Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Từ ngữ chỉ mầu trắng 'đen và các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của chúng trong tiếng v...

Tài liệu Từ ngữ chỉ mầu trắng 'đen và các từ ngữ chỉ màu sắc phụ của chúng trong tiếng việt

.PDF
93
20
110

Mô tả:

LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu đã nêu trong luận văn có nguồn gốc rõ ràng và kết quả của luận văn là trung thực. Tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên. Ngƣời cam đoan Trịnh Thị Phƣơng Mai MỤC LỤC MỞ ĐẦU.................................................................................................................................... 1 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN ................................................................................................. 10 1.1. Một số khái niệm về từ ngữ và từ ngữ chỉ màu sắc ........................................................... 10 1.1.1 Khái niệm về từ ………………………………………………………………………...10 1.2. Lý thuyết về từ chỉ màu sắc ............................................................................................... 21 1.2.1 Khái niệm về từ chỉ màu sắc……………………………………………………………21 1.2.2 Phân loại từ chỉ màu sắc………………………………………………………………..21 1.3. Cụm từ cố định .................................................................................................................. 24 1.3.1 Khái niệm về cụm từ cố định…………………………………………………………...24 1.3.1 Phân loại cụm từ cố định………………………………………………………………..24 1.4. Ngữ cố định định danh…………………………………………………………………...28 Chƣơng 2 KHẢ NĂNG TẠO TỪ VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ MÀU SẮC “TRẮNG” VÀ “ĐEN” TRONG TIẾNG VIỆT ................................................................... 30 2.1. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt ............................. 31 2.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt ........................... 37 2.2.1 Đặc điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu trắng ……………………………………………..39 2.2.2. Đặc diểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu "đen"…………………………………………….43 Chƣơng 3 ĐẶC ĐIỂM CẤU TẠO VÀ NGỮ NGHĨA CỦA CÁC CỤM TỪ CỐ ĐỊNH CHỈ MÀU SẮC “TRẮNG” VÀ “ĐEN” TRONG TIẾNG VIỆT ....................................... 49 3.1. Đặc điểm cấu tạo của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt 49 3.1.1 Đặc điểm cấu tạo của cụm từ cố định chỉ màu "trắng"…………………………………50 3.1.2 Đặc điểm cấu tạo của các cụm từ cố định chỉ màu "đen"………………………………52 3.2. Đặc điểm ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt ........................................................................................................................................... 52 3.2.1. Ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu "trắng" trong tiếng Việt………………….53 3.2.2. Ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu "đen" trong tiếng Việt…………………...58 KẾT LUẬN ............................................................................................................................. 67 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .............................................................................. 68 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Màu sắc là yếu tố không thể thiếu trong cuộc sống hàng ngày. Màu sắc tồn tại trong thế giới vật chất, được phản ánh qua nhận thức tri giác và gắn bó với đời sống tinh thần của con người.,. Các sự vật trong thế giới tự nhiên tạo thành một thế giới muôn hình, muôn vẻ, muôn sắc màu, màu sắc là một thuộc tính của vật thể, tồn tại một cách khách quan trong thế giới vật chất mà thị giác con người có thể nhận biết được. Màu sắc có được là do ánh sáng quang phổ tác động vào mắt bằng các trực giác quang phổ của cơ quan hấp thụ ánh sáng. Sự vật có màu khác nhau là do chúng có tần số ánh sáng khác nhau, còn sắc là trạng thái màu của sự vật, mỗi màu có một sắc thái riêng. Các loại màu sắc và các chỉ định về vật lí của màu sắc cũng có liên quan đến các vật thể, vật liệu, các nguồn sáng…, chúng được dựa vào các đặc tính tự nhiên như hấp thụ, sự phản chiếu hoặc sự phát ra quang phổ… Mỗi dân tộc trên thế giới tri nhận và chia cắt thế giới khách quan theo một cách riêng, vì vậy cũng cảm nhận màu sắc trong tự nhiên và đánh dấu cho chúng bằng một hệ thống chỉ màu sắc riêng biệt. Sự nhận thức và phân biệt màu sắc hoàn toàn có tính chất chủ quan đối với từng cộng đồng người nhất định. Trong các ngôn ngữ khác nhau, người ta phân chia dải màu và ghi nhận các sắc độ, sắc thái về màu sắc theo những cách riêng khác nhau.Vì thế, hệ thống tên gọi màu sắc của các ngôn ngữ cũng không giống nhau. Vấn đề này đã được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu và có cả những nhà ngôn ngữ học. Những từ chỉ màu là một bộ phận của từ vựng. Chúng có một vị trí đặc biệt, phản ánh thuộc tính riêng của sự vật và là một bộ phận có cấu trúc ngữ nghĩa - ngữ pháp riêng trong cấu trúc chung của từ loại. Chính vì vị trí và vai trò của chúng, những vấn đề về từ chỉ màu đã được các nhà ngôn ngữ học nghiên cứu, xem xét và phân tích từ trên 100 năm nay. Trong khoa học liên ngành, màu sắc đã được nghiên cứu dưới các góc độ đa ngành như: triết học, tâm lý học, vật lý học, và đặc biệt là ngôn ngữ học. Ngày nay, trong xu thế nghiên cứu liên ngành về khoa học xã hội, mối quan hệ giữa bộ ba ngôn ngữ, văn hóa và tư duy ngày càng được các nhà ngôn ngữ học quan tâm. Ngôn ngữ là chất liệu truyền tải văn hóa, mà văn hóa là cái được hàm chứa trong ngôn ngữ. Sự sáng tạo về văn hóa thường không thể tách rời ngôn ngữ, còn sự biến đổi và phát 1 triển của ngôn ngữ lại luôn đi song song với sự biến đổi và phát triển của văn hóa. Các nhà khoa học đều thừa nhận rằng, giữa ngôn ngữ và văn hóa, ngôn ngữ dân tộc và văn hóa dân tộc có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, chúng phát triển trong sự qua lại lẫn nhau. Ngôn ngữ đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành nên cách suy nghĩ và tiếp cận thế giới của con người, thậm chí ngôn ngữ còn quyết định cách con người tư duy về thế giới. Việc định danh lớp từ vựng chỉ màu sắc và cơ sở ngữ nghĩa của chúng cũng không nằm ngoài quy luật nhận thức và tri nhận nói trên. Các nhà nghiên cứu khi xem xét các biến thể ngôn ngữ trong hệ quang phổ màu sắc đã nhận ra rằng, mặc dù số lượng từ ngữ chỉ màu sắc trong mỗi ngôn ngữ là khác nhau, mỗi ngôn ngữ có thể hạn chế số lượng từ vựng gọi tên cho màu sắc cụ thể đó, song cộng đồng người sử dụng ngôn ngữ đó vẫn nhận ra sự khác biệt. Đặc trưng văn hóa dân tộc được thể hiện rõ thông qua việc chọn ý nghĩa biểu trưng của các sắc màu trong từng nền văn hóa. Ở các quốc gia khác nhau, các nền văn hóa khác nhau, ngữ nghĩa và ý nghĩa biểu trưng của hai màu trắng và đen thể hiện các ý nghĩa khác nhau. Ví dụ trong tiếng Việt, màu đen thường thể hiện cho màu tang tóc, sự kém may mắn, hoặc cái chết; màu trắng là màu của tang tóc, hoặc tượng trưng cho sự trinh trắng, tinh khôi; nhưng ở các quốc gia châu Âu, màu đen là màu của sự lịch lãm, sức mạnh và quyền lực; màu trắng là màu của sự trinh nguyên, tinh khôi. Hai tính từ chỉ màu sắc “trắng” và “đen” trong tiếng Việt có số lượng không nhỏ và mang ý nghĩa vô cùng đa dạng trong nhiều phong cách văn bản, đặc biệt là trong phong cách ngôn ngữ khẩu ngữ và ngôn ngữ văn chương. Vì thế, việc nghiên cứu đặc trưng ngữ nghĩa của từ, ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ “trắng” và “đen” trong tiếng Việt mang ý nghĩa khoa học nhất định, góp phần làm rõ đặc điểm ngữ nghĩa, giá trị biểu trưng và đặc điểm tri nhận của nhóm từ này. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2.1. Nghiên cứu về từ chỉ màu sắc ở nước ngoài Ngày nay khi Khoa Sắc học (Colour science) đã phát triển mạnh mẽ với những tên tuổi như Kandinsky, Herbin và Henri Pfeiffer thì hệ ý nghĩa biểu trưng về màu sắc càng được nâng cao giá trị. Mỗi dân tộc, mỗi nền văn hóa khác nhau sẽ có những cách xem xét màu sắc theo các cách khác nhau. Trong hầu hết các nền văn hóa châu Á, màu 2 vàng được xem như màu của vua chúa, hoàng đế; còn phương Tây là màu tím. Đối với Trung Quốc, màu đỏ là biểu tượng cho lễ tết, sự may mắn, thịnh vượng; màu trắng tượng trưng cho sự tang tóc, chết chóc. Ở Châu Âu, màu sắc được liên tưởng mạnh mẽ đến các đảng phái chính trị. Nhiều nước xem màu đen là biểu tượng của Đảng Bảo thủ, màu đỏ là biểu tượng của Đảng Cộng sản, màu nâu là biểu tượng của Phát xít. Trong một số ngôn ngữ, màu xanh dương được dùng với rất nhiều nghĩa tích cực. Các nghiên cứu cho thấy hầu hết màu sắc có sự liên tưởng theo hướng tích cực nhiều hơn theo hướng tiêu cực; thậm chí khi nó có hướng liên tưởng tiêu cực thì cũng chỉ được sử dụng trong những ngữ cảnh đặc biệt. Vì vậy, màu sắc là một trong những biểu tượng mang tính phổ quát, không chỉ ở phương diện địa lý mà còn ở mọi khía cạnh nhận thức: vũ trụ, tâm lý, tôn giáo, ngôn ngữ…[15]. Gần đây nhất, Paul Kay - nhà nghiên cứu ngôn ngữ thuộc trường Đại học California ở Berkeley – khi nghiên cứu về màu sắc đã đưa ra một nhận định quan trọng là quá trình nhận biết màu sắc bắt đầu từ phần não bên phải và truyền sang bên trái thông qua sự tiến triển của ngôn ngữ, đồng thời những nhận thức màu sắc của chúng ta được liên kết chặt chẽ với ngôn ngữ của chúng ta. Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ tâm lý học, G. Alen và U.Mac (người Anh), Dugan. H (người Mỹ) đã đưa ra ý tưởng về sự khác biệt của hệ thống màu sắc với nguồn gốc văn hóa xã hội. Qua nghiên cứu của mình, các nhà tâm lý học đã chứng minh rằng màu sắc là một tồn tại, phản ánh nhận thức của con người ở các dân tộc khác nhau, nói các thứ tiếng khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Mối quan tâm đến màu sắc nảy sinh ở loài người trải qua quá trình lao động và sinh hoạt cộng đồng, và những từ ngữ chỉ màu sắc dần xuất hiện trong ngôn ngữ. Nhận thức về màu sắc tương đồng ở các cộng đồng ngôn ngữ. Từ ngữ chỉ màu sắc đóng vai trò quan trọng trong từng nền văn hóa khác nhau. Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ ngôn ngữ văn hóa, Brent Berlin và Paul Kay đã kết hợp giữa tính khái niệm và tính thực tiễn, liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa màu sắc và văn hóa. Từ sự khái quát thực tế 78 ngôn ngữ khác nhau, Brent Berlin và Paul Kay kết luận: Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có 2 từ chỉ màu đen và màu trắng, có 3 từ thì có thêm màu đỏ, có 4 từ thì có thêm màu xanh lá hoặc vàng, có 5 từ thì thêm cả màu xanh lá và vàng, có 6 từ thì thêm màu xanh da trời, có 7 từ thì có thêm màu nâu, 3 có trên 7 từ thì có thêm màu tím, hồng, da cam, xám hoặc hỗn hợp những màu này. Nghiên cứu màu sắc dưới góc độ ngôn ngữ học, tác giả Micheal Quinion trong bài viết “Những tên gọi nhất thời của màu sắc” (The fugitive names of hues) đã nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Anh bằng phương pháp từ nguyên học. Ông đã xác định màu từ màu xanh da trời (blue) bắt nguồn từ tiếng Pháp, xanh lá cây (green) có cùng gốc với “grow” và xuất xứ từ tiếng Đức, màu đỏ (red) được vay mượn từ tiếng Hy Lạp, màu hồng (pink) cùng gốc từ với tiếng Hà Lan,… Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier và Alain Gheerbrant đã trình bày khá chi tiết về biểu tượng màu sắc của các nước trên thế giới, chủ yếu là phương Tây. 2.2. Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc ở Việt Nam Ở Việt Nam, những vấn đề về từ chỉ màu đã được các nhà nghiên cứu đem ra xem xét và phân tích trên 100 năm nay. Nguyễn Khánh Hà (1995) “Hệ thống từ chỉ màu sắc trong Tiếng Việt” đã thống kê và lập một bảng từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, phân loại chúng, sắp xếp chúng thành hệ thống và phân tích ý nghĩa từ vựng và bối cảnh sử dụng chúng. Qua đó tác giả đã làm sáng tỏ những mối liên hệ của chúng với văn hóa truyền thống. Trên cơ sởhệ thống hóa các từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt trên dưới góc độ ngôn ngữ và văn hóa, luận văn đãchỉ ra những đặc điểm của các lớp từ chỉ màu sắc như: lớp từ chỉ màu cơ sở, lớp từ chỉ màu thứ cấp vàlớp từ chỉ màu đặc trưng; đặt trong mối tương quanso sánh để tìm ra mối quan hệ và kết cấu giữa các lớp từ này. Tuy nhiên, luận văn chưa đi sâu vào đặc điểm tạo từ, tạo cụm từ chỉ màu sắc cũng như làm rõ con đường chuyển nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong ngữ cảnh sử dụng, đặc biệt, luận văn cũng chưa khai thác giá trị biểu trưng của các thành ngữ có chứa từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, để tìm hiểu mức độ ảnh hưởng của ngôn ngữ, văn hóa, tư duy dân tộc đến việc sử dụng chúng. Chu Bích Thu (1996) trong luận án tiến sĩ “Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại” cũng đã sử dụng phương pháp thành tố nghĩa để phân tích các nhóm tính từ trong đó có nhóm tính từ chỉ màu sắc [78]. Tuy nhiên, trong luận án, khi đề cập đến tính từ chỉ màu sắc, tác giả mới chỉ dừng lại ở chỗ phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của nhóm tính từ này.Trịnh Thị Minh Hương (2009) trong luận văn thạc sĩ “Tính biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt (dựa trên ngữ liệu là những 4 văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương)” đã nghiên cứu phương thức tạo tính biểu trưng cho các từ ngữ chỉ màu sắc, nêu được một số điểm tương đồng và khác biệt trong cách tri nhận về các nhóm màu và hàm nghĩa biểu trưng được thể hiện trong từ ngữ chỉ màu sắc trong phạm vi hoạt động là thành ngữ [47]. Với mục đích hướng vào tính biểu trưng của từ chỉ màu sắc, nên tác giả không đi sâu vào bình diện ngôn ngữ văn hóa của từ, cũng như chưa đi vào nghiên cứu bình diện ngữ nghĩa văn hóa của thành ngữ tục ngữ có chứa từ ngữ chỉ màu sắc. Trương Thị Sương Mai (2012) trong luận văn thạc sĩ “Đặc trưng ngôn ngữ- văn hóa Việt qua thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc (so sánh với tiếng Anh)” đã dựa trên cứ liệu là thành ngữ, tục ngữ có từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt, tìm hiểu đặc trưng ngôn ngữ văn hoá của người Việt đặt trong sự so sánh đối chiếu với tiếng Anh, từ đó tìm ra mối quan hệ mật thiết giữa ngôn ngữ và văn hoá và góp phần làm rõ vấn đề hàm nghĩa văn hoá thể hiện qua ngôn ngữ [54]. Bùi Thị Thùy Phương (2004) nghiên cứu các từ chỉ màu sắc đỏ, vàng, đen, trắng, xanh và hàm nghĩa văn hóa của chúng trong tiếng Hán (đối chiếu với các từ tương ứng trong tiếng Việt) [66]. Nguyễn Thị Hải Yến (2007) nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Anh đối chiếu với tiếng Việt [93]. Phương Thần Minh (2005), so sánh từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Hán và tiếng Việt [56]. Nguyễn Hoàng Phương Linh (2014), nghiên cứu về các thành ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt, tập trung vào một số thành ngữ có chứa một số màu cơ bản như đỏ, vàng, xanh da trời và hai màu đen, trắng nhằm tìm ra những nét tương đồng và dị biệt trong cách sử dụng của các thành ngữ này trong hai ngôn ngữ và tìm ra các lỗi mà trong quá trình học tiếng Anh sinh viên thường gặp phải [53]. Trịnh Thị Thu Hiền (2015) đã khảo sát hai từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt là xanh và đỏ cùng các từ phái sinh của hai từ này trong từ điển và trong ca dao, từ đó làm sáng tỏ những đặc điểm ngữ nghĩa cơ bản như nội dung ngữ nghĩa, sự biến đổi nghĩa, những hướng biểu trưng của chúng, cũng như khả năng hoạt động của chúng trong ngôn ngữ và trong thực tế ngôn ngữ là ca dao Việt Nam [41]. Trần Thị Thùy Hương (2016) có nghiên cứu về nhóm từ ngữ chỉ màu sắc phụ của hai màu xanh và đỏ trong tiếng Việt và làm rõ những đặc trưng về cấu trúc, ngữ nghĩa của nhóm từ này [48].Các bài viết nghiên cứu về màu sắc khá nhiều, có thể kể đến: Trần Thị Thu Huyền với bài viết “Hoa cỏ và màu sắc trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng 5 Việt”, (Ngôn ngữ và đời sống, số 12, 2001) đã nêu ra những nhận xét mang tính khái quát từ những điểm tương đồng về hình thức đến những điểm tương đồng và dị biệt trong nhận thức của hai dân tộc về “màu sắc, hoa, cỏ” trong thành ngữ - tục ngữ do xuất phát từ hai nền văn hóa khác nhau [49,35 – 36]. Phạm Văn Tình với các bài viết: Hai từ xanh và xanh xanh; Phấn trắng, bảng đen, tóc trắng- hình tượng đẹp về người thầy (Tiếng Việt từ cuộc sống), 2004 [78]; Lê Thị Vy với Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua các từ chỉ màu sắc (Ngôn ngữ và Đời sống số 6), 2006 [91]. Các bài viết này đã đề cập đến một màu (hoặc nhiều màu) như biểu tượng của văn hóa hoặc nét đặc thù của dân tộc. Từ đó các tác giả nêu lên mối quan hệ giữa ngôn ngữ và thực tại khách quan, ngôn ngữ và văn hóa, tuy nhiên, vẫn chưa đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn hóa đến cách sử dụng các từ chỉ màu sắc như thế nào. Trong “Đặc trưng âm thanh và màu sắc trong thơ Xuân Diệu trước Cách mạng tháng Tám” (khóa luận tốt nghiệp ĐH Sư phạm TPHCM 1996), Lê Thị Thanh Điệp đã bàn về ý nghĩa của các từ chỉ màu sắc trong thơ Xuân Diệu [25]; Biện Minh Điền, với bài viết Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn Khuyến (Ngôn ngữ số 7- 2000) đã thống kê tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ và câu đối của Nguyễn Khuyến và đã xác định tỉ lệ màu sắc tươi chiếm ưu thế, đặc biệt là cách dùng màu xanh và màu trong [24,48 - 55]; tương tự, trong bài Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Thị Thành Thắng (Ngôn ngữ số 11-2001) đã khái quát được sự đa dạng về nghĩa của cùng một màu xanh, từ đó, nêu bật vài điểm trong phong cách nghệ thuật của Nguyễn Bính [74]; Năm 2005, trong công trình Một số vấn đề về kí hiệu học (Đề tài khoa học cấp Đại học Quốc gia), Nguyễn Đức Dân có một phần đề cập đến màu sắc như một biểu tượng mang tính phổ quát trong một số nghi thức văn hóa, tôn giáo trên thế giới [20]. trong nghiên cứu của mình có một phần đề cập đến màu sắc như một biểu tượng mang tính phổ quát trong một số nghi thức văn hóa, tôn giáo trên thế giới. Đây chính là hướng tiếp cận màu sắc dưới góc độ ký hiệu học, là một hướng nghiên cứu mà rất nhiều nhà ngôn ngữ học trên thế giới tiếp cận và khai thác. Trên Ngôn ngữ và Đời sống số 8 năm 2006, Hà Thị Thu Hoài viết Từ chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã phân tích nét đặc sắc sáng tạo trong việc tạo ra nhiều sắc độ của màu trắng, đỏ, vàng trên những 6 trang văn Tô Hoài [45,9-12]. Nguyễn Văn Trào (2014) trong bài viết “Bàn về dịch thành ngữ Anh-Việt (trên cơ sở ngữ liệu các thành ngữ có yếu tố màu sắc xanh, đen, đỏ, trắng)”, (Ngôn ngữ và Đời sống, số 7 (225)-2014) đã đưa ra chiến lược dịch các thành ngữ có yếu tố màu sắc sao cho ý nghĩa của thành ngữ ở ngôn ngữ nguồn đảm bảo được dịch sát nghĩa hoặc được thể hiện tương đương ở ngôn ngữ đích, trong đó tác giả có đưa ra năm cách dịch như: Dùng một thành ngữ tương đương về nghĩa và hình thức ở ngôn ngữ đích; Sử dụng thành ngữ giống nhau về nghĩa nhưng khác nhau về cấu trúc; Dịch thành ngữ bằng cụm từ không mang tính thành ngữ; Dịch bằng việc giải thích thành ngữ; Dịch vay mượn hoặc sao phỏng [87]. Với hai tính từ chỉ màu trắng đen, Trần Thị Thu Phượng trong luận văn thạc sĩ ngôn ngữ năm 2016 đã nghiên cứu và đưa ra những đặc điểm của 2 từ chỉ màu này trong tiếng Hàn (có so sánh với tiếng Việt) [67]. Đào Mạnh Toàn (2015), Đối chiếu cấu trúc ngữ nghĩa, ngữ dụng của các từ hồng, đỏ trong tiếng Việt với các từ 红, 赤 trong tiếng Hán hiện đại [85]. Ngô Thị Khánh Ngọc (2015), có đối chiếu về các ý nghĩa hàm ngôn của các từ chỉ màu sắc trong thành ngữ Tiếng Anh và tiếng Việt [59]. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Luận văn khảo sát các từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai màu đen và trắng trong tiếng Việt nhằm làm rõ những đặc trưng về cấu trúc, ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng của nhóm từ ngữ này, tìm ra mối liên hệ giữa bộ ba ngôn ngữ, văn hóa và tư duy. Kết quả nghiên cứu sẽ phục vụ cho thực tiễn giảng dạy tiếng Việt nói chung, cho những người nước ngoài học tiếng Việt nói riêng. Kết quả nghiên cứu cũng góp phần giải thích sự cảm nhận màu sắc qua ngôn ngữ, văn hóa của người Việt. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Để đạt thực hiện mục đích nghiên cứu, luận văn xác định các nhiệm vụ nghiên cứu sau đây: - Dựa trên cơ sở các lý thuyết ngữ nghĩa đã học, luận văn khảo sát các từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai màu đen và trắng trong tiếng Việt, để xác lập phạm trù chỉ màu sắc phụ của nhóm từ ngữ này trong tiếng Việt ở mức độ toàn diện nhất có thể, với những đặc điểm hình thức, ngữ nghĩa của chúng. Qua đó, luận văn làm rõ tiêu chí 7 xác định các từ chỉ màu sắc phụ trong tiếng Việt. Luận văn cũng đặt nhiệm vụ khai thác nghĩa gốc, nghĩa phái sinh và nghĩa biểu trưng của nhóm từ này để thấy được việc nhận thức và phản ánh sự nhận thức về màu sắc của người Việt với thế giới xung quanh. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu: luận văn lấy đối tượng nghiên cứu là những từ và ngữ chỉ màu và màu sắc phụ của hai tính từ “trắng” và “đen” trong tiếng Việt. - Phạm vi nghiên cứu: các đặc điểm cấu trúc và ngữ nghĩa của từ và ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai tính từ “trắng” và “đen” trong tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ, văn hóa và tư duy. 5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, luận văn có sử dụng các phương pháp nghiên cứu chính sau: - Thủ pháp thống kê, phân loại: Mục đích của thủ pháp này nhằm thống kê và phân loại tất cả các từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai tính từ đen và trắng trong tiếng tiếng Việt, tiến hành phân loại dựa trên những cơ sở, tiêu chí cụ thể, để từ đó đi vào khảo sát các đặc điểm về cấu trúc và nội dung của từng nhóm. - Phương pháp phân tích thành tố nghĩa : Phương pháp này được sử dụng nhằm phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa của các từ, ngữ chỉ màu sắc, màu sắc phụ của hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt, tìm ra các nét nghĩa trong các ngữ cảnh sử dụng khác nhau cũng như chỉ ra vai trò của các từ ngữ này trên bình diện hoạt động của chúng. - Phương pháp miêu tả: Miêu tả nghĩa các từ, ngữ chỉ màu và màu sắc phụ của hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt nhằm phát hiện các đặc điểm ngữ nghĩa và giá trị biểu trưng của chúng. 6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận văn 6.1. Ý nghĩa lí luận Kết quả nghiên cứu của luận văn sẽ có đóng góp trên phương diện lý luận về ngữ nghĩa nói chung, đặc biệt lý giải đặc trưng tư duy văn hóa của người Việt qua mảng từ ngữ chỉ màu sắc và màu sắc phụ qua nghiên cứu trường hợp hai tính từ chỉ màu sắc đen và trắng. 8 6.2. Ý nghĩa thực tiễn - Luận văn đưa ra một cái nhìn tổng thể về từ chỉ màu sắc và màu sắc phụ của hai tính từ đen và trắng trong tiếng Việt, bao gồm các đặc điểm về cấu trúc, ngữ nghĩa, các phương thức chuyển nghĩa và giá trị biểu trưng của từng từ, ngữ trong sử dụng. - Kết quả của luận văn có thể được ứng dụng cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt trong nhà trường và cho người nước ngoài học tiếng Việt về mảng từ ngữ chỉ màu sắc. Bên cạnh đó, có thể góp phần làm rõ mối quan hệ giữa bộ ba ngôn ngữ, văn hóa và tư duy. - Kết quả của luận văn còn có thể được ứng dụng cho việc biên soạn từ điển giải thích, đối với lớp từ ngữ chỉ màu sắc phụ. 7. Cơ cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, luận văn có 3 chương: Chương 1: Cơ sở lí thuyết. Chương 2: Khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc “trắng” và “ đen” trong tiếng Việt. Chương 3: Đặc điểm cấu tạo và ngữ nghĩa của các cụm từ cố định chỉ màu sắc “ trắng” và “đen” trong tiếng Việt. 9 Chƣơng 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN 1.1. Một số khái niệm về từ ngữ và từ ngữ chỉ màu sắc 1.1.1. Khái niệm về từ Theo F. De Sausure thì “Từ mặc dù khó định nghĩa, vẫn là một đơn vị trung tâm trong toàn bộ cơ cấu của ngôn ngữ [68] Các nhà ngôn ngữ học Châu Âu cho rằng bất cứ ngôn ngữ nào cũng bao gồm ba bộ phận phân biệt nhau là thành phần cấu tạo âm thanh, các phương tiện từ vựng, các phương tiện ngữ pháp và đề cập đến những kiểu đơn vị ngôn ngữ sau: âm vị, hình vị, từ, cụm từ, câu. Nhưng ngôn ngữ học truyền thống Châu Âu đã nêu các kiểu từ sau đây: từ đơn, từ phái sinh, từ phức, từ ghép và từ láy. Từ đơn là từ chỉ có một hình vị chính tố, từ phái sinh là từ gồm có chính tố kết hợp với phụ tố cấu tạo từ, từ phức là từ có hai chính tố trở lên kết hợp với nhau, từ ghép là những từ được cấu tạo bằng cách ghép hai hoặc hơn hai từ độc lập, từ láy là từ được cấu tạo bằng cách lặp lại thành phần âm thanh của một hình vị hoặc một từ. Từ láy phổ biến ở các ngôn ngữ Đông Nam Á. [80] Theo F. De Sausure, từ là một đơn vị luôn luôn ám ảnh tư tưởng của chúng ta như một cái gì đó trung tâm trong toàn bộ cơ cấu ngôn ngữ, mặc dù khái niệm này khó định nghĩa. [68] Các nhà ngôn ngữ học đã dùng thuật ngữ từ để gọi những hiện tượng khác nhau nhưng có quan hệ với nhau. Ít nhất có năm quan niệm khác nhau về cái được gọi là từ. Đó là: (1) Từ chính tả: Là khoảng cách giữa hai chỗ trống trên chữ viết; (2) Từ từ điển học: Là đơn vị mà căn cứ vào các đặc điểm ý nghĩa của nó phải xếp riêng trong từ điển; (3) Từ ngữ âm: Là nhóm các hình vị được thống nhất bởi hiện tượng ngữ âm nào đó như trọng âm, sự hài hòa nguyên âm, sự biến đổi của các âm tố nào đó trong phạm vi một từ… (4) Từ biến hình: Là một phức thể luôn luôn gồm hai phần: một phần có nghĩa là đối tượng, còn phần kia biểu thị mối liên hệ của từ đó đối với các từ khác trong câu. Tiếng Việt không có từ biến hình; (5) Từ hoàn chỉnh: Là nhóm các hình vị không thể tách hoặc hoán vị các hình vị đó mà lại không làm thay đổi ý nghĩa của chúng hoặc không vi phạm mối liên hệ giữa chúng [34]. 10 Các tác giả cuốn Từ điển giải thích thuật ngữ ngôn ngữ học coi từ là “ Đơn vị cấu trúc – ngữ nghĩa cơ bản của ngôn ngữ dùng để gọi tên các sự vật và các thuộc tính của chúng, các sự vật, các hiện tượng, các quan hệ của thực tiễn, là tổng thể các dấu hiệu ngữ âm, ngữ nghĩa và ngữ pháp đặc trưng cho từng ngôn ngữ” [92]. Định nghĩa từ của Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê: “Từ là âm có nghĩa, dùng trong ngôn ngữ để diễn tả một ý nghĩa đơn giản nhất, nghĩa là ý không thể phân tích ra được” [16]. Nguyễn Kim Thản cho rằng: “Từ là một đơn vị cơ bản của ngôn ngữ, có thể tách khỏi các đơn vị khác của lời nói để vận dụng một cách độc lập và là một khối hoàn chỉnh về ngữ âm, ý nghĩa (từ vựng hoặc ngữ pháp) và chức năng ngữ pháp” [69]. Định nghĩa của Hồ Lê: “Từ là đơn vị ngữ ngôn có chức năng định danh phi liên kết hiện thực, hoặc chức năng mô phỏng tiếng động, có khả năng kết hợp tự do, có tính vững chắc về cấu tạo và tính nhất thể về nghĩa” [33]. Theo Nguyễn Thiện Giáp, “Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của ngôn ngữ. Do tính chất hiển nhiên, có sẵn của các từ mà ngôn ngữ của loài người bao giờ cũng được gọi là ngôn ngữ của các từ. Chính tổng thể cả các từ là vật liệu xây dựng mà thiếu nó thì không thể hình dung được một ngôn ngữ. Có thể chấp nhận một định nghĩa chung về từ như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc lập về ý nghĩa và hình thức” [33]. Đỗ Hữu Châu cho rằng: “Từ là một đơn vị hai mặt: mặt hình thức và mặt ý nghĩa. Mặt hình thức theo chúng tôi, là một hợp thể của một số thành phần: thành phần của ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp” [8, 21]. Theo khái niệm về từ của Đỗ Hữu Châu, chúng tôi cho rằng: Từ là một đơn vị hai mặt là mặt hình thức và mặt nội dung. Mặt hình thức là một hợp thể của một số thành phần: thành phần của ngữ âm (còn gọi là ngoại biểu), thành phần cấu tạo (còn gọi là cấu trúc của từ) và thành phần ngữ pháp. 1.1.1.1 .Phương thức cấu tạo từ Theo Đỗ Hữu Châu (Đỗ Hữu Châu – 1999, Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, NXB Giáo dục) về nguyên tắc, do những ảnh hưởng và tác động của xã hội, lớp từ 11 vựng trong mỗi ngôn ngữ luôn vận động, để sản sinh và làm giàu vốn từ vựng của ngôn ngữ mình để phục vụ những nhu cầu diễn đạt mới, những nhu cầu giao tiếp mà xã hội đặt ra. Các từ mới được sinh ra cũng đồng thời kéo theo các nghĩa mới. Chúng làm phong phú thêm vốn từ vựng và giúp con người có thể dễ dàng diễn đạt những suy nghĩ của mình. Vận động cấu tạo từ không phải chỉ để tạo ra một từ riêng lẻ mà là để tạo ra một loạt các từ cùng kiểu. Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, được gọi là hình vị. Các hình vị được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt, hay dựa trên các phương thức tạo từ, ngôn ngữ tác động vào các hình vị để sản sinh ra các từ. Trong tiếng Việt, chúng ta có ba phương thức cấu tạo từ là từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị. Trong tiếng Việt, các yếu tố cấu tạo từ là những hình thức ngữ âm có nghĩa nhỏ nhất, được gọi là hình vị. Các hình vị được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo của từ tiếng Việt, hay dựa trên các phương thức tạo từ, ngôn ngữ tác động vào các hình vị để sản sinh ra các từ. Theo Đỗ Hữu Châu (1999), tiếng Việt có ba phương thức cấu tạo từ là từ hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị [8, 21]. Phương thức hóa từ hình vị là phương thức tác động trực tiếp vào hình vị để tạo cho nó các đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không thêm bớt gì vào hình thức của hình vị. Phương thức ghép là phương thức kết hợp hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa để tạo ra một từ mới mang đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa như một từ. Phương thức thứ ba là phương thức láy. Phương thức này tác động vào một hình vị cơ sở để sinh ra một hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ, hay có đặc điểm ngữ pháp và ngữ nghĩa của từ. Ngoài ba phương thức tác động vào hình vị trên, ta còn gặp phương thức tạo từ theo lối chuyển nghĩa một từ đã sẵn có. Phương thức chuyển nghĩa không tạo ra từ mới mà chỉ tạo ra ý nghĩa của hình vị đóng vai trò hết sức quan trọng trong chức năng này. Tuy nhiên, xét theo khả năng cấu tạo thì từ có những hình vị có khả năng cấu tạo từ cao, tức là nó có thể tạo ra một số lượng từ lớn hơn và có thể đi vào nhiều phương thức cấu tạo hơn. Vì vậy, có thể nói hình vị là yếu tố đầu tiên, yếu tố gốc để cấu tạo từ. 12 Khi nghiên cứu để phân loại từ đã có một số ý kiến khác nhau. Phần lớn tác giả đều căn cứ vào số lượng hình vị để chia thành từ đơn và từ kép (từ phức hợp). Các từ phức hợp lại được chia thành từ láy và từ ghép. Căn cứ vào quan hệ cú pháp, từ ghép lại được chia thành ghép đẳng lập và ghép chính phụ. Khi phân loại các từ về mặt cấu tạo, cần phải chú ý đến tất cả các yếu tố tham gia cấu tạo từ. Phân loại từ không chỉ là để sắp xếp các từ thành loại mà còn để phát hiện ra cách thức cấu tạo, tạo điều kiện cho quá trình nhận thức từ. Do vậy, nói một cách đơn giản, chúng ta có thể phân chia từ tiếng Việt về mặt cấu tạo thành từ đơn và từ phức, trong đó từ phức bao gồm từ láy và từ ghép. Từ đơn được tạo thành từ phương thức từ hóa, từ láy từ phương thức láy và từ ghép từ phương thức ghép. Từ việc phân loại này, chúng ta có thể hình dung ra các phương thức để sản sinh ra từ mới từ từ đơn gốc trong tiếng Việt. 1.1.2. Nghĩa của từ 1.1.2.1. Khái niệm về nghĩa của từ Theo Richmond H. Thomason (1966), ngữ nghĩa học là việc nghiên cứu nghĩa trong phạm vi ngôn ngữ học. Ngôn ngữ có thể là ngôn ngữ tự nhiên của con người hay ngôn như nhân tạo như ngôn ngữ chương trình máy tính. Các nhà ngôn ngữ học chủ yếu nghiên cứu nghiên cứu ngôn ngữ tự nhiên. Trên thực tế, ngôn ngữ học là một trong những nhánh chính của ngôn ngữ học đương thời. Các nhà nghiên cứu logic học và các nhà khoa học máy tính luôn nghĩ đến việc nghiên cứu ngôn nhữ nhân tạo. Ở một số phạm vi của khoa học máy tính, sự phân chia này có chồng chéo. Như, trong việc dịch về máy móc, các nhà khoa học máy tính muốn sự dụng ngôn ngữ tự nhiên để giải thích. Theo Leech (1990), ngôn ngữ học là trung tâm của việc nghiên cứu giao tiếp và giao tiếp càng ngày càng trở nên là một yếu tố mang tính chất quyết định hệ thống xã hội. Ngữ nghĩa học là trung tâm nghiên cứu suy nghĩ của con người, đó là quá trình suy nghĩ, nhận thức, khái niệm hóa. Theo tác giả Goddard C. và Wierzbicka A. (2014), ngữ nghĩa cũng được xem là một thành phần của ngôn ngữ học hơn là một quan điểm về ngôn ngữ và ngôn ngữ học. Tuy nhiên, ý nghĩa chính là tất cả những gì ngôn ngữ diễn đạt. Đối với hầu hết người dùng ngôn ngữ - người nói và người nghe, nhà văn và người đọc – từ là luôn 13 luôn sống và “ xanh”, trong khi các hình thức, biểu tượng và các công thức trừu tượng có thể dần dần mất đi hoặc không được dùng nữa. Theo các nhà Việt ngữ học, nghĩa của từ là một trong những khái niệm quan trọng nhất. Song để xác định được nghĩa của từ và cơ sở nào để xác nhận định nghĩa là một việc khó. Vì vậy khi nghiên cứu về nghĩa của từ, các nhà ngôn ngữ có các khái niệm khác nhau. Theo Nguyễn Thiện Giáp “Nghĩa của từ (cũng như ở các đơn vị ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó. Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì, tức là nó biểu thị cái gì” [33]. Theo ông, điều này có thể thấy rõ khi quan sát cách người lớn và trẻ con nắm nghĩa của từ như thế nào. Đối với người lớn, khi muốn hiểu nghĩa của một từ nào đó người ta tra từ điển còn trẻ con thì lại liên hệ âm thanh của từ với sự vật. Theo tác giả, cần phân biệt nghĩa của từ với sự hiểu biết vì trong nhận thức của con người không tồn tại bản thân nghĩa của các từ mà chỉ có sự hiểu biết, nghĩa của từ tồn tại khách quan trong lời nói, còn trong nhận thức chỉ có sự phản ánh những nghĩa đó mà thôi. Ở Việt Nam tác giả Đỗ Hữu Châu chính là người nghiên cứu tập trung nhất về nghĩa của từ. Theo ông, “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. Nói cụ thể hơn, “nghĩa của từ là hợp điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa. Trong số các nhân tố đó, có nhưng nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ” [11] .Theo ông, hai yếu tố ngoài ngôn ngữ là: Sự vật, hiện tượng của thế giới khách quan, có thể thuộc thế giới nội tâm hoặc thế giới ảo tưởng và các hiểu biết về nhân tố thứ nhất. Từ đó, Đỗ Hữu Châu đã ra hình tháp nghĩa hình học không gian hay thế tam giác hình học, Đỗ Hữu Châu cho rằng: Ở đỉnh cao nhất của hình tháp là từ (trừu tượng) với hai thành phần chính thức và ý nghĩa (trừu tượng). Hai phần này quy định lẫn nhau và đều thuộc về từ. Ở mỗi đỉnh của đáy là từng nhân tố góp phần làm thành ý nghĩa, lần lượt là sự vật, hiện tượng, những hiểu biết của nhân tố tư duy (khái niệm); nhân tố người sự dụng (nhân tố lịch sử - xã hội); các chức năng tín hiệu học, cấu trúc của ngôn ngữ. Số lượng các đỉnh của đáy sẽ tăng lên tùy theo số lượng những nhân tố được phát hiện thêm. Có thể nói, ưu điểm của hình tháp này là, một mặt 14 tách được những thực thể đang xem xét (từ các nhân tố) ra khỏi nhau, đồng thời vạch ra được mối quan hệ giữa chúng. Theo tác giả Đỗ Việt Hùng (2013): “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần có quan hệ ổn định với hình thứ từ” [46, 37]. Như vậy, qua những định nghĩa trên, có thể nhận thấy căn cứ để định nghĩa và nhận biết căn cứ từ đều được các nhà nghiên cứu xuất phát từ khái niệm tín hiệu và tính hai mặt của tín hiệu theo lí thuyết của F. De Saussure. Theo Saussure, lưỡng phân tín hiệu ngôn ngữ ta nhận ra hai mặt của nó: mặt biểu hiện (âm thanh) và mặt được biểu hiện (nội dung). Và ý nghĩa của từ thuộc về mặt thứ hai. Hai mặt này gắn bó với nhay như hai mặt của một tờ giấy, nếu không có mặt này thì cũng không có mặt kia. Luận văn dựa vào khái niệm về nghĩa của từ của Đỗ Hữu Châu, cho rằng “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần cùng với phương diện hình thức lập thành một thể thống nhất gọi là từ”. Cụ thể là “nghĩa của từ là hợp điểm, là kết quả của những nhân tố và tác động giữa những nhân tố tạo nên nghĩa. Trong số các nhân tố đó, có nhưng nhân tố ngoài ngôn ngữ và có những nhân tố nằm trong ngôn ngữ”. [11] 1.1.2.2. Các thành phần nghĩa của từ Khi đưa ra hình tháp nghĩa hình học không gian, tác giả Đỗ Hữu Châu đã chỉ ra mối quan hệ giữa và các nhân tố góp phần hình thành ý nghĩa. Tác giả nhấn mạnh từ mối quan hệ giữa từ và sự vật hình thành ý nghĩa biểu vật, từ mối quan hệ với cấu trúc của ngôn ngữ với các từ khác sẽ hình thành các ý nghĩa, cấu trúc và quan hệ giữa ý nghĩa với các thành phần hình thức mà hình thành các ý nghĩa cấu tạo từ, các ý nghĩa ngữ pháp. Từ sự phân định trên của tác giả Đỗ Hữu Châu, ta thấy có hai thành phần nghĩa lớn là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp. Trong đó, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa của riêng từng từ, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý nghĩa mang tính đồng loạt chung cho nhiều từ. Cụ thể như sau: 1.1.2.3. Ý nghĩa từ vựng Trong ngôn ngữ có những từ có chức năng định danh, hay còn gọi là khả năng gọi tên cho các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất, quan hệ… trong thực tại khách quan, ta gọi là các từ định danh (đen, trắng, đỏ,…). Bên cạnh các từ định danh, có các từ không có khả năng gọi tên như trên mà chỉ vó vai trò thực hiện chức năng ngữ pháp 15 khác nhau khi tạo câu, tạo văn bản, ta gọi đó là các từ phi định danh (vì, nên, hoặc…). Nghĩa của từ định danh không phải là một khối không phân hóa. Nó là một thể thống nhất gồm bốn thành phần nghĩa: nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm, nghĩa ngữ pháp, và nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng). Trong đó ba thành phần nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái gộp thành nghĩa từ vựng của từ. Vì vậy, hễ nói đến nghĩa từ vựng của từ thì ta chỉ đề cập đến loại từ định danh. Dưới đây, ta sẽ lần lượt xem xét từng thành phần nghĩa của từ. a. Ý nghĩa biểu vật Là thành phần của từ liên quan đến sự vật hoặc phạm vi sự vật mà từ đố được sử dụng trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp xúc với nó. Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. Nói cách khác, ý nghĩa biểu vật của từ là các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn ngữ. Tuy nhiên, các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính trong thực tế được phản ánh vào ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh xạ được phản ánh trong tự nhiên. Đó là nhưng mảnh, đoạn cắt của thực tế nhưng không hoàn toàn trùng khớp với thực tế. Nghĩa là, ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo lại, sáng tạo lại những cái có trong thực tế. b. Ý nghĩa biểu niệm Là phần nghĩa của từ liên quan hiểu biết về ý nghĩa biểu vật của từ. Sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan có các thuộc tính, các thuộc tính đó được phản ánh vào tư duy và hình thành nên khái niệm. Vậy nên, khái niệm là một phạm trù của tư duy được hình thành từ những hiểu biết trong thực tế. Đấy là những dấu hiệu bản chất về sự vật, hiện tượng. Khi các dấu hiệu bản chất đó được phản ánh qua ngôn ngữ sẽ hình thành nên nét nghĩa. Tập hợp các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ chính là ý nghĩa biểu niệm của từ. Như vậy, ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét nghĩa có những quan hệ nhất định. Tập hợp này ứng với một số ý nghĩa biểu vật của từ. Tập hợp các nét nghĩa phạm trù, khái quát chung cho nhiều từ được gọi là cấu trúc biểu niệm. Khi đề cập đến ý nghĩa biểu niệm của từ, ta cần có sự phân biệt thành phần nghĩa này với khái niệm. Khái niệm và ý nghĩa biểu niệm giống nhau ở chỗ chúng đểu sử dụng những vật liệu tinh thần của tư duy. Khái niệm có vai trò quyết định đối với ý 16 nghĩa biểu niệm, không có khai niệm sẽ không có ý nghĩa biểu niệm. Tuy nhiên, khái niệm không đồng nhất với ý nghĩa biểu niệm về mặt chức năng và tính phổ quát. Đó là: Về chức năng, khái niệm có chức năng nhận thức, phản ánh những thuộc tính, bản chất của sự vật, hiện tượng khách quan còn ý nghĩa biểu niệm có chức năng công cụ, tổ chức lời nói. Về tính phổ quát, khái niệm có tính chất chân lý, chung cho nhân loại trong khi ý nghĩa biểu niệm có tính dân tộc (có những ý nghĩa biểu niệm có mặt ở ngôn ngữ này mà không có mặt ở ngôn ngữ nào khác). c. Ý nghĩa biểu thái Là phần nghĩa của từ liên quan đến thái độ, cảm xúc, cách đánh giá. Sự vật, hiện tượng biểu thị trong ngôn ngữ đều là những sự vật, hiện tượng đã được nhận thức, được trải nghiệm bởi con người. Do đó khi gọi tên sự vật, hiện tượng, con người thường gửi kèm theo những cảm xúc, thái độ và cách đánh giá của bản thân vào ngôn ngữ. Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá, nhân tố cảm xúc, nhân tố thái độ… mà từ gợi ra cho người nói và người nghe. Do đó, ý nghĩa biểu thái độ có vai trò quan trọng trong việc định hướng dùng từ trong hoạt động giao tiếp cụ thể. d. Ý nghĩa ngữ pháp Theo Nguyễn Thiện Giáp (1998), khi nói đến ý nghĩa trong ngôn ngữ người ta thường nghĩ ngay đến nghĩa riêng của từng đơn vị (từ, câu…). Ý nghĩa riêng của từng từ được gọi là ý nghĩa từ vựng, còn ý nghĩa riêng của từng câu cũng thuộc phạm trù ý nghĩa từ vựng vì nó do ý nghĩa từng vựng của các từ trong câu trực tiếp tạo nên. Bên cạnh loại ý nghĩa trên, mỗi loại đơn vị còn có ít nhất một ý nghĩa chung bao trùm lên. Có thể đưa ta một định nghĩa tóm lược những điểm chính yếu về ý nghĩa ngữ pháp: Ý nghĩa ngữ pháp là loại ý nghĩa chung cho hàng loạt đơn vị ngôn ngữ và được thể hiện bằng những phương tiện ngữ pháp nhất định. Có nhiều hướng phân loại ý nghĩa ngữ pháp. 1.1.2.4. Hiện tượng chuyển nghĩa của từ Để có thể phản ánh được cái vô hạn và không ngừng phát triển của các sự vật trong đời sống cũng như sự phát triển của nhận thức con người, ngoài việc xuất hiện các từ mới với nội dung và hình thức hoàn toàn mới, sự xuất hiện các nghĩa chuyển là 17 cách tiết kiệm nhất của ngôn ngữ để phản ánh sự phát triển không ngừng của thế giới khách quan, đời sống và nhận thức của con người. Nguyễn Thiện Giáp đã chỉ ra “ sự biến đổi và phát triển không ngững của đời sống, sự phát triển của nhận thức và sự phát triển của hệ thống ngôn ngữ là ba nguyên nhân dẫn đến hiện tượng chuyển nghĩa – hiện tượng phái sinh ngữ nghĩa trong từ, khiến cho một từ có thể trở nên nhiều nghĩa” (từ đa nghĩa). [34] a. Nghĩa gốc Nghĩa gốc hay còn gọi là nghĩa cơ bản hay nghĩa cơ sở được hiểu là nghĩa đầu tiên hoặc nghĩa có trước, trê cở sở nghĩa đó mà người ta xây dựng nên nghĩa khác [18]. b. Nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển ) Nghĩa phái sinh hay còn gọi là nghĩa chuyển là nghĩa được hình thành dựa trên cơ sở nghĩa gốc, vì vậy chúng thường có nghĩa có lí do, được nhận ra qua nghĩa gốc của từ [18]. c. Mối quan hệ giữa nghĩa gốc và nghĩa phái sinh Theo quan điểm của các nhà nghiên cứu ngôn ngữ, nghĩa của từ được xem như một cấu trúc có thể tổ hợp từ các bộ phận, thành tố kết hợp thành, và ngược lại, cũng có thể phân tích nghĩa ra thành các thành tố cấu tạo nên nó. Nói cách khác, nghĩa của từ bao gồm các nét nghĩa được sắp xếp theo một trật tự nhất định, mang tính hệ thống. Tính hệ thống và cấu trúc thể hiện tròn quan hệ giữa các nét nghĩa trong một nghĩa, hay quan hệ giữa nghĩa gốc với các nghĩa phái sinh hoặc quan hệ giữa nghĩa của các từ cùng loại, … Trong một từ nhiều nghĩa, luôn tồn tại nghĩa gốc (nghĩa cơ bản, nghĩa cơ sở) và nghĩa phái sinh (nghĩa chuyển). Nghĩa gốc là nghĩa có trước. Còn nghĩa phái sinh là các nghĩa được hình thành sau này và dựa trên nghĩa gốc. Việc xác định nghĩa của từ, một mặt cần phải tách ra các nghĩa khác nhau, mặt khác phải làm sáng tỏ những mối liên hệ và sự quy định lẫn nhau giữa các nghĩa đó. Theo các nhà Việt ngữ học, các nghĩa phái sinh có thể quan hệ trực tiếp với các nghĩa gốc hoặc cũng có thể quan hệ gián tiếp với nghĩa gốc qua một ý nghĩa khác, song tất cả các nghĩa đều liên hệ lẫn nhau và làm thành một hệ thống. 1.1.2.5. Các phương thức chuyển nghĩa cơ bản Để xây dựng, phát triển thêm nghĩa của các từ, trong ngôn ngữ học có nhiều 18
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan