự tiện làm oai làm phúc,… nhóm họp bè đảng, đắp thành xưng vương, cướp bóc lương dân, triều đình không thể ngăn được” [11, tr. 257-258]… Ngoài ra, ở vùng biên giới, giặc Nguyên Mông hùng mạnh đang ngang dọc đánh chiếm các nước lân bang và sửa soạn đại binh để đánh chiếm Đại Việt. Trước tình hình đó, vua Lý bất lực đã phải dựa vào các thế lực khác nhau cuối cùng là dựa vào nhà Trần, dần dần mọi quyền hành của vương triều Lý đều do anh em, chú cháu người họ Trần nắm giữ. Trong cảnh loạn ly của đất nước, thế lực nhà Trần đã dần chinh phục được các lực lượng cát cứ nổi loạn, thâu tóm được mọi quyền hành trong triều đình, thế lực nhà Lý mất dần. Do vua Lý Huệ Tông không có con trai nối dõi tông đường, nên xuống chiếu nhường ngôi cho con gái là Lý Chiêu Hoàng. Bằng mưu lược của mình, Trần Thủ Độ, bấy giờ là em họ hoàng hậu vua Lý, đang giữ chức Điện tiền chỉ huy sứ, chuyên lo sắp đặt mọi việc trong triều đình, đã chuyển triều chính từ nhà Lý sang nhà Trần một cách êm thấm. Lý Chiêu Hoàng 15 nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh, triều Trần chính thức được thiết lập (11/12/1225). Nhà Trần ra đời đã chấm dứt tình trạng hỗn loạn xảy ra từ khi nhà Lý suy yếu, khôi phục và củng cố chính quyền trung ương tập quyền. Đất nước Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vương triều Trần, trên nền tảng xã hội được xây dựng tương đối ổn định và vững chắc từ thời Lý, đã tiếp tục duy trì và phát triển một chế độ xã hội ổn định với kết cấu xã hội đa dạng. Dưới thời Trần, kinh tế nông nghiệp phát triển, việc mở rộng giao lưu buôn bán trao đổi hàng hóa đã đem đến sự phồn thịnh trên mọi lĩnh vực kinh tế, văn hóa. Nhưng song hành với quá trình ấy, xã hội thời Trần cũng đã diễn ra sự phân hóa mạnh mẽ, sự biến động sâu sắc về mặt kết cấu giai cấp xã hội. Một xã hội mới với những đẳng cấp mới đã dần được hình thành. Có thể thấy, trong gần hai thế kỷ tồn tại, xã hội Đại Việt thời Trần đã hình thành và tồn tại ba đẳng cấp chính, đó là đẳng cấp quí tộc, tôn thất, quan lại trong chính quyền quân chủ; đẳng cấp những người bình dân và đẳng cấp nô tỳ. Trong giai đoạn phồn thịnh của nhà Trần, sự phân tầng xã hội là tương đối ổn định, nhưng càng về sau, do những tác động, ảnh hưởng của các yếu tố chính trị, kinh tế, cũng như sự phát triển tất yếu của lịch sử, mà những biến động, sự chuyển dịch và phân hóa các giai tầng xã hội càng thể hiện rõ. Sở dĩ như vậy bởi vì, mỗi một tầng lớp tồn tại trong xã hội đều mang những đặc điểm riêng, được qui định bởi các nhân tố như: nguồn gốc xuất thân, địa vị chính trị trong xã hội, quyền lợi kinh tế và mức độ hưởng thụ của cải xã hội… Đặc biệt, “một điều đáng lưu ý hơn nữa là mỗi tầng lớp xã hội thời Trần đều mang đậm dấu ấn thời đại cùng với những đặc điểm khác biệt, không hoàn toàn giống những người cùng giai tầng xã hội với họ ở những thời đại trước hoặc sau đó” [48, tr.102]. Trước hết, trong nội bộ giai cấp thống trị đã phân hóa thành hai tầng lớp, đó là tầng lớp quý tộc tôn thất nhà Trần và tầng lớp địa chủ quan liêu, 16 mà cụ thể là các nho sĩ trong bộ máy quản lí (nho quan) của nhà Trần. Đây là hai tầng lớp có sự khác nhau về kinh tế và địa vị xã hội, bao gồm nhà vua, các vương hầu quý tộc và quan lại các cấp. Trong kết cấu đẳng cấp, nhà vua giữ vai trò đặc biệt, là người đứng ở vị trí trung tâm cộng đồng, có quyền sở hữu tối cao về danh nghĩa đối với toàn bộ ruộng đất, tài sản của đất nước; lãnh đạo và điều hành mọi công việc của nhà nước, từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, quân sự… Đặc biệt, ở thời Trần, vị trí độc tôn này cùng do vua và Thái thượng hoàng nắm giữ. Tất cả các vua chỉ ở ngôi một số năm rồi nhường ngôi cho con và lên làm Thái thượng hoàng. Việc làm này nhằm đảm bảo vững chắc vị trí và khả năng nắm giữ chính quyền của dòng họ nhà Trần, tránh những vụ tranh chấp ngai vàng trong hoàng tộc, đồng thời tập sự cho vua trẻ điều hành việc triều chính. Trên danh nghĩa, họ giữ vai trò “cố vấn” cho vua trẻ, song thực chất, Thái thượng hoàng là người quyết định mọi công việc của quốc gia. Theo lời bàn của Ngô sĩ Liên: “Con đã lớn thì cho nối ngôi chính, cha lui ở cung Thánh từ, xưng là Thượng hoàng, cùng trông coi chính sự. Thực ra chỉ truyền ngôi để yên việc về sau, phòng khi thảng thốt mà thôi, chứ mọi việc đều do Thượng hoàng quyết định. Vua nối ngôi không khác gì Hoàng thái tử cả.” [60, tr. 31]. Tóm lại, “ở thời Trần, trên nguyên tắc, quyền lực nhà vua là độc tôn, tuyệt đối, toàn diện và đa chức năng. Nhưng đó chưa phải là một hiện tượng độc đoán chuyên chế, mà là một sự tập trung quyền lực và thống nhất quản lí cần thiết” [49, tr. 284]. Chính vì vậy trong một thời gian tương đối dài, các vua Trần đã có khả năng tập hợp được đông đảo nhân dân, được nhân dân tin yêu, chung sức, đồng lòng, tiến hành thắng lợi công cuộc xây dựng kinh tế - xã hội cũng như chống ngoại xâm, sáng tạo nên những giá trị rực rỡ của nền văn minh Đại Việt. Đứng dưới vua, trong giai cấp thống trị là đẳng cấp thượng lưu cầm quyền. Đó là khối vương hầu quí tộc tôn thất quan liêu gần gũi, giúp việc 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan