Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Tự do hóa tài khoản vốn kinh nghiệm của uganda...

Tài liệu Tự do hóa tài khoản vốn kinh nghiệm của uganda

.PDF
21
86
86

Mô tả:

Tiểu luận TỰ DO HÓA TÀI KHOẢN VỐN – KINH NGHIỆM CỦA UGANDA Trình bày bởi Louis A. Kasek ende - Đại diện ngân hàng Uganda Viện Phát triển Hải ngoại 1 I. Gi ới thiệu Trong hai thập kỷ qua, cơ cấu kinh tế thế giới cơ bản đã được chuyển đổi với sự gia tăng toàn cầu hoá thị trường tài chính và các vấn đề liên quan đến sự luân chuyển vốn giữa các quốc gia đã trở thành trọng tâm của hệ thống tiền tệ quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ của hội nhập tài chính thế giới đã được thúc đẩy bởi sự nới lỏng kiểm soát vốn và mở rộng tự do hóa tài chính ở hầu hết các n ước, cũng như s ự phát triển củ a khoa học viễn thông và công nghệ mới đã tạo điều kiện cho việc chuyển vốn ra nước ngoài. Đối với Uganda, việc tự do tài khoản vốn đã được thực hiện từ tháng 7/1997. Sau đó dòng vốn đã được phép tự do luân chuyển giữa Uganda và các nước trên thế giới, dòng vốn này cho phép cả người cư trú và không cư trú được giữ tài khoản ngoại tệ trong hệ thống n gân hàng trong nước và cho phép người cư trú nắm giữ tài khoản ngoại tệ và các giấy tờ có giá ở n ước ngoài. Tự do hóa tài khoản vốn được thực hiện như là một phần trong một loạt các chính sách cải cách và ổn định mà đã được cam kết từ năm 1987. Trước khi tự do hóa, thị trường song song (thị trường chợ đen) chiếm một tỷ lệ đáng kể trong các giao dịch kinh tế. Chẳng hạn, hơn một nửa xuất khẩu chính của quốc gia là cà p hê đã được nhập lậu vào Kenya. Mặt khác các đại lý còn tham gia vào kinh doanh chênh lệch giá giữa thị trường chính thức và thị trường song song không chỉ ở tài sản tài chính và ngoại hối mà còn ở hàng hoá. Điều này đã làm giả m hiệu quả cho nền kinh tế. Trong bối cảnh đó, khái niệm về tự do hóa tài khoản vốn đã loại bỏ tình trạng không rõ ràng như trên trong nền kinh tế Uganda. Quan trọng cần lưu ý là ngay khi áp dụng chính sách tự do hóa, thực thi đầy đủ các việc kiểm soát hiện tại là điều không thể thực hiện. Vì thế các quốc gia phải có một tài khoản vãng lai và tài khoản vốn ngay lúc chính phủ công bố tự do hóa, chính thức hóa những gì đã tồn tại. Việc không rõ ràng được mô tả về giai đoạn kiểm soát được rút ra từ sự thất bại của chính quyền trong việc thực thi đầy đủ các quy định hành chính và sự nỗ lực của khu vực tư nhân để phá vỡ sự kiể m soát thông qua việc sáng tạo ra thị trường song song. Từ việc tự do hóa mất hiệu quả như vậy, mô hình kiểm soát đã thất bại vào đầu những năm 1980. Vì vậy, cuộc tranh luận dần dần chuyển từ việc lựa chọn một cách thức quản trị sang các trình tự thích hợp và tốc độ quá trình cải cách. Năm 1987-1992, một cách tiếp cận từ từ đến quá trình tự do hóa như là sự theo đuổi chứ không phải là tiến tr ình nỗ ra tự do hoá trước giai đoạn 1992 khi các bên liên quan trong nền kinh tế đi theo quá trình cải cách một cách chung chung. 2 Trong suốt thời gian sau đó, khi cả tài khoản vãng lai và tài khoản vốn của cán cân thanh toán được tự do hoá. Để đánh giá kinh nghiệm của Ugan da với tự do hóa tài khoản vốn, bài này được thiết lập bao gồm năm phần. Trong phần II, chúng tôi sơ lược về tình hình kinh tế vĩ mô của Uganda từ năm 1987. Ở phần III, chúng ta xem xét sự thúc đẩy của Chính phủ về tự do hóa, và trong phần IV đánh giá các gói chính sách kèm theo đã được thông qua và thực hiện. Phần V phân tích tác động của tự do hóa cho đến nay, trong VI trình bày những thách thức gắn liền với tự do hóa tài khoản vốn ở Uganda. Chúng tôi cũng nêu vấn đề gây tranh cãi về việc liệu có cần thiết phải tiếp tục tự do hóa tài khoản vốn hoặc tái áp đặt một vài kiểm soát vốn hay không. II. Bối cảnh kinh tế vĩ mô Từ năm 1987, Uganda đã theo đuổi chính sách nhằm ổn định kinh tế vĩ mô và thay đổi cơ cấu của nền kinh tế với sự hỗ trợ tài ch ính từ Ngân hàng Thế giới (W B), Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF), các nhà tài trợ đa phương và song phương khác. Vì lý do này ERP (chương trình cải cách kinh tế) đã tập trung ổn định kinh tế vĩ mô, tự do hóa hệ thống tỷ giá ngoại hối, thương mại, giá cả và các hệ thống phân phối, cải thiện cơ cấu và môi trường kinh doanh để thúc đẩy sự huy động tiết kiệm và đầu tư, phục hồi kinh tế, hạ tầng xã h ội và thể chế của đất nước. Như trước đó trình bày, trước năm 1992 đã có s ự thiếu đồng thuận về chiến lược cho sự phục hồi của nền kinh tế, làm chậm lại tốc độ thực hiện chính sách trong ERP. Tuy nhiên, sau sự bất ổn vào đầu năm 1992, chính phủ đã thông qua một phương pháp cải tổ to lớn đưa đến việc thực hiện chính sách cải cách cơ cấu và ổn định kinh tế. Chế độ tự do hóa thương mại được tự do hoá hoàn toàn, kiể m soát giá cả đã được bãi bỏ (trừ các s ản phẩm công cộng và dầu khí), ngân sách tiền mặt đã được đưa vào trong việc quản lý ch i tiêu của chính phủ. Hệ thống ngoại hối đã được tự do hoá đáng kể vào năm 1990 với sự xuất hiện nhiều các quầy thu đổi ngoại tệ để phân phối các khoản thu ngoại hối với nhiều cách sử dụng theo nhu cầu thị trường. Các quầy thu đổi ngoại tệ được tăng cường hơn nữa với việc giới thiệu các phiên đấu giá ngoại hối hàng tuần để phân bổ nguồn lực cho các ngành công nghiệp chiến lược. Tuy nhiên, với một nền kinh tế vẫn còn mong manh và dễ bị tổn thương trước những cú sốc bên ngoài. Tiết kiệm và đầu tư vẫn rất thấp (1% và 11% GDP), lạ m phát vẫn còn cao và không chắc chắn để khuyến khích kinh doanh dài hạn và các sáng kiến khác cần thiết cho phát triển kinh tế bền vững. Quan trọng hơn, khu 3 vực tài chính có những yếu kém lớn cùng với sự thiếu hiệu quả cũng đóng góp đáng kể cho sự bất ổn định kinh tế vĩ mô. Nhằm giải quyết những vấn đề này, chính phủ thực hiện một chương trình cải cách về lĩnh vực tài chính. Các cải cách này nhằm loại bỏ kiểm soát lãi suất, giảm bớt rào cản để cho các ngân hàng tư nhân mới đi vào hệ thống, hạn chế vai trò trực tiếp của chính phủ trong việc phân bổ các nguồn lực tài chính bao gồm tài trợ hàng hoá trong các vụ mùa nông sản và từ bỏ quyền sở hữu của chính phủ trong các ngân hàng thương mại. Quá trình này được hoàn thiện bởi các chính sách song song để tăng cường giám sát ngân hàng và khuyến khích kỷ luật tài chính thông qua các điều khoản, các quy định mới và các chính sách để nâng cao hiệu quả và lợi nhuận của các tổ chức tài chính. Những biện pháp này khẳng định tự do hóa tài khoản vốn tháng 07/1997 đã đảm bảo cho lĩnh vực tài chính đủ mạnh để chống lại bất kỳ cú sốc phát sinh nào ngoài sự gia tăng của bất kỳ nguồn vốn. III. Mục tiêu của tự do hoá tài khoản vốn Th ành tựu của các mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô được tiếp nối với những cải cách tiếp nối thứ hai để loại bỏ bất kỳ rào cản ràng buộc để cung cấp và đáp ứng môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Các cải cách này nếu không được thực hiện thì chắc chắn rằng các vấn đề của sự mất ổn định kinh tế vĩ mô sẽ tái xuất hiện. Do đó, trong giai đo ạn 19951997, nhiều cuộc tranh luận nội bộ tập trung vào các vấn đề sau:  Không có khả n ăng thực h iện có hiệu quả kiểm soát vốn và sự cần thiết để thu hút các nguồn lực cho đầu tư để duy trì tốc độ tăng trưởng cao kể từ khi tiết kiệm tư nhân tỷ lệ là 1% GDP ở mức thấp hay ngay cả đối với một tỷ lệ đầu tư là 11% GDP.  Mục tiêu là phát triển khu vực tư nhân được kích thích phát triển hàng đầu, là một trong những phương tiện để đạt được điều này  Khả năng thiết kế một chiến lược thoát ra trong những trường hợp chính sách đó không đạt hiệu quả. Các vấn đề trên về cơ bản xét trên tài khoản vốn đã được hình thành. Lý thuyết kinh tế nói rằng mục tiêu chủ chốt cho kiểm soát vốn thường được áp dụng là giữ lạ i tiền tiết kiệm trong nước và bảo vệ nền kinh tế trong nước chống lại áp lực từ những cú sốc bên ngoài. Trong thực tế, lý thuyết và thực nghiệm nghiên cứu vẫn chỉ ra rằng tự do hóa tài khoản vốn có thể làm tăng tính dễ tổn thương của các thị trường tài chính bất ổn. Tuy nhiên, các vấn đề gây tranh cãi của các trình tự và các chính sách liên quan đến thực hiện tự do hóa tài khoản vốn thường được 4 chấp nhận. Điều này cũng trùng hợp với việc thực hiện bởi các nhà hoạch định chính sách nhất nước đang phát triển không chỉ là không có tiền tiết kiệm để giữ lại nhưng tài khoản vốn mở sẽ tạo điều kiện rất cần thiết cho các dòng chảy của nguồn tài nguyên từ thặng dư bên ngoài để tránh thâm hụt các đơn vị trong nước. Do đó việc tự do hóa tài khoản vốn ở Uganda được lý giải trên có khoảng cách giữa tiết kiệm và đầu tư khép kín để thúc đẩy tăng trưởng bền vững lâu dài. Năm 1997, Ugan da đã hoàn thành 10 năm thực hiện nhất quán chính sách ổn định và cải cách. Thành quả biểu hiện rất rõ là tốc độ tăng trưởng trung bình trên 7% và lạm phát được duy trì ở mức thấp và ổn định. Những thách thức phải đối mặt với chính phủ là làm thế nào để duy trì mức tăng trưởng cao và do đó nâng cao thu nhập trên đầu người. Điều này cũng đã được Collier và Bevan (1997) chỉ ra rằng mục tiêu duy trì mức tăng trưởng cao hơn đòi hỏi sự đầu tư ngày càng cao hơn. Theo một chiến lược, chính phủ gia tăng thâm hụt tài chính của mình để tài trợ cho cơ sở hạ tầng, với sự hỗ trợ của các nguồn lực trợ giúp bên ngoài. Mục đích là để nâng cao tỉ lệ hoàn vốn đầu tư khu vực tư nhân thông qua cơ sở hạ tầng được cải thiện. Mặt khác, sự cần thiết của chính phủ để nâng cao đầu tư, các khoản tiết kiệm trong nước hiện tại sẽ không duy trì đầu tư như vậy. Do đó, ngoài tài trợ, bao gồm cả dòng vốn, đã được dự kiến sẽ lấp đầy khoảng cách tiết kiệm và đầu tư hiện có. Uganda, giống như nhiều nước châu Phi khác vẫn dựa chủ yếu vào viện trợ phát triển chính thức (ODA) chảy vào để thu hẹp khoảng cách tiết kiệm và đầu tư. Như đã thấy trong bảng 1 dưới đây , viện trợ chính thức trong các hình thức củ a cán cân thanh toán và hỗ trợ dự án đã phát triển qua thời gian, và không có cơ chế để tạo điều kiện chuyển giao các nguồn lực để khu vực tư nhân. Mở cửa tài khoản vốn sẽ tạo điều kiện cho một chuyển trực tiếp các nguồn lực từ các nguồn bên ngoài để các thực thể tư nhân trong nước để thúc đẩy đầu tư. Bảng 1: Thành phần hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) của Uganda Giai đoạn Cán c ân thanh toán 92-93 93-94 94-95 95-96 96-97 97-98 98-99 165,1 154,8 178,9 86,2 110,8 166,4 127,8 5 Dự án Tổng dòng vốn đầu tư 307,8 331,8 419,0 446,2 419,1 475,8 405,9 472,9 486,6 597,9 532,4 529,9 642,2 533,7 15,7 13,1 11,3 9,7 9,3 10,4 9,2 Tỷ trọng dòng vốn đầu tư so với GDP (% ) Nguồn: Cán cân thanh toán của Uganda Theo ghi nhận của Calamitsis và Dhonte (1996), ".. để đạt được mục tiêu trong thu nhập GDP bình quân đầu người, các khoản tiết kiệm và đầu tư của tư nhân là chìa khóa để đạt mục tiêu". Về mặt này, các cuộc họp của nhóm tư vấn 1989 đã nhất trí rằng sản xuất hiệu quả sẽ được thực hiện thông qua khu vực tư nhân và do đó tìm cách giảm bớt vai trò của chính phủ trong sản xuất trực tiếp. Do đó, quá trình tư nhân hoá đã được thực hiện thông qua các doanh nghiệp nhà nước phải được thực hiện để đạt được mục tiêu này. Đến nay, hơn 85% doanh nghiệp nhà nước đã được chuyển đổi hoặc tư nhân hóa, và điều này đã chiếm một phần cho sự tăng vốn FDI và trả lại cho các dòng vốn lưu chuyển khác. Việc mở cửa của tài khoản vốn nhằm khuyến khích việc cung cấp để thu hút tiền tiết kiệm khu vực tư nhân bổ sung từ các nguồn bên ngoài được cần thiết cho việc tăng tiết kiệm trong khu vực tư nhân. Dòng vốn như vậy có thể được ở dạng danh mục đầu tư hoặc đầu tư trực tiếp nước ngoài. Dòng vốn sẽ được tìm kiếm trong ngắn hạn cao hơn ở trong thị trường tiền tệ trong nước, đồng thời dòng vốn đi vào các nguồn lực để mở rộng công suất và chuyển giao công nghệ. Tuy nhiên, chúng tôi cũng nhận ra rằng đó là khó khăn để thu hút vốn ở các nước đang phát triển mà không có một chiến lược thoát ra và sự dễ dàng của nó trong việc ra vào của các dòng vốn đi theo một tài khoản vốn tự do gây ra sự bất ổn trong dòng vốn. IV. Gói chính sách : Tự do hóa tài khoản vốn và các cải cách liên quan Tự do hóa tài khoản vốn là một phần của cải cách kinh tế ở Uganda, từ khi phát động Chương trình cải cách kinh tế (ERP). Trong việc hoạch định chính sách kinh tế thì trình tự cải cách kinh tế rất quan trọng, trong đó phải nói đến trình tự tự do hóa tài khoản vốn. Theo Mackinon (1973) và Shaw (1973): Th ực hiện tự do hóa khu vực tài chính và 6 tự do hóa các dòng tiền ra vào. Vậy trình tự để tiến hành tự do hóa khu vực tài chính trong một nền kinh tế mở, đang phát triển như thế nào? Trình tự liên quan đến 2 vấn đề:  Xác định trình tự để tự do hoá tài chính trong nước đạt kết quả tối ưu, thực tế diễn ra như thế nào. Cần phải tự do hóa tất cả hay chỉ tự do hóa một p hần.  Trình tự tự do hóa tài chính (bao gồm cả khu vực phi tài chính) phải phù hợp với Chương trình cải cách kinh tế - ERP. Phải tiến hành tự do hoá tài chính trong nước trước, sau đó mới tiến hành tự do hóa lĩnh vực tài chính bên ngoài. Nếu là m ngược lại, một lượng vốn đáng kể có thể ra khỏi quốc gia. Các ngân hàng trong nước cảm thấy khó khăn khi phải cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài, do các ngân hàng trong nước phải chịu chi phí trong giao dịch cao. Trình tự tự do hóa tài khoản vốn là ổn định trước, tiếp theo là tăng cường nội bộ ngành tài chính và sau đó là tự do hóa. Theo lý thuyết, trình tự phù hợp của cải cách kinh tế là việc tự do hóa tài khoản vốn phải được thực hiện sau cùng trong quá trình cải cách nền kinh tế (Kasekende và M artin, 1995). Một hệ thống tài chính trong nước y ếu kém thì không nên thực hiện tự do hóa tài chính trước, vì như thế nó sẽ làm ảnh hưởng đến dòng vốn của tư nhân. Fischer và Reisen (1992) cũng đưa ra tranh luận: Tự do hóa tài khoản vốn có thể phát huy tác dụng nếu việc kiểm soát vốn dần bị loại bỏ . Theo 2 ông, đầu tiên cần được loại bỏ kiểm soát đầu tư trực tiếp nước ngoài và dòng vốn liên quan đến thương mại, khi thực hiện chương trình cải cách kinh tế. Trong thực tế, tùy thuộc vào điều kiện môi trường kinh tế của một đất nước, trình tự cải cách sẽ thay đổi. Chương trình cải cách của Uganda được trình bày dưới đây: a. Chính sách tài chính, chính sách ti ền tệ và tỷ giá h ối đoái: - Trong kinh tế vĩ mô, một trong những điều kiện quan trọng tự do hóa tài khoản vốn là cải cách tài chính để làm giảm thâm hụt tài chính và đảm bảo mức lạm phát ch ấp nhận được. Duy trì tự do hóa tài khoản vốn có nghĩa là: Thuế không phải là n guồn thu quan trọng trong ngân sách của nhà nước. Hơn nữa, để giảm thiểu những ch i phí liên quan đến việc tiếp cận các nguồn vốn lớn, phải quản lý chính sách tiền tệ theo mức lãi suất và tỷ giá hối đoái, nó phải thích ứng, linh hoạt, phù hợp với ng uyên tắc cơ bản và điều kiện cụ thể của từng thị trường.Lãi suất trong nước phải phù hợp với những thay đổi hiện hành của thị trường tài chính quốc tế. Các dòng vốn ngắn hạn, có độ nhạy cao, dễ dàng làm cho chính sách kinh tế v ĩ mô của một quốc gia thành công hay thất bại. Các 7 nước thận trọng trong kinh tế vĩ mô, chính sách tài chính , tiền tệ luôn vững chắc, đạt được hiệu suất lớn, đa dạng hóa lợi ích từ việc tự do hóa tài khoản vốn. - Ngay từ khi thực hiện chương trình cải cách kinh tế vào năm 1987, giá cả ổn định là một trong những mục tiêu quan trọng trong kinh tế vĩ mô. Do đó, việc can thiệp vào tài khoản vốn cần phải được cân nhắc, đảm bảo khả năng thanh khoản trong nước, không để lạm phát xảy ra, đồng thời đảm bảo khả năng cạnh tranh cho hàng xuất khẩu của Uganda, không gây áp lực mất giá để buộc phải thực hiện thắt chặt chính sách tiền tệ với lãi suất cao. - Chính sách kiềm chế lạm phát được thực hiện năm 1987, chủ yếu dựa vào sự cân bằng của cung và cầu thị trường. Kết quả chủ yếu là dựa vào s ự kết hợp của việc mở rộng chính sách tiền tệ một cách thận trọng và hạn chế chi tiêu công của chính phủ. Tiến trình điều chỉnh đã giải quyết một s ố khó khăn. Lạm phát năm 1987 là 250 %, xuống còn 30 % trong năm 1992, sau đó là 10 % năm 1995 và thậm chí có lúc xuống dưới mức 10%. Năm 1999 - 2000, lạ m phát là 5%. Lạ m phát duy trì ở mức thấp kết hợp với các chính sách cải cách tài chính từng bước tạo nên s ự tự tin cho hoạt động của hệ thống ngân hàng. - Một phần thành công trong v iệc kiề m ch ế lạ m phát là việc thận trọng trong khi thực hiện quản lý tài chính trong năm 1992. Kiể m soát hệ thống tài chính không những chuyển từ hình thức kiểm soát tiền tệ trực tiếp sang kiểm soát gián tiếp, mà còn khắc phục được những hạn chế của chính sách tiền tệ. Vì vậy, khi loại bỏ các hạn chế của chính sách tiền tệ, sự linh hoạt trong chính sách tài chính đồng nghĩa với sự tự do hóa thị trường ngoại hối, bổ sung nguồn thu cho ngân s ách từ bên ngoài. Ví dụ về kết quả đạt được của sự linh hoạt trong ch ính sách tài chính: Áp dụng thuế ổn định trong khoảng thời gian 1994-1995 khi giá cà phê bị thổi bùng lên, giảm bớt chi tiêu khi có sự thiếu hụt trong nguồn thu ngân sách vào năm 1998 - 1999. Lo ngại về tác động của chương trình cải cách tài chính nhiều hơn lợi ích mà chương trình cải cách kinh tế mang lại, trong việc duy trì môi trường kinh tế vĩ mô ổn định. Việc thực hiện một s ố biện pháp nâng cao hiệu quả trong quản lý thuế và các cải cách trong chính sách thuế đã nâng cao hiệu quả của nguồn thu. Sự xuất hiện của thuế giá trị gia tăng (VAT) năm 1996, tiếp theo là những cải cách trong Luật Thuế thu nhập năm 1997, cách tính khấu hao đối với các khoản đầu tư vào nhà máy, máy móc, thiết bị. Tỷ lệ GDP tăng, từ mức thấp 4,5 % năm 1986 - 1987 lên 7,2 % trong năm1990-1991, với GDP hiện nay là 12%. 8 - Về chính sách tỷ giá và cải cách thương mại: Chính phủ đã thực hiện đúng với cam kết, tuân thủ với Điều VIII của IMF - cấm gây áp đặt trong các giao dịch tiền tệ. Trong tháng 07/ 1990, cho phép mua và bán ngoại tệ với mức tỷ giá do thị trường quyết định. Cải cách tài chính thương mại quốc tế được thực hiện trong tháng 01/1992, theo sau OGL và chương trình nhập khẩu đặc biệt (SIP) với các phiên giao dịch đấu giá hàng tuần, được tài trợ bởi Quỹ Hỗ trợ nhập khẩu. Cuối cùng vào năm 1993, việc bán đấu giá đã được bãi bỏ, được thay thế bằng hệ thống tỷ giá hoái đối, thông qua các ngân hàng thương mại và các văn phòng ngoại hối, là thành phần quan trọng trên thị trường. Ngoài ra, trong tháng 07/1997, cân bằng cán cân thanh toán của tài khoản trong sự nỗ lực tăng các dòng vốn của tư nhân. b. Hoạt động gi ám sát và thông tin thị trường: - Ngoài việc thả nổi lãi suất hợp lý, tự do hoá tài chính còn cho phép việc mở rộng hoạt động của hệ thống ngân hàng và phi ngân hàng sau năm 1994. Tu y nhiên, các tổ chức tài chính này thiếu chiến lược hiệu quả khi gia nhập vào thị trường, sự cạnh tranh bị hạn chế mà nguyên nhân là do thông tin bất đối xứng và năng lực giám sát hệ thống tự do hoá tài chính có phần hạn chế, gây khó khăn cho sự phát triển trong ngành tài chính. - Duy trì tự do hóa tài khoản vốn đòi hỏi phải tăng cường sự giám sát thận trọng đối với hoạt động các tổ chức tài chính, đặc biệt rủi ro tỷ giá hối đoái. Cuối cùng, theo điều lệ đ ã được sửa đổi năm 1993, cả h ai tổ chức tài chính (FIS) và Ngân hàng của Uganda (BOU) hỗ trợ Ngân hàng Trung ương trong việc xây dựng chính sách tiền tệ, giám sát và điều chỉnh hoạt động của tất cả các tổ chức tài ch ính. Việc làm này nhằm chống lại được những cú sốc bên ngoài trong khi thực hiện tự do hóa tài khoản vốn, hệ thống tài chính nói riêng và n ền kinh tế nói chung. Cần phải cẩn thận trong xây dựng chính sách tài chính, thiết lập lãi suất linh hoạt hơn, s ắp xếp và tái cơ cấu vốn các tổ chức tài chính trong nước, xác đ ịnh rõ phạm vi, chức năng của các tổ chức tài chính trong nước. Theo FIS (1993) có quy định đầy đủ những yêu cầu về tăng cường vốn của các tổ chức tài chính và tăng cường giám sát, nhằm bù đắp cho rủi ro xảy ra. - Các ngân hàng được yêu cầu phải cung cấp báo cáo định kỳ cho Ngân hàng của Uganda nhằm cho mục đích thống kê. Theo quy định về ngoại hối (2000), bảng báo cáo phải có các thông tin chi tiết liên quan đến các giao dịch của tài khoản vốn. Việc tự do hoá tài khoản vốn có thể làm cho các giao dịch ngoại hối tăng và hàm chứa nhiều rủi ro. Các ngân hàng được yêu cầu phải thiết lập hệ thống riêng, để kiểm soát và hạn chế những rủi ro. 9 c. Cơ cấu nợ : - Uganda là một nước nghèo mắc nợ nặng nề, việc giảm nợ ở n ước này rất quan trọng, để cải thiện tài chính của quốc gia, tạo điều kiện để nước n ày tiếp cận với thị trường tài chính quốc tế. Giảm được chi phí đi vay, đảm bảo tiến trình cải cách hợp lý và giảm tỷ lệ nợ của đất nước này. Cơ cấu nợ cần thiết để giảm bớt những khó khăn trong hoạt động ngoại hối lâu dài, tăng cường sự bền vững đối với các dòng vốn ngoại hối. Các giai đoạn chính cơ cấu lại nợ của Uganda: • Uganda xây dựng một chiến lược nợ vào năm 1991, kè m với những nỗ lực cơ cấu lại nợ thông qua tái cơ cấu nợ. • Nă m 1993, Uganda đã giảm được nợ bằng cách mua lại nợ và hoán đổi nợ, được tài trợ bởi IDA và đồng tài trợ khác. • Nợ chiếm 72% trong tổng nguồn vốn của Uganda, Quỹ (MDF) thành lập điều hành Uganda, được thành lập trong 07/1995. Tháng 11/ 1995, MDF đã thành công trong việc huy động nguồn vốn 75.000.000 USD. d. Phát tri ển thể chế, chính trị và hệ thống quản trị: Sự phục hồi của nền kinh tế chủ yếu dựa vào các chính sách kinh tế vĩ mô thận trọng, phát huy các tiềm năng hiện có. Theo Kasekende và Atingi-Ego (1999), cần phải phát huy năng lực để thu hút đầu tư, nhằm mục đích tăng trưởng kinh tế, tăng tỷ lệ GDP và phải duy trì tốc độ tăng trưởng cao. Tăng trưởng kinh tế được cung cấp bởi các dịch vụ hiệu quả cả khu v ực công và khu vực tư. Một số cải cách thể chế đã được thực hiện để nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ:  Phát triển khu vực tư nhân: Va i trò của chính phủ trong sản xuất và phân bổ nguồn lực sản xuất cần phải hạn chế, tạo điều kiện để khu vực tư nhân phát huy tiềm năng, thực lực củ a họ: • Việc áp dụng Luật đầu tư (1992), thay thế Luật đầu tư nước ngoài (1977) và Đạo luật công nghiệp (năm 1969) đã thu hút và ưu đãi đầu tư bằng cách cung cấp vốn, bảo vệ nhà đầu tư và giới thiệu một số cách thức chi trả cổ tức. • Chính s ách đầu tư một cửa, thu hút nhà đầu tư trong nước lẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Những động thái này đã đánh dấu một bước ngoặc lớn trong chính sách đầu tư 10 của quốc gia. Uganda là thành viên của MIGA – Hiệp hội thu hút vốn đầu tư, tăng tính hấp dẫn của đất nước là vần đề quan trong để thu hút đầu tư. Các lĩnh vực thu hút đầu tư bao gồm du lịch, nông nghiệp, rau quả, nông nghiệp chế biến, chế biến thuỷ sản, xây dựng, sản xuất, năng lượng, khai mỏ, và các dịch vụ tài chính. Điều này mang lại cho Uganda kết quả như sau: Đã chuyển giao 85 % cho khu vực tư nhân, điển hình là 47 doanh nghiệp nhà nước đ ược tư nhân hóa trong giao đoạn 1992 -1997. Kết quả đạt được còn nhiều hơn nữa và tiếp tục được cơ cấu lại để tư nhân hoá tốt hơn. Chính phủ phải tăng cường cung cấp các khuôn khổ pháp lý phù hợp, quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của từng chủ thể trong thương mại, củng cố quyền sở hữu và giải quyết các tranh chấp trong kinh doanh. Thực tế, ở Châu Á, chính phủ tôn trọng quyền sở hữu của tư nhân. Chi phí cao là một khó khăn cho sản xuất tại Uganda và nó ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của Uganda. Để giải quyết khó khăn này, các cải cách hữu ích đã được thực hiện trong lĩnh vực viễn thông. Vào năm 2001, một nhà máy điện mới, với công suất 250 MW, được xây dựng bởi một nhà đầu tư tư nhân, sẵn sàng đi vào hoạt động năm 2004. Mặt khác, việc tự do hoá lĩnh vực thông tin liên lạc đã loại bỏ tình trạng độc quyền.  Phát triển chính sách đối ngoại: Một số tổ chức đã trở thành thành viên trong chính sách đối thoại. Chúng bao gồm Nghị viện, các Trung tâm Nghiên cứu Chính sách Kinh tế (EPRC) tại Đại họ c Makerere, Hiệp hội Uganda các nhà s ản xuất (UMA), Hiệp hội khu vực tư nhân (PSF), Liên hiệp quốc gia như Tổ chức công đoàn (NOTU), Hiệp hội nông dân…là các cơ quan phục vụ công ích và vừa là cơ quan giám sát. Những thay đổi lớn về chính sách kinh tế hiện đang được xe m xét và thông qua bởi quốc hội. Xử lý các trường hợp tham nhũng và tăng cường minh bạch và trách nhiệm trong hành chính công. Như đã đề cập ở trên, tự do hóa tài khoản vốn là sự thiết lập của những gì đã tồn tại, bởi vì các giao dịch mang tính chất vốn đã được thực hiện trên thị trường chợ đen. Vì thế người ta mong đợi hiệu suất sẽ tăng từ những nguồn lực đã được sử dụng trước đó để tránh sự quản lý và bây giờ có thể được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lợi ích chính của việc tự do hóa tài khoản vốn đối với các quốc gia đang phát triển là nó có 11 thể mở ra cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn tư nhân bên ngoài và do đó tăng mức đầu tư, trong điều kiện tiết kiệm trong nước của hầu hết các quốc gia đang phát triển là có hạn. Liên quan đến vấn đề này, những hạn chế về tài khoản vốn sẽ làm giả m khả năng thu hút vốn của các quốc gia này vì các nhà đầu tư sẽ ngần ngại đầu tư trừ phi họ tự tin là sẽ thu hồi được lợi nhuận, chi trả lãi suất và vốn. Dòng tài chính tư nhân bên ngoài chảy vào đã hỗ trợ tăng mức đầu tư tư nhân và giúp nền kinh tế duy trì mức tăng trưởng mạnh ở châu Mỹ La-tinh và châu Á trong những năm 1990. Kể từ lúc bắt đầu quá trình tái thiết vào năm 1987, các dòng vốn đổ vào Uganda đã tăng trưởng mạnh. Trong đó phần lớn là liên quan đến FDI với xu hướng khá ổn định. Kết quả là các dòng vốn đổ vào Uganda không thay đổi đột biến, điều sẽ xảy ra nếu vốn đầu tư gián tiếp chiếm phần lớn trong tổng số các dòng vốn vào. Biểu đồ số 1 bên dưới thể hiện sự phát triển của FDI và các dòng vốn khác từ năm tài chính 1990/91 đến 1998/99. Đầu tư trực tiếp của Uganda tăng từ 2 triệu USD năm 1991/92 lên 230 triệu USD năm 1998/99. Tương tự, lưu chuyển khu vực tư tăng từ 80,5 triệu USD năm 1990/91 lên 415,2 triệu năm 1995/96 nhưng bất ngờ tụt giảm vào năm 1996/97 còn 308.3 triệu. Năm tiếp theo, con số này hồi phục với mức tăng cao nhất là 539 triệu. Nhưng sự hồi phục không kéo dài lâu, mức 375 triệu của năm 1998/99 thấp hơn rất nhiều so với năm 1997/98 và 1995/96. Cho nên lưu chuyển khu vực tư rất biến động từ năm 1994/95 trong khi FDI giữ nguyên đà tăng trưởng từ 1992/93 và được dự báo là sẽ tăng trong năm 1999/2000. Một sự phát triển tích cực khác trong sự tham gia của khối nước ngoài vào thị trường vốn nội địa như một số tín hiệu ban đầu thể hiện sự quan tâm củ a các giám đốc quĩ nước ngoài đối với các loại tài sản định giá bằng Shilling Uganda. Lần phát hành trái phiếu gần đây của EADB đã thu hút khối ngoại tham gia. Tương tự, tín phiếu chính phủ phát hành trong nước cũng đã thu hút nhà đầu tư ngoại. Kinh nghiệm củ a Uganda với tài khoản vốn tự do vì vậy không thể so sánh với các nước ĐNA. Nguyên nhân chủ yếu là thị trường tài chính Uganda không phát triển cao và kết quả là thị trường không đủ thanh khoản để hỗ trợ cho sự phát triển các công cụ tài chính có tính thu hút đầu tư gián tiếp. Ngoài ra, trong khi thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn non trẻ thì hệ thống tài chính nhìn chung cũng không hội nhập với các thị trường tài chính quốc tế. Tỉ lệ đầu tư gián tiếp quá khiêm tốn vì các các dòng vốn mạnh đều chảy vào dưới dạng rút vốn rồi đầu tư lại, chuyền từ các nước châu Á và tài trợ thương mại dưới dạng tín dụng xuất khẩu. 12 Có thể n ói rằng Uganda không chứng kiến các dòng vốn ngắn hạn sau khi tự do hóa tài khoản vốn diễn ra. Do đó các công cụ của chính sách vẫn chưa được thử nghiệm tính hiệu quả trước làn song của các dòng vốn. Tuy nhiên Uganda đã chịu đựng sự bất ổn của thị trường ngoại hối, điều đã được thể hiện qua mức chênh lệch mua-bán cao, qua áp lực tăng giá và giảm giá được duy trì trên thị trường ngoại hối. Xét một cách tổng thể thì sự bất ổn định này gắn liền với các dòng vốn liên quan đến thương mại (chẳng hạn đợt bùng nổ vào năm 1994 và đợt giảm giá vào năm 1999/2000 của giá cà phê) xuất hiện luân phiên. Các nhân tố khác bao gồm tính mùa vụ của các giao dịch xuất khẩu cà phê và sự thay đổi quan điểm của những bên tham gia thị trường đối với sự bền vững của quá trình tái thiết. Giống như các thị trường được tự do hóa khác, thị trường ngoại hối đã biến động trước những lời đồn đại và đầu cơ. Những quả bong bong tồn tại không lâu nhưng không nằm ngoài dự đoán đã gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, gây sự bất ổn trên thị trường và làm tổn hại uy tín của NH trung ương. Hiệu ứng quan trọng nhất của các dòng vốn lớn chính là v iệc thị trường ngoại hối tăng giá và kèm theo là s ức cạnh tranh xuất khẩu giảm sút. Gánh nặng bình ổn thị trường ngoại hối được chia đều cho các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong năm 1994. Tuy nhiên phản ứng của chính sách với các biến động thương mại trong năm 1999/2000 thiên về điều chỉnh bằng tài khóa nhiều hơn. Thực tế, điều này chứng tỏ sự chuyển biến từ các mục tiêu bình ổn giá cả trong nước sang bình ổn giá trên th ị trường ngoại hối. Một hệ quả nữa của việc tự do hóa tài khoản vốn là việc nắm giữ các tài khoản tiền gửi nội tệ có liên quan đến các tài khoản ngoại hối trong hệ thống ngân hang. Đến tháng 6/1997, số tài khoản ngoại hối của dân chúng đã tăng lên 12.8% khối tiền tệ mở rộng (M3). Một năm sau quá trình tự do hóa, tỉ lệ này đã tăng lên 14.4% và sẽ tăng tiếp lên 17.9% và 23.4% lần lượt vào cuối tháng 6/1999 và tháng 4/2000. Thật khó để không gắn sự tăng trưởng của tỉ giá hối đoái với sự chuyển đổi từ các tài khoản nội tệ sang tài khoản đôla, mặc dù xu hướng đầu cơ có thể xuất hiện qua việc các tài khoản ngoại tệ được ưa chuộng hơn trong giai đoạn này. Điều này làm tăng thêm sự phức tạp trong việc quản lý tính thanh khoản vì trung gian môi giới được cho phép trong cả các công cụ tài sản và nợ bằng nội tệ và ngoại tệ. Một sự phát triển khác là vai trò ngày càng quan trọng của khu vực tư nhân trong việc dẫn dắt đầu tư trong điều kiện mức tiết kiệm nội địa thấp. Tiếp sau quá trình tự do hóa, mức đầu tư của khu vực tư đã tăng ở Uganda. Trong thời kỳ 1997 – 1999, đầu tư tư nhân tăng từ 11.5% GPD trong năm 1996/97 lên 12.8% năm 1998/99 và dự đoán sẽ tăng lên 13% trong 13 năm 1999/2000 (xe m bảng 2 dưới đây). Điều này phần lớn là do các nỗ lực tái thiết và do gói chính sách được thực hiện để thu hút FDI và sự trở lại của các dòng chảy ra để rút ngắn chênh lệch tiết kiệm – đầu tư, cùng với sự tăng lên của dịch chuyển khu vực tư như đã đề cập ở trên. Ngày nay, trường hợp Uganda chứng tỏ rằng các khoản đầu tư cao hơn mức tiết kiệm hầu hết được tài trợ bởi tiết kiệm của khối ngoại cả tư nhân lẫn công cộng. Điều cũng đáng lưu ý đó là đất nước hầu như tránh được tác động của cuộc khủng hoảng Đông Á đối với nguồn vốn vào, do sự ít hội nhập vào thị trường quốc tế của các tổ chức tài chính. Vấn đề lúc đấy chính là làm sao Uganda chuẩn bị cho tình hình bất ổn định có thể xảy ra khi hội nhập sâu hơn vào thị trường vốn toàn cầu. V. Đánh giá tác động của tự do hóa tài khoản vốn Như đã đề cập ở trên, tự do hóa tài khoản vốn là sự thiết lập của những gì đã tồn tại, bởi vì các giao dịch mang tính chất vốn đã được thực hiện trên thị trường song hành. Vì thế người ta mong đợi hiệu suất sẽ tăng từ những nguồn lực đã được sử dụng trước đó để tránh sự quản lý và bây giờ có thể được sử dụng một cách hiệu quả hơn. Tuy nhiên, lợi ích chính của việc tự do hóa tài khoản vốn đối với các quốc gia đang phát triển là nó có thể mở ra cơ hội tiếp cận với các nguồn vốn tư nhân bên ngoài và do đó tăng mức đầu tư, trong điều kiện tiết kiệm trong nước của hầu hết các quốc gia đang phát triển là có hạn. Liên quan đến vấn đề này, những hạn chế về tài khoản vốn sẽ làm giả m khả năng thu hút vốn của các quốc gia này vì các nhà đầu tư s ẽ ngần ngại đầu tư trừ phi họ tự tin là sẽ thu hồi được lợi nhuận, chi trả lãi suất và vốn. Dòng tài chính tư nhân bên ngoài chảy vào đã hỗ trợ tăng mức đầu tư tư nhân và giúp nền kinh tế duy trì mức tăng trưởng mạnh ở châu Mỹ La-tinh và châu Á trong những năm 1990. Kể từ lúc bắt đầu quá trình tái thiết vào năm 1987, các dòng vốn đổ vào Uganda đã tăng trưởng mạnh. Trong đó phần lớn là liên quan đến FDI với xu hướng khá ổn định. Kết quả là các dòng vốn đổ vào Uganda không thay đổi đột biến, điều sẽ xảy ra nếu vốn đầu tư gián tiếp chiếm phần lớn trong tổng số các dòng vốn vào. Biểu đồ số 1 bên dưới thể hiện sự phát triển của FDI và các dòng vốn khác từ năm tài chính 1990/91 đến 1998/99. Đầu tư trực tiếp của Uganda tăng từ 2 triệu USD năm 1991/92 lên 230 triệu USD năm 1998/99. Tương tự, lưu chuyển khu vực tư tăng từ 80,5 triệu USD năm 1990/91 lên 415,2 triệu năm 1995/96 nhưng bất ngờ tụt giảm vào năm 1996/97 còn 308.3 triệu. Năm tiếp theo, con số này hồi phục với mức tăng cao nhất là 539 triệu. Nhưng sự hồi phục không kéo dài lâu, mức 375 triệu của năm 1998/99 thấp hơn rất nhiều so với năm 14 1997/98 và 1995/96. Cho nên lưu chuyển khu vực tư rất biến động từ năm 1994/95 trong khi FDI giữ nguyên đà tăng trưởng từ 1992/93 và được dự báo là sẽ tăng trong năm 1999/2000. Biểu đồ 1: Dòng vốn tr ong giai đoạn từ 1990/91 đến 1998/99 400 200 1990/91 1991/92 FDI 1992/93 1993/94 1994/95 Office flow 1995/ 96 1996/97 1997/98 1998/99 Private transfer Một sự phát triển tích cực khác trong sự tham gia của khối nước ngoài vào thị trường vốn nội địa như một số tín hiệu ban đầu thể hiện sự quan tâm củ a các giám đốc quĩ nước ngoài đối với các loại tài sản định giá bằng Shilling Uganda. Lần phát hành trái phiếu gần đây của EADB đã thu hút khối ngoại tham gia. Tương tự, tín phiếu chính phủ phát hành trong nước cũng đã thu hút nhà đầu tư ngoại. Kinh nghiệm củ a Uganda với tài khoản vốn tự do vì vậy không thể so sánh với các nước ĐNA. Nguyên nhân chủ yếu là thị trường tài chính Uganda không phát triển cao và kết quả là thị trường không đủ thanh khoản để hỗ trợ cho sự phát triển các công cụ tài chính có tính thu hút đầu tư gián tiếp. Ngoài ra, trong khi thị trường chứng khoán đang ở giai đoạn non trẻ thì hệ thống tài chính nhìn chung cũng không hội nhập với các thị trường tài chính quốc tế. Tỉ lệ đầu tư gián tiếp quá khiêm tốn vì các các dòng vốn mạnh đều chảy vào dưới dạng rút vốn rồi đầu tư lại, chuyền từ các nước châu Á và tài trợ thương mại dưới dạng tín dụng xuất khẩu. 15 Có thể n ói rằng Uganda không chứng kiến các dòng vốn ngắn hạn sau khi tự do hóa tài khoản vốn diễn ra. Do đó các công cụ của chính sách vẫn chưa được thử nghiệm tính hiệu quả trước làn song của các dòng vốn. Tuy nhiên Uganda đã chịu đựng sự bất ổn của thị trường ngoại hối, điều đã được thể hiện qua mức chênh lệch mua-bán cao, qua áp lực tăng giá và giảm giá được duy trì trên thị trường ngoại hối. Xét một cách tổng thể thì sự bất ổn định này gắn liền với các dòng vốn liên quan đến thương mại (chẳng hạn đợt bùng nổ vào năm 1994 và đợt giảm giá vào năm 1999/2000 của giá cà phê) xuất hiện luân phiên. Các nhân tố khác bao gồm tính mùa vụ của các giao dịch xuất khẩu cà phê và sự thay đổi quan điểm của những bên tham gia thị trường đối với sự bền vững của quá trình tái thiết. Giống như các thị trường được tự do hóa khác, thị trường ngoại hối đã biến động trước những lời đồn đại và đầu cơ. Những quả bong bong tồn tại không lâu nhưng không nằm ngoài dự đoán đã gây thiệt hại cho các nhà đầu tư, gây sự bất ổn trên thị trường và làm tổn hại uy tín của NH trung ương. Hiệu ứng quan trọng nhất của các dòng vốn lớn chính là v iệc thị trường ngoại hối tăng giá và kèm theo là s ức cạnh tranh xuất khẩu giảm sút. Gánh nặng bình ổn thị trường ngoại hối được chia đều cho các chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa trong năm 1994. Tuy nhiên phản ứng của chính sách với các biến động thương mại trong năm 1999/2000 thiên về điều chỉnh bằng tài khóa nhiều hơn. Thực tế, điều này chứng tỏ sự chuyển biến từ các mục tiêu bình ổn giá cả trong nước sang bình ổn giá trên th ị trường ngoại hối. Một hệ quả nữa của việc tự do hóa tài khoản vốn là việc nắm giữ các tài khoản tiền gửi nội tệ có liên quan đến các tài khoản ngoại hối trong hệ thống ngân hang. Đến tháng 6/1997, số tài khoản ngoại hối của dân chúng đã tăng lên 12.8% khối tiền tệ mở rộng (M3). Một năm sau quá trình tự do hóa, tỉ lệ này đã tăng lên 14.4% và sẽ tăng tiếp lên 17.9% và 23.4% lần lượt vào cuối tháng 6/1999 và tháng 4/2000. Thật khó để không gắn sự tăng trưởng của tỉ giá hối đoái với sự chuyển đổi từ các tài khoản nội tệ sang tài khoản đôla, mặc dù xu hướng đầu cơ có thể xuất hiện qua việc các tài khoản ngoại tệ được ưa chuộng hơn trong giai đoạn này. Điều này làm tăng thêm sự phức tạp trong việc quản lý tính thanh khoản vì trung gian môi giới được cho phép trong cả các công cụ tài sản và nợ bằng nội tệ và ngoại tệ. Một sự phát triển khác là vai trò ngày càng quan trọng của khu vực tư nhân trong việc dẫn dắt đầu tư trong điều kiện mức tiết kiệm nội địa thấp. Tiếp sau quá trình tự do hóa, mức đầu tư của khu vực tư đã tăng ở Uganda. Trong thời kỳ 1997 – 1999, đầu tư tư nhân tăng từ 16 11.5% GPD trong năm 1996/97 lên 12.8% năm 1998/99 và dự đoán sẽ tăng lên 13% trong năm 1999/2000 (xe m bảng 2 dưới đây). Điều này phần lớn là do các nỗ lực tái thiết và do gói chính sách được thực hiện để thu hút FDI và sự trở lại của các dòng chảy ra để rút ngắn chênh lệch tiết kiệm – đầu tư, cùng với sự tăng lên của dịch chuyển khu vực tư như đã đề cập ở trên. Ngày nay, trường hợp Uganda chứng tỏ rằng các khoản đầu tư cao hơn mức tiết kiệm hầu hết được tài trợ bởi tiết kiệm của khối ngoại cả tư nhân lẫn công cộng. Điều cũng đáng lưu ý đó là đất nước hầu như tránh được tác động của cuộc khủng hoảng Đông Á đối với nguồn vốn vào, do sự ít hội nhập vào thị trường quốc tế của các tổ chức tài chính. Vấn đề lúc đấy chính là làm sao Uganda chuẩn bị cho tình hình bất ổn định có thể xảy ra khi hội nhập sâu hơn vào thị trường vốn toàn cầu. VI. Những thách thức phải gặp phải khi tự do hóa tài khoản vốn.  Quản lý tiền tệ Sự thay đổi của các nguồn vốn nước ngoài trong tự do hóa tài khoản vốn tạo ra một thách th ức đối với sự ổn định của thị trường ngoại hối cũng như tính thanh khoản của thị trường. Trong giai đoạn trước khi tự do hóa tài khoản vốn , các chính sách tài chính tiền tệ đ ược sử dụng giảm bớt các nhân tố ảnh hưởng tới lưu thông vốn. Tuy nhiên gần đây các công cụ của chính sác tiền tệ chịu ảnh hưởng rất lớn của sự kết hợp điều chỉnh các nhân tố cản trở sự lưu thông luồng vốn. Điều này được thể h iện thông qua sự gia tăng phát hành chứng khoán của chính phủ và n gân hàng Ugadan và các chính sách điều chỉnh biên độ tỷ giá. Tác động của điều này làm cho biên độ lãi suất rộng hơn dẫn tới lãi suất cho vay tăng gây thiệt hại cho ngành bất động sản. Vấn đề này dẫn tới việc giảm nhu cầu về tín dụng của chính khách hàng vay và dẫn tới kết quả các ngân hàng thương mại dư thừa nguồn vốn tạo thêm tính đầu cơ và khó khăn trong việc quản lý tính thanh khoản. Do đó những khó khăn trong chính sách tiền tệ luồng vốn tăng lên cần được phân tích sâu hơn để thấy được những hiệu ứng th iệt hại gây ra. Hơn nữa việc quản lý tiền tệ thêm phức tạp bởi sự chuyển dịch danh mục đầu tư của ngân hàng và các tổ ch ức cá nhân phi ngân hàng. Điều này thể h iện chủ yếu thông qua các cá nhân có tài khoản nước ngoài là m tăng phạm vi đầu cơ. Như vậy dẫn tới xu hướng phức tạp cho việc quản lý tiền tệ trong một nơi mà chính quyền có những công cụ hạn chế.  Quản lý kinh tế vĩ mô 17 Sẽ được cho là khôn ngoan khi chính quyền nỗ lực theo đuổi để duy trì sự ổn định trong tỷ giá, điều nay có thể khó khăn trong một chế độ thị trường xác định. Điều này đòi hỏi một sự phân tích đúng, đánh giá được các yếu tố can thiệp của Ngân hàng Trung ương. Trong điều kiện mà các yếu tố là tạm thời việc thắt chặt thanh khoản và gia tăng can thiệp vào thị trường ngoại hối vượt quá phạm vi cho phép của dự trữ ngoại hối quốc gia (NIR). Có nhiều lần chính phủ gặp phải khó khăn trong việc đối phó với nguồn vốn tạm thời. Thông thường một phần của qũy dự trữ ngoại hối quốc gia sử dụng n goại tệ để hỗ trợ tỷ giá, thậm chí ngay cả những nước có một dự trữ ngoại hối tệ lớn. Nó được cho là cần thiết cho phép Ngân hàng trung ương s ử dụng quỹ dự trữ quốc gia để can thiệp hỗ trợ tỷ g iá hối đoái, với điều kiện đi kèm là thắt chặt tiền tệ và không cho phép mở rộng tín dụng. Ngoài ra các chính phủ khác nhau cùng với các tổ chức tài chính có thể thành lập chung một qũy dự trữ để bảo vệ nền kinh tế các nước này trước các cuộc tấn tấn công do đầu cơ.  Thu thập dữ liệu cho v iệc xây dự ng một chính sách Tự do hóa tài đã loại bỏ được đã loại bỏ yêu cầu cần thiết phải có một đại lý trung gian trước những giao dịch. Các nhà chức trách chỉ có thể biết được các thông tin về giao dịch của tài khoản vốn thông qua báo cáo được yêu cầu tới các công ty hay các cuộc điều tra. Hệ thống báo cáo điều tra này thì không phát triển, do đó thông tin dự liệu nguồn vốn này kém được g hi nhận và đ iều này càng trầm trọng hơn do hệ thống sổ sách ghi chép không phát triển. Ví dụ, tại Uganda việc chuyển nhượng tư nhân đại được rất cao gần 4% GDP, những rất khó để tách chúng th ành những nguồn vốn cấu thành cụ thể. Việc thiếu thông tin rất khó khăn cho việc hoạch định được một chính sách và để xây dựng một chính sách mang kết quả tích cực. Ngoài ra, việc để hiểu rõ các vấn đề phức tạp liên quan tới tự do hóa tài khoản vốn còn thiếu trong cả hệ thống ngân hàng và các đại lý. Để giải quyết vấn đề này Quốc hội cần ban hành một dự luật về hoạt động của ngoại hối. Chúng tôi tin rằng khi nó được ban hành sẽ giúp cải thiện cho việc thu thập dữ liệu.  Quy chế thông minh trong giám sát hệ thống tài chính. Các tổ chức cũng phải đối mặt với các nguy cơ khi tự do hóa tài khoản vốn. Họ mở rộng hoạt động thư tín dụng, mở rộng đảm bảo cho khách hàng và cung cấp dịch vụ cho cả người cư trú và người không cư trú. Tự do hóa tài khoản vốn tạo ra các hình thức mới 18 của rủi ro cho các ngân hàng trong nước mà họ có ít kinh nghiệm quản lý. Các n ợ tích lũy ngắn hạn nước ngoài của ngân hàng là một trong những vấn đề khó khăn chính của ngân hàng. Khi luồng vốn được chuyển qua các hệ thống ngân hàng, đã có s ự gia tăng đáng kể các rủi ro. Trong một s ố trường hợp, loại tiền tệ mà có kỳ hạn lệch nhaus sẽ gây khó khăn cho rủi ro tín dụng và rủi ro tỷ giá hối đoái. Hơn nữa, một số ngân hàng phân bổ các giao dịch trong bảng cân đối ngoại bảng. Đây là một thách thức lớn với vai trò giám sát của Ngân Hàng Trung ương. Trường hợp này thì gồm có ngân hàng ICB và ngân hàng Greelangd phân bổ thư bảo lãnh và thư tín dụng vào bảng cân đối ngoại bảng. Với một tài khoản vốn tự do, các ngân hàng phải báo cáo một cách chính xác số ngoại tệ đang nắm giữ với cơ q uan quản lý là rất cần thiết và cần thực hiện chính sách quản lý rủi ro tỷ giá một một cách thận trọng. Điều này có nghĩa là bổ sung vốn cho các ngân hàng thương mại khi họ thực hiện các giao dịch ngoại hối. Các n hà quản lý cũng cần phải quản lý tính thanh khoản của các ngân hàng, tính hay thay đổi của các khoản vay ngắn hạn nước ngoài.  Chính sách phân quyền cho địa phư ơng. Có nhiều lợi ích tạo ra gắn với thị trường chứng khoán khu vực hiệu quả, đồng thời cũng có một s ố rủi ro trong nó. Hiện nay thì trường chứng khoán Nam Phi đã có nhiều đã có nhiều công ty hàng đầu đầu tư vào miền Nam, miền Trung và Đông Phi. Có nhiều thách thức và nguy hiểm như có những biến động có thể ảnh hưởng tới luồng vốn của Nam Phi vì thế có thể ảnh hưởng tới đầu tư trong khu vực này. Tại Ugandan, các công ty Nam Châu Phi đến đầu tư vào truyền thông, phát thanh và truyền hình, dịch vụ, sản xuất và ngành du lịch, các công ty này đóng góp một nguồn lực đáng kể vào thị trường chứng khoán Nam Phi. Ngoài ra khả năng xảy ra hiệu ứng lây lan có thể gây ra một dòng chảy vốn lớn từ các nước n ày. M ột trường hợp điển hình là sự chiếm đóng của các cựu chiến binh tại Zimbab we đã gây ra một sự sụt giảm tỷ giá hối đoái trong khu vực, các nhà đầu tư đã cố gắng để tái xác định vị trí đầu tư của họ. Vì vậy cần có một chính sách ở cấp khu vực để đề phòng trước rủi ro chính trị và rủi ro chính sách.  Rủi ro của khu vực tư nhân Những rủi ro mà Uganda phải đối mặt là tự do hóa tài khoản vốn được gắn liền với số tiền thu được từ xuất khẩu có tính mùa vụ và liên kết với hành vi đầu cơ làm cho việc 19 quản lý tỷ giá hối đoái khó khăn. Vấn đề còn trở lên phức tạp hơn do việc mua bán không giới hạn và việc nắm giữ ngoại hối của người cư trú và người không cư trú. Các giao dịch liên quan tới thư tín dụng, nợ khu vực tư nhân và hành vi hoang mang thường là nguồn gốc của vấn đề. Trong điều kiện mà các cơ quan tiền tệ bị hạn chế hiệu lực của các văn kiện về hành vi đầu cơ của cá nhân và tổ chức, quản lý tỷ giá dưới một tài khoản vốn tự do là khó khăn. Điều này có xu hướng gây ra một hành vi bầy đàn kết quả giảm các giao dịch, ngoại hối giữ lại không bán vào thị trường, trong khi cùng một thời gian người mua lại mua h àng kỳ hạn gây ra áp lực sụt g iá phổ biến, ngược lại khi có áp lực tăng giá. Dó đó cần phát triển các văn bản hiệu quả để đối phó với khu vực tư nhân và điều này có thể đ ược thể hiện thông qua ngân hàng thương mại tư vấn cho khách hàng của họ, phổ biến giáo dục về các vấn đề như tiền tệ, mối quan hệ giữa tài sản và nợ, các loại L/C…vvv sẽ là một bước tích cực, cần thiết. VII. Kết luận Bài v iết chứng tỏ tự do hóa tài khoản vốn có th ể gây ra nhiều vấn đề, đặc biệt là lên sự bất ổn vĩ mô. Tuy nhiên một tài khoản vốn cởi mở h ơn sẽ làm tăng hiệu năng khi đã có sự sắp xếp cẩn thận và sự kiên quyết. Kinh nghiệm của Uganda chứng tỏ rằng để được tiến hành thành công thì tự do hóa phải được diễn ra sau trong quá trình bình ổn và các chương trình tái cấu trúc. Hơn nữa, tài khoản vốn có thể chuyển đổi đòi hỏi một chính sách hỗn hợp hoàn thiện, bao gồm sự điều chỉnh ở tầm kinh tế v ĩ mô, cũng như những tổ chức quan trọng và cả những cải cách kinh tế vi mô. Điều này bảo đảm chức năng hiệu quả của thị trường tài chính quốc nội và là bước lót đường cho sự hợp nhất vào thị trường toàn cầu. Khả năng lãnh đạo hiệu quả và một chính phủ tốt đều cần tất cả những yếu tố trên để đảm bảo rằng sự đảo ngược chính sách không xảy ra, điều này giúp cho việc khôi phục sự tự tin trong chính sách quản lý kinh tế vĩ mô và thu hút thêm nhiều dòng vốn. Hiện tại, đã có những Quỹ hỗ trợ cho những chương trình không thể giải quyết việc tài trợ khẩn cấp như giải phóng những nguồn dự trữ để xử lý khủng hoảng tỷ giá. Rất cần thiết để tạo ra một quỹ dự trữ bảo vệ cho những nền kinh tế chịu tác động của tấn công đầu cơ cùng với chính sách quản trị kinh tế vĩ mô lạc hậu. Điều này có thể được thương lượng với những tổ chức tài chính quốc tế. Kinh nghiệm củ a v iệc tự do hóa tài khoản vốn trên 3 năm, đã cho thấy rằng tự do hóa tài khoản vốn là niềm mơ ước của Uganda trong môi trường kinh tế hiện th ời nhưng 20
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan