Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Tư duy hướng biển của các nhà cải cách việt nam nửa cuối thế kỷ xix...

Tài liệu Tư duy hướng biển của các nhà cải cách việt nam nửa cuối thế kỷ xix

.PDF
112
391
85

Mô tả:

CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT HỌC BỔNG CHƢƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG LẦN II NĂM 2013 LƢƠNG THỤY LAN HƢƠNG TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX HÀ NỘI, 2013 CÔNG TRÌNH THAM GIA XÉT HỌC BỔNG CHƢƠNG TRÌNH HỖ TRỢ NGHIÊN CỨU BIỂN ĐÔNG LẦN II NĂM 2013 TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM NỬA CUỐI THẾ KỶ XIX Học viên: Lƣơng Thụy Lan Hƣơng Khoa: Lịch Sử Trƣờng: ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn HN Khóa: QH-2012 HÀ NỘI, 2013 Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội BẢNG CHỮ VIẾT TẮT 1. HN Hà Nội 2. KHXH&NV Khoa học Xã hội và Nhân Văn 3. Nxb Nhà xuất bản 4. Sđd Sách đã dẫn 5. Tp Thành phố 6. Tr Trang Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội MỤC LỤC MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1 Chƣơng 1: TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN CỦA TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC ............. 5 1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX ................................ 5 1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X........................................ 5 1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV ..................... 8 1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX...... 11 1.2. Chính sách biển của triều Nguyễn ....................................................... 17 1.2.1. Chính sách đóng cửa với phương Tây................................................ 17 1.2.2. Chính sách phòng ngự bờ biển ........................................................... 24 1.2.2.1. Tuần tra trên biển .............................................................................. 26 1.2.2.2. Xây lực lượng thủy quân và các pháo đài ven biển ........................... 29 1.2.3. Chính sách tiễu trừ hải phỉ ................................................................. 40 Chƣơng 2: TƢ DUY HƢỚNG BIỂN CỦA CÁC NHÀ CẢI CÁCH VIỆT NAM NỬA CUỐI THỂ KỶ XIX ................................................................................ 52 2.1. Sự cần thiết phải khai phóng đất nƣớc ................................................ 52 2.2. Tƣ duy quân sự biển .............................................................................. 62 2.3. Mở thƣơng cảng biển ............................................................................. 76 2.4. Phát triển kinh tế biển ........................................................................... 84 2.4.1. Lập các hội buôn .................................................................................. 84 2.4.2. Khuyến khích hoạt động thương mại trên biển ................................. 88 2.4.3. Khai thác tài nguyên biển .................................................................... 90 2.5. Mở lớp học dạy về biển ......................................................................... 91 KẾT LUẬN .................................................................................................. 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................... 101 PHỤ LỤC ẢNH ........................................................................................... 105 Lƣơng Thụy Lan Hƣơng, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội MỞ ĐẦU 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu thuộc lĩnh vực đề tài Đề tài “Tư duy hướng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX” thuộc chuyên ngành Lịch sử Việt Nam. Tƣ duy hƣớng biển là một nội dung nằm trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc cuối thế kỷ XIX. Trong toàn bộ những tƣ tƣởng canh tân thì tƣ duy về biển đã đƣợc các nhà cải cách đặc biệt quan tâm. Tuy vậy, việc nghiên cứu về tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX ít đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý đến và chƣa có một đề tài nghiên cứu cụ thể nào về vấn đề này. Nghiên cứu về tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đã có rất nhiều tác phẩm, sách báo, bài nghiên cứu, tạp chí và các kỷ yếu hội thảo khoa học, tiêu biểu nhƣ: Cuốn sách “Tư tưởng canh tân đất nước dưới triều Nguyễn”, xuất bản năm 1999 của nhóm tác giả Đỗ Bang, Trần Bạch Đằng, Đinh Xuân Lâm, v.v..; gồm nhiều bài viết giới thiệu cuộc đời sự nghiệp và tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch,v.v..; những đề xuất trong tƣ tƣởng canh tân ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX. Triều Nguyễn với trào lƣu canh tân đất nƣớc, và trách nhiệm của triều Nguyễn trong sự thất bại của xu hƣớng đổi mới ở Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. Cuốn sách “Nguyễn Lộ Trạch và di thảo”, xuất bản năm 1995, do Nguyễn Văn Huyền biên dịch, gồm hai phần: Phần một tác giả giới thiệu về cuộc đời và sự nghiệp của nhà cải cách Nguyễn Lộ Trạch, trong đó tác giả cố gắng làm nổi bật lên tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của ông. Phần hai, tác giả tập hợp và dịch một số tác phẩm nổi tiếng của Nguyễn Lộ Trạch nhƣ “Quỳ ưu lục”, “Thời vụ sách” từ chữ Hán sang chữ Việt. Đây chính là nguồn tƣ liệu quan trọng để nghiên cứu về những tƣ tƣởng cải cách của Nguyễn Lộ Trạch. 1 Trong cuốn sách “Nguyễn Trường Tộ thời thế và tư duy cách tân”, xuất bản năm 2001 của tác giả Hoàng Thanh Đạm đã nghiên cứu về con ngƣời và cuộc đời của nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ; thái độ của ngƣời đời đối với ông khi ông đang sống và sau khi ông mất; hệ thống tƣ duy cách tân của Nguyễn Trƣờng Tộ… Năm 1999, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội đã ấn hành cuốn sách “Bùi Viện với sự nghiệp canh tấn đất nước cuối thế kỷ XIX” của Thế Văn và Quang Khải. Đây là công trình nghiên cứu về cuộc đời, thân thế, sự nghiệp của Bùi Viện, qua đó làm nổi bật lên tƣ tƣởng và hành động mới mẻ của ông. Cuốn sách “Đặng Huy Trứ con người và tác phẩm”, xuất bản năm 1990 của Đặng Hƣng Doanh và Bùi Văn Côn, viết về cuộc đời và sự nghiệp viết văn của Đặng Huy Trứ, đồng thời tập hợp những tác phẩm văn học của ông, qua đó thể hiện tƣ duy cách tân của Đặng Huy Trứ. Cuốn sách “Phạm Phú Thứ với tư tưởng canh tân”, xuất bản năm 1995, của nhóm tác giả Phạm Phú Hạt, Lâm Quang Huyên, Mai Thúc Luân... đề cập đến bối cảnh lịch sử, gia phả và truyền thống ham học của dòng họ Phạm Phú - tƣ tƣởng canh tân các mặt kinh tế, khoa học kỹ thuật, giáo dục, quốc phòng và ngoại giao... của Phạm Phú Thứ. Các công trình nêu trên tuy đã nghiên cứu một cách khá đầy đủ về tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của các nhà cải cách Nguyễn Trƣờng Tộ, Nguyễn Lộ Trạch, Bùi Viện, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ, v.v..; nhƣng chƣa đề cập sâu sắc và chƣa nghiên cứu một cách có hệ thống về tƣ duy hƣớng biển của họ. 2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu Việt Nam là quốc gia nằm ở phía đông nam của châu Á, từ lâu biển đã giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống kinh tế, quốc phòng của 2 ngƣời Việt Nam. Hiện nay, biển đảo là một trong những vấn đề quan trọng hàng đầu trong đời sống kinh tế, chính trị, an ninh quốc phòng và đối ngoại của Đảng, Nhà nƣớc và nhân dân ta. Bởi vậy, trong việc khẳng định và bảo vệ quyền lợi quốc gia đối với biển đảo cần đƣợc nhìn nhận từ nhiều khía cạnh, trong đó có tiến trình về tƣ duy biển của con ngƣời Việt Nam. Đồng thời để hƣớng tới một quốc gia kinh tế biển phát triển, điều cần thiết trƣớc tiên đòi hỏi ngƣời Việt Nam cần có một sự nhận thức đầy đủ về biển. Chính vì vậy, việc tìm hiểu những tƣ duy về biển của ngƣời Việt Nam trong lịch sử là rất cần thiết. Đặc biệt vào nửa cuối thế kỷ XIX, ở nƣớc ra đã có rất nhiều nhà cải cách đƣa ra những tƣ tƣởng tiến bộ, mang tính thời đại về vị trí, vai trò của biển nhƣ: Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, và Đinh Văn Điền. Những tƣ duy mới mẻ của họ có một ý nghĩa nhất định trong việc bảo vệ chủ quyền biển đảo và phát triển kinh tế biển hiện nay. 3. Mục tiêu nghiên cứu Mục tiêu nghiên cứu của khóa luận nhằm: - Làm rõ một phần tƣ duy về biển của ngƣời Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ XIX. - Làm rõ một phần bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và các chính sách biển của triều Nguyễn. - Làm rõ tƣ duy hƣớng biển trong tƣ tƣởng canh tân đất nƣớc của các nhà cải cách Việt Nam cuối thế kỷ XIX. 4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu Đối tƣợng nghiên cứu của khóa luận là những tƣ duy về biển của ngƣời Việt trƣớc nửa cuối thế kỷ XIX; bối cảnh kinh tế - xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX và hệ thống tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nhƣ Nguyễn Trƣờng Tộ, Bùi Viện, Nguyễn Lộ Trạch, Phạm Phú Thứ, Đặng Huy Trứ… 3 Phạm vi nghiên cứu của khóa luận chủ yếu nằm trong khoảng thời gian nửa cuối thế kỷ XIX, dƣới triều vua Tự Đức (1847 – 1883), với không gian là xã hội Việt Nam. 5. Phƣơng pháp nghiên cứu Để thực hiện khóa luận này, tôi đã sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu nhƣ: phƣơng pháp nghiên cứu lịch sử, phƣơng pháp phân tích tài liệu, phƣơng pháp đối chiếu, phƣơng pháp so sánh, v.v... 6. Bố cục Bố cục của khóa luận ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo và phụ lục, gồm 2 chƣơng: - Chƣơng 1: Tƣ duy biển của ngƣời Việt Nam và chính sách biển của triều Nguyễn trƣớc khi thực dân Pháp xâm lƣợc. - Chƣơng 2: Tƣ duy hƣớng biển của các nhà cải cách Việt Nam nửa cuối thế kỷ XIX. 4 Chƣơng 1 TƢ DUY BIỂN CỦA NGƢỜI VIỆT NAM VÀ CHÍNH SÁCH BIỂN CỦA TRIỀU NGUYỄN TRƢỚC KHI THỰC DÂN PHÁP XÂM LƢỢC 1.1. Tƣ duy biển của ngƣời Việt trƣớc thế kỷ XIX 1.1.1. Tư duy biển của người Việt trước thế kỷ X Nằm ở vùng chân dãy núi Himalaya, trong khu vực châu Á gió mùa, nên Đông Nam Á đƣợc coi là một trong những trung tâm xuất hiện sớm của cây lúa nƣớc. Trong lịch sử, cây lúa đã trở thành nguồn sống, là cơ sở kinh tế chủ yếu của ngƣời Việt. Cuộc sống của ngƣời Việt đƣợc gắn liền với nƣớc và phƣơng thức canh tác lúa nƣớc, vì vậy từ xa xƣa ngƣời Việt đã sớm bộc lộ những tƣ duy về sông nƣớc. Sự bộc lộ đó thể hiện rõ trong các truyền thuyết nhƣ Lạc Long Quân - Âu Cơ, Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, Mai An Tiêm, Chử Đồng Tử - Tiên Dung, Dã Tràng, v.v.. Các triều đình phong kiến Việt Nam cũng đã sớm có ý thức bảo vệ chủ quyền trên biển đảo và xây dựng lực lƣợng thuỷ quân. Nhƣng nhìn chung, cƣ dân ngƣời Việt vẫn chƣa đánh giá đầy đủ vị trí của biển và chƣa chú ý đến biển. Tƣ duy của ngƣời Việt chủ yếu là “tư duy đất liền”, “xa rừng nhạt biển”, coi trọng kinh tế nông nghiệp hơn là khai thác những tiềm năng kinh tế biển. Việt Nam có hơn 3.000 km đƣờng bờ biển và là nƣớc có chỉ số duyên hải ISCL (Index of Sea Coastal Line) cao. Chỉ số duyên hải cao và môi trƣờng kinh tế đảo, bán đảo là điều kiện thuận lợi để nƣớc ta có thể thiết lập và mở rộng quan hệ giao thƣơng với thế giới bên ngoài. Tuy nhiên, ngƣời Việt ít chú trọng khai thác biển. Việt Nam không có nền kinh tế thƣơng mại và hàng hải phát triển, không có nền văn hoá hải dƣơng, khai phóng và hội nhập nhƣ cƣ dân các nƣớc khu vực Địa Trung Hải hay một vài quốc gia ven biển khác trên thế giới. Ngƣời Việt xƣa không có truyền thống đi xa và buôn bán đƣờng dài. Ngƣời Việt có làm cảng ở sông, ở biển, nhƣng chủ yếu là để buôn bán nội vùng, khá hơn là liên vùng trong nƣớc. Ngƣời Việt thụ động 5 trông chờ ngƣời nƣớc ngoài đến buôn bán mà không chủ động đóng tàu thuyền ra nƣớc ngoài buôn bán. Có thể thấy ngƣời Việt khá bị động trƣớc biển. Mối liên hệ kinh tế văn hoá giữa Đại Việt với các nƣớc Đông Nam Á hay châu Á, ngoại trừ trƣờng hợp Trung Quốc, không thực sự sâu sắc và thƣờng xuyên. Sự hiểu biết của ngƣời Việt về địa lý, lịch sử, kinh tế các nƣớc trên thế giới, kể cả các quốc gia láng giềng cũng rất hạn hẹp. Đó là một hạn chế của ngƣời Việt Nam trong việc khai thác các thế mạnh và tiềm năng của biển. Vào những thế kỷ sau Công Nguyên, mặc dù đã làm chủ đƣợc hầu khắp vùng đồng bằng sông Hồng và chinh phục đƣợc một số dải đất ven biển nhƣng ngƣời Việt vẫn không thể (và thực tế là không cần) vƣợt ra khỏi không gian kinh tế nông nghiệp truyền thống để tiến ra biển: “Cái không gian sinh tồn cụ thể và độc đáo này đã đào luyện nên tính cách hạ bạn, tâm lý hoá thân vào đồng đất và mở rộng bờ cõi với hướng chảy dọc theo các đồng bằng ven biển”1. Tập quán sinh sống định cƣ gắn chặt với đồng đất và nguồn cung cấp thực phẩm đa dạng, lƣợng thuỷ sản nƣớc ngọt khá phong phú của một không gian địa - kinh tế ẩm, trũng miền chân núi là nguyên nhân chính yếu kiềm toả sức vƣơn ra biển, nhu cầu muốn chinh phục biển khơi của ngƣời Việt. Biển là một thế giới quá mênh mông, mơ hồ và đầy hiểm nguy trong tâm thức của ngƣời Việt. Ngƣời Việt cũng có truyền thống đóng thuyền đi trên sông nƣớc nhƣng đó chủ yếu là các thuyền đi trong sông, eo, vịnh… chứ chƣa thực sự là thuyền đi biển, có thể vƣợt xa đại dƣơng. Mặt khác, do tác động của tƣ tƣởng trọng nông ức thƣơng, nền thƣơng nghiệp Việt Nam, trong đó có ngoại thƣơng, luôn đƣợc coi là ngành kinh tế phụ, không căn bản. Ngay cả những làng, những vùng có truyền thống ngƣ 1 Nguyễn Văn Kim: “Hệ thống buôn bán ở biển Đông thế kỷ XVI- XVII và vị trí của một số thƣơng cảng Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 1, năm 2002, tr. 45. 6 nghiệp, buôn bán trên sông nƣớc vẫn thƣờng có và luôn giữ một khoảnh đất để canh tác nông nghiệp và thờ cúng tổ tiên. Đặc tính đó thể hiện rõ tƣ duy hƣớng nội là chủ yếu trong tƣ tƣởng kinh tế và văn hoá truyền thống của ngƣời Việt. Trong kho tàng văn hóa dân tộc từ thời dựng nƣớc cũng có rất nhiều huyền thoại, truyền thuyết gắn liền với tâm thức của các cộng đồng cƣ dân về biển. Biển là điểm khởi nguồn đồng thời cũng là nơi trở về của nhiều nhân vật huyền thoại. Huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ kết duyên với nhau sinh ra một trăm ngƣời con để rồi lại phân chia ra, nửa theo Mẹ về Núi, nửa theo Cha xuống Biển, và những khi ở trên Lục quốc có chuyện, Long Quân vẫn luôn trở về đất liền để cứu giúp nhân dân. Huyền thoại Lạc Long Quân – Âu Cơ đã thể hiện mối liên hệ giữa Đất và Nước trong tâm thức của ngƣời Việt cổ. Trên một bình diện khác, truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh là sự thể hiện sức mạnh và cuộc đấu tranh không ngừng nghỉ giữa hai thế lực Núi và Nước. Ngƣời ta hay lấy cuộc hận thù duyên phận giữa hai con ngƣời – hai vị thần tài giỏi để luận giải về truyền thống khai phá, giành giật đất đai, xây dựng hệ thống thủy nông. “Huyền thoại đó còn là ký ức về một cuộc đại chuyển cư, mở mang châu thổ do tác động của quá trình biển tiến, biển lùi trong lịch sử xa xưa của người Việt”2. Với tập quán canh tác lúa nƣớc thì hiện tƣợng nƣớc dâng lên rồi rút đi là một trong những điều kiện không thể thiếu đƣợc cho sự phát triển trù phú, mùa màng bội thu. Chính vì vậy, từ xa xƣa, ngƣời Việt vừa có tâm lý sợ nƣớc (nhất thủy, nhì hỏa) vừa cầu nƣớc và mong nƣớc về. “Nước là một bộ phận hợp thành của truyền thống văn hóa, khắc đậm trong tư duy, trong quá trình đấu tranh dựng nước, giữ nước và cả 2 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển, đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, trích trong cuốn Người Việt với biển, Nguyễn Văn Kim chủ biên, Nxb. Thế giới, HN, 2011, tr. 40. 7 trong thế giới huyền thoại của người Việt cổ”3. Tƣ duy về biển của ngƣời Việt cổ không chỉ đƣợc thể hiện qua các huyền thoại và truyền thuyết từ xa xƣa mà còn đƣợc thể hiện qua các di chỉ khảo cổ học của các nền văn hóa nhƣ Văn hóa biển Hạ Long thời kỳ hậu đá mới, Văn hóa Đông Sơn, Văn hóa Sa Huỳnh của thời đại kim khí hay cả Thể chế biển Phù Nam và Chămpa sau đó. Mặc dù đã có những bằng chứng cho thấy sự tồn tại về một tƣ duy biển của ngƣời Việt cổ trƣớc thế kỷ X nhƣng nó dƣờng nhƣ cũng chƣa mấy rõ ràng. Mai An Tiêm bị đày ra đảo hoang đã trồng dƣa hấu để trao đổi với những tàu buôn đi qua đó lấy các vật dụng và thực phẩm, nhƣng cuối cùng cũng quay trở lại đất liền. Khi nỏ thần mất tác dụng và bị quân địch đánh cho thua trận, An Dƣơng Vƣơng đã bỏ chạy ra đến bờ biển rồi rút gƣơm tự vẫn. Nghề đánh bắt cá hay cƣ dân sống trên sông nƣớc đƣợc phản ánh trong chuyện cổ tích với những nhân vật nhƣ Trƣơng Chi, Chử Đồng Tử, v.v..; luôn có vị thế xã hội thấp kém hơn ngƣời và nghề khác. Mối tình của chàng đánh cá Trƣơng Chi với cô gái con nhà quyền quý kết thúc trong bi thảm. Còn Chử Đồng Tử, chàng trai nghèo đến nỗi thân không một mảnh khố, chỉ có thể đổi đời bằng việc kết hôn với công chúa con vua. Truyền thuyết Dã Tràng thì phản ánh sự bất lực của con ngƣời trƣớc biển: “Dã tràng xe cát biển Đông Nhọc nhằn mà chẳng nên công cán gì” Tuy nhiên, chính những tƣ duy sơ khai, ban đầu ấy đã tạo nền tảng cho ngƣời Việt có một tƣ duy đầy đủ hơn về biển trong những thế kỷ sau đó. 1.1.2. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ X đến thế kỷ XV Từ thế kỷ X trở đi, sau chiến thắng trên sông Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền, Việt Nam bƣớc vào kỷ nguyên độc lập tự chủ. Ý thức sâu sắc về 3 Nguyễn Văn Kim: “Từ huyền thoại về biển đến cơ tầng văn hóa biển; nhận thức về biển, đảo trong nghiên cứu lịch sử, văn hóa dân tộc”, Sđd, tr. 40. 8 chủ quyền đất nƣớc, các vƣơng triều phong kiến đã có sự quan tâm nhất định tới vấn đề biển đảo. Các vƣơng triều phong kiến đầu tiên Ngô – Đinh – Tiền Lê đã chú trọng đến việc xây dựng các căn cứ, chốt thủy quân ở vùng Đông Bắc mà trọng tâm là cửa sông Bạch Đằng. Triều Lý (thế kỷ XI-XIII) đã chú ý đến việc buôn bán với nƣớc ngoài bằng đƣờng biển (Trung Quốc và một số nƣớc Đông Nam Á). Công việc quan trọng đầu tiên của vua Lý Anh Tông (1139 - 1175) (và cũng có thể đƣợc coi là của cả Vƣơng triều Lý) đối với các vùng biển đảo là đặt ra hành dinh ở trại Yên Hƣng (Quảng Ninh) vào tháng 10 - 1147 nhƣ là một cơ quan quản lý của triều đình trung ƣơng đối với cửa ngõ yết hầu sông nƣớc quan trọng nhất của đất nƣớc, cũng nhƣ toàn bộ các vùng biển đảo của quốc gia Đại Việt nói chung. Sau đó, tháng 2 – 1149, nhân việc thuyền buôn 3 nƣớc Trảo Oa (Java, Indonesia), Lộ Lạc và Xiêm La (đều thuộc Thái Lan ngày nay) vào Hải Đông xin cƣ trú buôn bán, vua Lý Anh Tông “bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồn để mua bán hàng hóa quý, dâng tiến sản vật địa phương”4. “Vượt ra khỏi ý nghĩa quốc gia về chiến lược phát triển kinh tế, trên phương diện hải thương khu vực và quốc tế, việc nhà Lý lập trang Vân Đồn có ý nghĩa hết sức quan trọng, đánh dấu sự dự nhập của quốc gia Đại Việt vào hệ thống hải thương khu vực và quốc tế qua khu vực Biển Đông”5. Ở khu vực phía nam, các trung tâm trao đổi ở vùng Nghệ – Tĩnh cũng có điều kiện phát triển, thu hút một lƣợng lớn thƣơng nhân từ Trung Quốc và Đông Nam Á đến buôn bán. Không chỉ chú ý đến việc mở mang thƣơng nghiệp, năm 1171, đích thân nhà vua đã “đi tuần các hải đảo, xem khắp hình thế núi sông, muốn biết dân tình đau khổ và đường đi xa gần thế nào”6. Tháng 2 – 1172, nhà vua “lại đi tuần các hải đảo ở địa giới các phiên bang Nam Bắc, vẽ bản đồ ghi chép 4 Đại Việt sử kí toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1993, tr. 317. Hoàng Anh Tuấn: “Vị trí của Việt Nam trong hệ thống thƣơng mại biển Đông thời cổ trung đại”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 9-10/2008, tr. 6. 6 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 325. 5 9 phong vật”7. Đồng thời, vua Lý Anh Tông liên tục cho đóng nhiều thuyền lớn tham gia vào việc kiểm tra, kiểm soát, khai thác và bảo vệ các vùng sông nƣớc, biển đảo nhƣ các thuyền hiệu Vĩnh Long, Thanh Lan, Trƣờng Quyết, Phụng Tiên, Nhật Long, Ngoạn Thủy… Có thể khẳng định, trong triều Lý và nhiều vƣơng triều phong kiến khác ở nƣớc ta, hiếm có vị vua nào lại có ý thức sâu sắc về chủ quyền biển đảo và quan tâm đến việc phát triển thƣơng mại biển nhƣ vua Lý Anh Tông. Kế tục sự nghiệp của nhà Lý, Đại Việt từ cuối thời Trần và đầu thời Lê, vai trò của thƣơng cảng Vân Đồn và vùng cảng biển Đông Bắc trong hệ thống hải thƣơng khu vực và quốc tế ở Biển Đông đƣợc biết đến nhiều qua chức năng trung chuyển và xuất khẩu gốm sứ từ Trung Quốc ra thị trƣờng khu vực, đồng thời đƣa gốm sứ Đại Việt (men nâu thời Trần và men lam thời Lê Sơ) ra thị trƣờng quốc tế. Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XV, vua Hồng Đức (1460-1497), đã có những chính sách thiếu tính tích cực đối với vấn đề ngoại thƣơng và khu vực hải cảng Vân Đồn cũng nhƣ toàn bộ vùng Đông Bắc. Điều này đã tác động tiêu cực đến sự phát triển của Vân Đồn nói riêng và toàn khu vực hải cảng Đông Bắc nói chung trong thời kỳ nhà Lê trị vì. Cho đến cuối thế kỷ XV, hải cảng Vân Đồn dƣờng nhƣ đã suy tàn và không còn là điểm đến của các thƣơng nhân nƣớc ngoài. Bên cạnh việc quan tâm đến ngoại thƣơng thì các vƣơng triều phong kiến Lý, Trần và Lê cũng đã chú ý đến việc xây dựng và phát triển lực lƣợng thủy quân để bảo vệ nƣớc nhà trƣớc sự xâm lƣợc của phƣơng Bắc. Trong và sau ba cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Mông – Nguyên thế kỷ XIII, nhà Trần luôn ý thức sâu sắc về vai trò và vị thế của biển, đảo trong việc bảo vệ chủ quyền, an ninh đất nƣớc. Nhà Trần ba lần chống quân Mông Nguyên đều có sự tham gia của lực lƣợng thủy quân. Chiến thắng Vân Đồn và chiến thắng Bạch Đằng năm 1288 cũng nhƣ các cuộc rút lui chiến lƣợc của quân 7 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Sđd, tr. 326. 10 dân Đại Việt về vùng duyên hải Đông Bắc đã cho thấy nghệ thuật quân sự của quý tộc nhà Trần nhằm phát huy tối đa lợi thế của điều kiện tự nhiên để chế ngự và chiến thắng kẻ thù. Nhìn chung, các triều đình phong kiến Việt Nam từ thế kỷ X đến thế kỷ XV hầu nhƣ chƣa thể hiện một tƣ duy toàn diện về biển. Ngƣời Việt chỉ khai thác biển nhƣ một nguồn tài nguyên tự nhiên, và những chính quyền phong kiến chỉ quan tâm tới việc phòng thủ biển để bảo vệ đất liền, chứ chƣa kết hợp đƣợc phát triển kinh tế biển với phát triển ngoại thƣơng và củng cố quốc phòng. 1.1.3. Tư duy biển của người Việt từ thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XIX Từ thế kỷ XVI trở đi, do sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn phong kiến, Đại Việt bị tách thành hai tiểu quốc là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Một bộ phận cƣ dân ở Đàng Trong phải từng bƣớc di cƣ xuống phía Nam men theo bờ biển. Chính sách khai phá các vùng đất hoang vu, quan tâm đến nông nghiệp, mở rộng thủ công nghiệp và phát triển ngoại thƣơng của các chúa Nguyễn đã tạo điều kiện cho kinh tế Đàng Trong phát triển. Nhiều đô thị ven biển và các hải cảng nổi tiếng nhƣ Hội An, Thanh Hà, Gia Định đƣợc hình thành và phồn thịnh. Quan hệ buôn bán giữa Đàng Trong với các nƣớc Đông Bắc Á, Đông Nam Á và một số nƣớc phƣơng Tây đƣợc thiết lập và phát triển. Trong tác phẩm “Tư Dung Vãn” của Đào Duy Từ đã nói tới những cánh buồm của thƣơng nhân trên vùng biển miền Trung: “Buồm ai dàng dạng chân trời”8. Đƣợc biết đến là thƣơng cảng lớn nhất của Đàng Trong, lại nằm ở vị trí giao thƣơng quốc tế thuận lợi, Hội An nhanh chóng trở thành cửa ngõ giao thƣơng và đối ngoại quan trọng nhất với thế giới bên ngoài. Thƣơng cảng này đã đóng góp cho ngân sách chính quyền một lƣợng thuế lớn, giúp chúa 8 Lê Tiến Công:“Vị thế của biển trong cái nhìn của các vua đầu triều Nguyễn”, Tạp chí Xưa và Nay, số 275 và 276, 2007, tr. 46. 11 Nguyễn có đƣợc nguồn tài chính vững chắc để xây dựng quân đội, củng cố chính quyền và đƣơng đầu với các cuộc tấn công của chính quyền Lê – Trịnh. Sau thƣơng cảng Hội An thế kỷ XVI - XVII, ngƣời Việt Nam ở Đàng Trong lại có thêm thƣơng cảng Hà Tiên thế kỷ XVIII… Các đền miếu thờ Long Vƣơng, Hải thần, phong tục thờ Cá Ông và các bài vè đi biển phổ biến suốt vùng duyên hải Việt Nam từ đèo Hải Vân trở vào Nam còn cho thấy ngƣời Việt Nam ở Đàng Trong đã nhất hóa nhiều yếu tố biển vào với sinh hoạt vật chất và tinh thần của cộng đồng mình. Bên cạnh việc mở mang phát triển kinh tế thì “Chúa Nguyễn Hoàng đã sớm chăm lo xây dựng các đội thuyền, mở cửa buôn bán với nước ngoài để phát huy sức mạnh trong nước và chuẩn bị những bước đi đầu tiên cho việc chiếm lĩnh các quần đảo giữa biển Đông. Công việc thực thi chủ quyền ở khu vực hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thật sự được bắt đầu khi chúa Nguyễn Phúc Nguyên lên nắm quyền và đặt ra các đội Hoàng Sa đặc trách công việc khai thác và bảo vệ Biển Đông từ tuyến ngoài. Đây là một phương thức thực thi chủ quyền độc đáo của nhà nước Việt Nam trên các vùng quần đảo giữa Biển Đông mà không có bất cứ một quốc gia nào trong khu vực có được”9. Trên thế giới, từ thế kỷ XVII trở đi là thời kỳ sôi động của các hệ thống thƣơng mại Đông - Tây, các “đế chế đại dương” bắt đầu chiếm ƣu thế đồng thời chấm dứt thời kỳ hoàng kim của các “đế chế lục địa”. Các “Quốc gia thương nghiệp” đƣợc hình thành ở vùng hải đảo, hoặc khu vực ven biển phát triển rực rỡ. Từ đó, biển trở thành một nhân tố hết sức quan trọng trong việc phát triển kinh tế và chiến lƣợc quốc phòng của mỗi quốc gia. Với quyết tâm trở thành một lực lƣợng chính trị độc lập có thể đối chọi lại với Đàng Ngoài và mở rộng lãnh thổ về phía Nam, các chúa Nguyễn 9 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 12 không ngừng phát triển lực lƣợng hải quân. Qua một số ghi chép của các tác giả nƣớc ngoài thì thủy quân của Đàng Ngoài đƣợc trang bị số thuyền chiến nhiều hơn so với Đàng Trong. Theo Alexandre de Rhodes, số lƣợng thuyền chiến của Đàng Ngoài là khoảng 500 hay 600 thuyền, nhiều hơn gấp ba lần con số 200 thuyền của Đàng Trong10. Tuy chiến thuyền của Đàng Trong ít hơn nhƣng các chúa Nguyễn luôn tìm cách tăng số lƣợng thuyền và mở rộng lực lƣợng thủy binh. Theo C. Borri, Đàng Trong thƣờng xuyên cƣớp thuyền của Đàng Ngoài. Mặt khác, họ thực hiện triều cống với nhà Trịnh để đổi lấy gỗ đóng thuyền, gả con gái cho vua Campuchia để nhận đƣợc sự giúp đỡ về thuyền chiến và binh lính nhằm chống lại sự gây hấn của quân Xiêm11. Chính vì vậy, sức mạnh thủy quân của Đàng Trong đến năm 1695 đã tăng lên một cách đáng kinh ngạc. Điều chắc chắn là, nhờ có các phƣơng tiện đi biển lớn và an toàn đó mà chính quyền Đàng Trong (Nguyễn Phúc Chu) đã thành lập đội Hoàng Sa, cho thuyền đến các đảo Hoàng Sa, Bắc Hải (Trƣờng Sa) để khai thác nguồn lợi hải sản, thu gom hóa vật, đo đạc hải trình và xác lập chủ quyền trên các đảo đại dƣơng của Tổ quốc. Cũng chính vì đạt đƣợc sự cân bằng về tƣơng quan lực lƣợng nên chúa Trịnh đã phải đồng ý ký thỏa hiệp ngừng chiến, chấp nhận Đàng Trong nhƣ là một thế lực chính trị độc lập. Sau khi cuộc nội chiến Đàng Trong – Đàng Ngoài kết thúc, chúa Trịnh ở phía Bắc không còn chú tâm phát triển lực lƣợng thủy quân nữa mà tận dụng thời gian yên bình để phát triển kinh tế. Ngƣợc lại, chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tích cực sắm thêm thuyền, phát triển thủy quân, phục vụ cho chiến lƣợc mở rộng thế lực trong suốt thế kỷ XVIII. Trong khi các chúa Nguyễn tích cực quan tâm đến việc phát triển ngoại thƣơng và quân sự thì ở Đàng Ngoài, nhà nƣớc Lê – Trịnh cũng đã thực hiện chính sách thông thoáng hơn đối với các nhà buôn phƣơng Tây. 10 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, trích trong cuốn Người Việt với biển, Sđd, tr. 508. 11 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, Sđd, tr. 509. 13 Thƣơng nhân Hà Lan và sau đó là thƣơng nhân Anh đã đƣợc cho phép đến buôn bán, xây dựng nhà cửa, cửa hiệu tại một số nơi ở Phố Hiến hay kinh thành Thăng Long. Thế kỷ XVII – XVIII có thể đƣợc coi là giai đoạn phát triển phồn thịnh nhất của nền ngoại thƣơng Việt Nam thời phong kiến. Mặc dù các chúa Nguyễn ở Đàng Trong vẫn tiếp tục quan tâm đến việc mở rộng lực lƣợng thủy quân vào cuối thế kỷ XVII đầu thế kỷ XVIII, nhƣng sự phát triển đột phá về sức mạnh hải quân của Việt Nam chỉ có đƣợc là vào cuối thế kỷ XVIII, cùng thời điểm với sự nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn. Trong lịch sử phát triển của phong trào nông dân Tây Sơn, ngay từ thời kỳ đầu đã có nhiều lần xuất quân vƣợt biển từ Qui Nhơn tấn công vào Gia Định làm tan rã lực lƣợng cát cứ của chúa Nguyễn, tiêu diệt gần 4 vạn quân xâm lƣợc Xiêm. Đến năm 1786, sau khi giải phóng hoàn toàn đất Đàng Trong, Nguyễn Huệ kéo đại quân ra Bắc tiêu diệt chế độ thống trị của họ Trịnh. Riêng đạo quân tiên phong tập kết ở Vị Hoàng trƣớc khi đánh thẳng vào Thăng Long cũng có tới 400 chiến thuyền12. Đến cuối năm 1788, sau khi lên ngôi hoàng đế, Quang Trung - Nguyễn Huệ tổ chức một cuộc hành quân thần tốc ra Bắc diệt giặc Thanh. Phƣơng tiện vận chuyển binh lính, vũ khí, quân lƣơng trong cuộc hành quân thần tốc này cũng chủ yếu là thuyền. Nét độc đáo trong chiến dịch đại phá quân Thanh đầu năm Kỷ Dậu 1789 là quân Tây Sơn đã xây dựng đƣợc phòng tuyến thuỷ bộ liên hoàn Tam Điệp - Biện Sơn làm bàn đạp cho ba đạo quân tấn công chính diện trên bộ và hai đạo quân thuỷ vƣợt biển bao vây sau lƣng địch. Sau khi chiến thắng vẻ vang thù trong, giặc ngoài, trong chủ trƣơng xây dựng quân đội, vua Quang Trung muốn phát triển một cách tƣơng đối hài hoà các binh chủng bộ binh, thuỷ binh, tƣợng binh, pháo binh để phát huy sức mạnh tổng hợp của quân đội. Ông đặc biệt quan tâm bảo vệ chủ quyền trên biển, chăm lo xây dựng và phát triển lực lƣợng thủy binh, quyết tâm đƣa 12 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 14 hải quân lên hàng quân chủng: “Chiến thuyền của Tây Sơn bao gồm nhiều loại, trong đó loại lớn trọng tải đến 900 tấn, có thể chở được voi chiến hoặc có khi chở được 700 lính và 60 khẩu đại bác”13. Trong quá trình xây dựng và phát triển lực lƣợng thuỷ quân, hải quân đáp ứng những đòi hỏi ngày càng cao của đất nƣớc, các vƣơng triều Tây Sơn, đặc biệt là triều Quang Trung và Cảnh Thịnh đều đặc biệt chú ý đến việc khai thác, sử dụng lực lƣợng Tàu Ô đang có mặt trên Biển Đông. Họ là những ngƣời giỏi đi biển hay chuyên hoạt động trên biển hoặc vì trung thành với triều đình nhà Minh, hoặc vì chống đối chính quyền Mãn Thanh mà bị đánh đuổi phải phiêu bạt, nƣơng náu trên vùng biển đảo. Không ít trong số họ đã kết lại thành các băng đảng cƣớp biển khét tiếng. Triều Tây Sơn đã ban nhiều tờ chiếu khuyến dụ lực lƣợng này qui thuận. Chiếu dụ Tàu Ô viết dƣới thời Quang Trung từng vạch rõ họ “ra vào nơi bể nước, tụ tập đồ đảng lấy việc cướp bóc làm kế sinh nhai, có lẽ cũng là việc bất đắc dĩ, phần vì thiếu miếng ăn nên phải làm bậy, phần vì những chính sách bạo ngược xua đẩy”14 và kêu gọi họ sớm đầu hàng. Quang Trung luôn “mở lòng bao dung, tuỳ tài cất dụng” và chiều theo sở nguyện của từng ngƣời, thậm chí chấp thuận cho cả “những người có chí lớn, muốn xông pha nơi ngọn sóng cùng hải đảo”15. Qui thuận những ngƣời Trung Quốc xiêu dạt sống gửi trên mặt biển và sử dụng họ tham gia vào công việc giữ gìn Biển Đông là một chính sách quan trọng và có hiệu quả cao của vƣơng triều Tây Sơn. Sự phát triển của sức mạnh hải quân Việt Nam cuối thế kỷ XVIII làm kinh ngạc tất cả những ngƣời châu Âu khi họ đến đây. John Barrow, một ngƣời Anh đến Đàng Trong vào những năm 1792-1793 đã miêu tả tỉ mỉ kỹ nghệ đóng thuyền của ngƣời Đàng Trong nhƣ là một trong những nghề mà họ 13 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 14 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 15 Nguyễn Quang Ngọc: “Biển Đông trong chiến lƣợc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc của vƣơng triều Tây Sơn”, http://baotangnhanhoc.org. 15 thành thạo nhất. Ông nhấn mạnh đến kỹ thuật chia đáy thuyền thành các khoang khác nhau và vì thế thuyền sẽ không bị chìm dù va phải đá ngầm. Theo J. Barrow, kỹ nghệ đóng thuyền này thậm chí đang đƣợc áp dụng cho hải quân của hoàng gia Anh16. Thủy quân Tây Sơn đƣợc đánh giá là một trong những lực lƣợng thủy quân mạnh nhất trong khu vực Đông Nam Á thời bấy giờ. Cùng với việc phát triển lực lƣợng thủy quân hùng mạnh nhà Tây Sơn cũng tăng cƣờng thực thi chủ quyền trên các quần đảo ngoài Biển Đông, đặc biệt là ở Hoàng Sa và Trƣờng Sa. Giống nhƣ các chúa Nguyễn trƣớc đây nhà Tây Sơn vẫn tiếp tục tổ chức các đội Hoàng Sa và Bắc Hải với chức năng chủ yếu là bảo vệ và khai thác vùng quần đảo xa giữa biển Đông. Trên thực tế hải quân Tây Sơn đã kiểm soát đƣợc các tuyến giao thông, giao thƣơng trên Biển và là chủ nhân của các vùng đảo, quần đảo kể cả khu vực ven bờ và giữa biển Đông. Nguyễn Ánh, hơn ai hết, hiểu rất rõ thế mạnh của thuỷ quân, hải quân Tây Sơn nên từ đầu những năm 1790 đã mời và đặc biệt trọng dụng anh em nhà Dayot (Jean Marie Dayot và Felix Dayot) trong chủ trƣơng xây dựng lực lƣợng hải quân, đóng mới tàu chiến hiện đại và điều tra thám sát, vẽ bản đồ các hải cảng, bờ biển và toàn bộ vùng biển, đảo một cách khoa học, có hệ thống với chất lƣợng chuyên môn cao. Anh em nhà Dayot đã góp phần rất quan trọng giúp cho Nguyễn Ánh tạo ra năng lực trội vƣợt của hải quân, thuỷ quân Nguyễn, làm cơ sở đánh bại lực lƣợng hải quân, thuỷ quân Tây Sơn vốn rất mạnh nhƣng lại sớm bị rơi vào tình trạng tàn tạ và tan tác của vƣơng triều giai đoạn cuối mùa. Sự thất bại của hải quân Tây Sơn trƣớc hải quân Nguyễn Ánh không hề phủ định một thời hoàng kim mạnh mẽ và oai hùng của nó, nhất là vào những năm dƣới thời Quang Trung và đầu thời Quang Toản. 16 Phạm Văn Thủy: “Thủy quân Việt Nam thế kỷ XVII, XVIII và đầu thế kỷ XIX qua các nguồn sử liệu phương Tây”, Sđd, tr. 515. 16
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan