Trường Đại Học Cần Thơ
Khoa Khoa Học Xã Hội & Nhân Văn
Bộ Môn Ngữ Văn
KIM THỊ PHƯƠNG THÚY
(MSSV: 6062147)
TRUYỆN DÂN GIAN NAM BỘ
VỀ NGƯỜI ANH HÙNG CHỐNG PHÁP
Luận văn tốt nghiệp đại học
Ngành Ngữ Văn: Khóa 2006 – 2010
Cán bộ hướng dẫn: Th.S LÊ THỊ DIỆU HÀ
Cần Thơ, tháng 05 - 2010
-1-
ĐỀ CƯƠNG TỔNG QUÁT
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
2. Lịch sử vấn đề
3. Mục đích nghiên cứu
4. Phạm vi nghiên cứu
5. Phương pháp nghiên cứu
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN DÂN GIAN NAM BỘ
VÀ TRUYỆN DÂN GIAN NAM BỘ VỀ NGƯỜI ANH HÙNG
CHỐNG PHÁP
1.1. Khái quát truyện dân gian Nam Bộ
1.1.1. Khái niệm về truyện dân gian Nam Bộ
1.1.2. Phân loại truyện dân gian Nam Bộ
1.2 Khái quát truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp
1.2.1. Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, gắn liền với
những tên tuổi về người anh hùng chống Pháp được lưu dấu trong truyện kể dân
gian Nam Bộ
1.2.2. Khái niệm truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp
1.2.2.1. Khái niệm về người anh hùng chống Pháp
1.2.2.2. Khái niệm truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống
Pháp
1.2.3. Hệ thống truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp
CHƯƠNG 2. NỘI DUNG TRUYỆN DÂN GIAN NAM BỘ VỀ
NGƯỜI ANH HÙNG CHỐNG PHÁP
2.1. Ghi nhận những chứng tích về địa danh, văn hóa gắn với tên tuổi người
anh hùng chống Pháp
-2-
2.2. Khắc hoạ hình tượng người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ
2.2.1. Tinh thần anh dũng cứu nước, tài trí và những chiến công của người
anh hùng chống Pháp.
2.2.2. Những người anh hùng thất thế nhưng vẫn hiên ngang
2.3. Ghi khắc tình cảm của nhân dân Nam Bộ đối với các vị anh hùng chống
Pháp
CHƯƠNG 3. ĐẶC ĐIỂM THI PHÁP TRUYỆN DÂN GIAN
NAM BỘ VỀ NGƯỜI ANH HÙNG CHỐNG PHÁP
3.1. Cốt truyện
3.2. Nhân vật
3.3. Thời gian và không gian nghệ thuật
3.3.1. Thời gian
3.3.2. Không gian
3.4. Môtip
3.4.1. Môtip ngoại hình khác lạ
3.4.2. Môtip hành động phi thường
3.4.3. Môtip lập chiến công
3.4.4. Môtip ra hàng
C. PHẦN KẾT LUẬN
-3-
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nam Bộ là vùng đất được biết đến sau cùng so với các vùng khác của tổ quốc. Khi
nói đến Nam Bộ chúng ta thường nghĩ đến một vùng đất tươi tốt, phì nhiêu, khí hậu hai
mùa mưa nắng với những cây trái trĩu quả, những đồng lúa mênh mông, bát ngát. Nhưng
mảnh đất màu mỡ ấy, trước kia lại là vùng đất gánh chịu nhiều hậu quả của chiến tranh để
lại. Và cũng chính nơi đây đã lưu truyền nhiều tấm gương người anh hùng chống Pháp
như Trương Định, Nguyễn Trung Trực, Thiên Hộ Dương, Thủ Khoa Huân…và những
nhà văn, nhà thơ yêu nước như: Nguyễn Đình Chiểu, Phan Văn Trị...Những vị anh hùng
ấy đã tiêu biểu cho sức mạnh của con người Nam Bộ, đó là những con người gan dạ, dũng
cảm đánh đuổi kẻ thù cướp nước.
“Kể từ Tây tới đến nay
Giang sơn gần thuộc về tay người ngoài
Trương công hùng lược thao tài
Quyết đem binh mã thử tài vài trận chơi
Nghĩa thanh sấm động nhất trời
Biết bao hào kiệt đồng lời thề minh.”
(Vè Trương Định)
Nhờ vào sức mạnh của tinh thần dân tộc và tấm lòng yêu nước nồng nàn mà nhân
dân ta đã đánh đuổi được bọn thực dân cướp nước. Và đã có biết bao vị anh hùng đã hiên
ngang, anh dũng xông pha vào cuộc chiến sống còn với kẻ thù để giành lại độc lập, tự do
cho đất nước. Những vị anh hùng đó tuy không còn nữa nhưng tên tuổi của họ vẫn sống
mãi trong lòng bao thế hệ con người Việt Nam.
Chính vì những lẽ đó mà chúng tôi đã quyết định chọn đề tài “Truyện dân gian
Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp” để hoàn thành luận văn tốt nghiệp của mình. Và
cũng nhằm hiểu rõ hơn những vấn đề liên quan đến các vị anh hùng chống Pháp như sự ra
đời, những chiến công, nguyên nhân thất bại...Bên cạnh đó, thông qua đề tài này, chúng
tôi còn được giáo dục và nâng cao lòng tự hào dân tộc về truyền thống lịch sử vẻ vang của
ông cha ta. Là thế hệ trẻ, chúng tôi cần phải ý thức được tinh thần, trách nhiệm của mình
-4-
đối với đất nước để xứng đáng với công lao hi sinh to lớn của các vị anh hùng dân tộc và
tiếp tục phát huy tinh thần yêu nước nồng nàn của ông cha ta.
Đó là động lực thúc đẩy chúng tôi chọn đề tài “Truyện dân gian Nam Bộ về người
anh hùng chống Pháp”. Chúng tôi cảm thấy rất hứng khởi khi được thực hiện đề tài này.
2. Lịch sử vấn đề
Đối với đề tài Truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp, cũng có
nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến. Thế nhưng chúng tôi chưa tìm thấy một công trình
nghiên cứu riêng nào về đề tài này. Với sự khảo sát của chúng tôi, có thể điểm qua những
nét chính về một số tài liệu liên quan đến đề tài. Ở chừng mực tương đối, chúng tôi chia
làm hai bộ phân:
2.1. Về những tài liệu tìm hiểu về lịch sử vùng đất Nam Bộ thời kháng chiến chống
Pháp, về các vị anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ, văn hoá dân gian Nam Bộ, vấn đề thể
loại truyện dân gian về anh hùng chống Pháp…có những tài liệu sau:
Năm 1991, nhân dịp kỉ niệm 123 năm ngày mất của Nguyễn Trung Trực – anh
hùng kháng Pháp (8-1868 - 8-1991), và tròn 130 năm chiến công đốt tàu giặc trên Vàm
Nhật Tảo ( 1861-1991), NXB Thành phố Hồ Chí Minh giới thiệu với bạn đọc quyển
Nguyễn Trung Trực, anh hùng kháng chiến chống Pháp của Giang Minh Đoán. Trong
quyển sách này tác giả đã dựa vào chính sử, các truyền thuyết, các giai thoại và cả văn
chương thời Nguyễn Trung Trực còn sống để dựng lại một giai đoạn lịch sử mà thân thế
và sự nghiệp của cụ Nguyễn Trung Trực lồng trong bối cảnh đó. Theo tác giả “Cái chết
hiên ngang và tấm gương trung liệt của cụ Nguyễn đã khắc sâu vào tâm tư người Việt
Nam, cổ vũ người đồng thời và kẻ hậu sinh nhóm dậy tinh thần bất khuất chống ngoại
xâm” [1; tr.58]. Tài liệu này như một vật quý báu đã góp thêm vào kho báu lịch sử hào
hùng của cha ông ta, giúp chúng tôi hiểu rõ hơn và thêm trân trọng những vị anh hùng
chống Pháp, là cơ sở cho chúng tôi có thể thực hiện đề tài được tốt hơn.
Năm 1994, tác giả Nguyễn Duy Oanh đã giới thiệu với bạn đọc cuốn sách Quân
dân Nam Kỳ kháng Pháp trên mặt trận quân sự và văn chương (1859-1885), với công
trình này tác giả đã giới thiệu một cách khá chi tiết về quá trình xâm lược của thực dân
Pháp, bắt đầu từ khi quân ta đụng đầu với quân Pháp tại thành Gia Định ngày 17-2-1859
đến khi phong trào kháng Pháp ở miền Nam suy yếu dần vào năm 1885 để chuyển sang
-5-
phong trào Cần Vương. Phần chủ yếu của cuốn sách tác giả đã tập trung trình bày diễn
biến của cuộc kháng chiến chống Pháp ở Nam Kỳ, trong đó làm nổi bật vai trò của lớp trí
thức và một số quan lại nho học yêu nước, họ là người tổ chức, lãnh đạo nhân dân đứng
lên kháng chiến. Như trên mặt trận quân sự có: Nguyễn Trung Trực, Trương Định,
Nguyễn Hữu Huân, Võ Duy Dương…, bằng văn thơ thì có Nguyễn Đình Chiểu, Phan
Văn Trị….Quyển sách này đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn những công lao hi sinh to lớn
của các vị anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ. Chúng tôi thấy rằng, dù trong sử sách hay
truyện kể dân gian thì các vị anh hùng ấy mãi là những tấm gương về đức hi sinh cao cả
để các thế hệ mai sau cảm phục và noi theo. Quyển sách này đã giúp ích chúng tôi rất
nhiều trong quá trình thực hiện đề tài.
Năm 1997, Nguyễn Phương Thảo cho ra đời công trình Văn hoá dân gian Nam
Bộ, những phác thảo do NXB Giáo Dục ấn hành. Công trình này là tập hợp những bài
nghiên cứu của ông đã đăng trên các báo, tạp chí. Những bài nghiên cứu này đã giúp
người đọc hiểu thêm về văn minh miệt vườn, về cấu trúc làng xã…ở Nam Bộ. Trong số
những bài viết đó, chúng tôi chú ý đến bài viết: Đặc trưng truyện dân gian của người
Việt. Bài viết này đã giúp chúng tôi hiểu thêm về đặc trưng của văn học dân gian Nam Bộ,
cũng như mảng truyện dân gian về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ. Trong bài viết
này, Nguyễn Phương Thảo cũng dành một phần nhỏ nói đến truyện về các nhân vật lịch
sử và văn hoá. Theo ông “Hầu hết các nhân vật lịch sử văn hoá trong vùng đều được
nhân dân dành cho một chuyện kể và truyện này lưu hành rộng rãi trong nhân dân. Đó là
truyện về các nhân vật như Lê Văn Khôi, Thiên Hộ Dương, Nguyễn Trung Trực, Nguyễn
Đình Chiểu, Phan Văn Trị,…” [21; tr.74]. Như vậy, cuốn sách này đã ít nhiều đề cập đến
truyện dân gian về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
Quyển Tuyển tập 40 năm Tạp chí văn học, tập 1 – Văn học dân gian, nhà xuất bản
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999, có bài Tìm hiểu kết cấu của dạng truyền thuyết anh
hùng của Bùi Quang Thanh. Trong bài viết này, tác giả đã trình bày sơ đồ kết cấu các
truyền thuyết anh hùng ở các thời kì, trong đó tác giả có nêu các dạng chủ yếu của hệ
thống truyền thuyết trong thời kì chống Pháp xâm lược. Qua đây, tác giả cũng nhận định
“Các hệ thống truyện kể phong phú và độc đáo đó luôn luôn nảy sinh có mối quan hệ
song ứng và sinh tồn với các chặng đường lịch sử của dân tộc. Mang bản chất và đặc
-6-
trưng chung của văn học dân gian. Tính chất lịch sử và sự ra đời trong lịch sử của các
truyền thuyết đồng nhất với nhau. Mặc dù trải qua bão táp lịch sử, thời gian lịch sử
nhưng vẫn được bảo tồn một cách chặt chẽ” [25;tr.356]. Như vậy, truyện dân gian Nam
Bộ về người anh hùng chống Pháp cũng là một bộ phận trong văn học dân gian nói chung
nên cũng mang ít nhiều đặc điểm về kết cấu truyện như truyện dân gian của thời kì chống
Pháp nói chung.
Năm 2001, NXB Trẻ - Thành phố Hồ Chí Minh cho xuất bản quyển Anh hùng
kháng Pháp Nguyễn Trung Trực của Nguyễn Văn Khoa. Trong quyển này, tác giả đã đi
sâu vào nghiên cứu một cách khá toàn diện về thân thế Nguyễn Trung Trực, tiểu sử của
cao tổ nhà họ Nguyễn, những chiến công oanh liệt của Nguyễn Trung Trực cùng nghĩa
quân của ông, cũng như giây phút hi sinh lẫm liệt của Nguyễn Trung Trực. Trong quyển
sách này, tác giả đã nhận định “Cuộc khởi nghĩa Nguyễn Trung Trực có một ý nghĩa và
một vị trí đặc biệt trong sự nghiệp kháng chiến của nhân dân Nam Kỳ nói riêng, nhân dân
cả nước nói chung. Nguyễn Trung Trực mãi mãi là niềm tự hào chính đáng của nhân dân
ta, là biểu tượng sáng ngời về người anh hùng xả thân cứu nước, làm vẻ vang cho tổ
quốc, cho quê hương” [11; tr. 95]. Cuốn sách này đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về những
vấn đề liên quan đến vị anh hùng Nguyễn Trung Trực, từ đó chúng tôi có thể thực hiện đề
tài dễ dàng hơn.
Năm 2005, NXB Trẻ, Tạp chí Xưa và Nay đã xuất bản quyển Võ Duy Dương với
Đồng Tháp Mười. Quyển sách này trình bày toàn bộ diễn tiến của công cuộc kháng chiến
Võ Duy Dương, đồng thời cũng đề xuất và lý giải một số vấn đề chủ yếu liên quan đến
tiểu sử và công cuộc kháng chiến của ông, với mục đích góp phần vào việc phác họa lại
bức tranh phản kháng của nhân dân Nam kỳ nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung
trước sự xâm lược của thực dân Pháp. Quyển sách này đã giúp chúng tôi hiểu rõ hơn về
nhân vật anh hùng Võ Duy Dương, những cuộc khởi nghĩa do ông lãnh đạo đã được sử
sách ghi chép lại và cũng được dân gian lưu truyền qua những truyện kể. Từ đó thấy được
Võ Duy Dương là một vị lãnh tụ có đức độ và tài trí, nhân dân luôn luôn nhớ đến công ơn
của ông. Trong cuốn sách này, tác giả cũng nhận đinh “Võ Duy Dương chẳng những là
một thủ lãnh nghĩa quân có quyết tâm chống giặc cao độ mà còn là một lãnh tụ kháng
-7-
chiến có năng khiếu về tổ chức và chánh trị, có tầm nhìn chiến lược sâu rộng và đặc biệt
rất nhạy bén trước mọi thay đổi của tình thế” [5; tr.151].
2.2 Về những tài liệu sưu tầm, biên soạn nguồn truyện dân gian, có loại truyện dân
gian về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ, chúng tôi nhận thấy có những tài liệu sau:
Quyển Nghìn năm bia miệng do Huỳnh Ngọc Trảng sưu tầm và biên soạn, gồm
những truyện tích và giai thoại dân gian Nam Bộ, do Sở Văn hóa và Thông tin Long An
xuất bản năm 1984. Trong quyển này, chúng tôi đã tìm được 5 truyện dân gian về người
anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
Năm 1988, Nguyễn Hữu Hiếu cho ra mắt bạn đọc quyển Giai thoại dân gian
Đồng Tháp Mười, do NXB Đồng Tháp ấn hành. Công trình đã tổng kết các nguồn truyện
dân gian mà tác giả đã sưu tầm được trong khu vực Đồng Tháp Mười. Trong đó, theo
khảo sát của chúng tôi có 19 truyện liên quan đến đề tài.
Năm 1997, tác giả Nguyễn Hữu Hiếu công bố quyển Nam kì cố sự, do nhà xuất
bản Đồng Tháp xuất bản. Ở công trình này, tác giả đã ghi lại những truyện kể, giai thoại
trong dân gian, trong đó có 15 truyện kể về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
Cũng trong năm 1997, Khoa Ngữ Văn – Trường Đại học Cần Thơ giới thiệu với
bạn đọc quyển Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long do nhà xuất bản Giáo Dục
ấn hành. Trong quyển này các tác giả đã tập hợp khá đầy đủ các thể loại: truyện dân gian,
ca dao, tục ngữ, câu đố của vùng Đồng bằng Sông Cửu Long, trong đó có 4 truyện kể về
người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ.
Năm 2001, nhà xuất bản Thanh Niên lần lượt cho tái bản bộ sách Sưu khảo các
tỉnh thành năm xưa của tác giả Huỳnh Minh. Trong số này, chúng tôi đã khảo sát các
quyển sau: Gò Công xưa, Định Tường xưa, Kiến Hoà xưa, Sa Đéc xưa. Công trình nghiên
cứu của tác giả Huỳnh Minh đã giúp chúng tôi hiểu thêm về lịch sử, đia lí, giai thoại,
huyền thoại, di tích, thắng cảnh cũng như là các anh hùng liệt sĩ kháng Pháp. Trong 4
quyển này, chúng tôi cũng khảo sát được 7 truyện dân gian về người anh hùng chống
Pháp ở Nam Bộ.
Quyển Văn học dân gian – những tác phẩm chọn lọc do Bùi Mạnh Nhị chủ biên,
xuất bản năm 2004. Sách đã sưu tầm những truyền thuyết về thời kì chống pháp như:
Truyền thuyết về Nguyễn Trung Trực, truyền thuyết về Thiên Hộ Dương.
-8-
Nhân dịp kỷ niệm lần thứ 140 ngày giỗ hai vị anh hùng dân tộc vùng Đồng Tháp
Mười: Thiên hộ Võ Duy Dương, Đốc binh Nguyễn Tấn Kiều (rằm tháng 11 năm Bính
Tuất – 2006), Hội Văn học Nghệ thuật tỉnh Đồng Tháp tái bản, có bổ sung quyển Truyền
thuyết Thiên Hộ Dương - Đốc binh Kiều, nhằm giúp người đọc hiểu biết thêm về hai vị và
cuộc sống, chiến đấu của nghĩa quân Đồng Tháp Mười. Trong quyển này chúng tôi đã
khảo sát được 21 truyện kể về Thiên Hộ Dương và Đốc Binh Kiều, cũng như những nhân
vật, sự kiện liên quan đến cuộc khởi nghĩa của hai vị anh hùng này.
Tất cả những tài liệu mà chúng tôi đã điểm qua là những tài liệu có giá trị. Tuy
chưa có tài liệu nào nghiên cứu chuyên biệt về đề tài Truyện dân gian Nam Bộ về người
anh hùng chống Pháp, nhưng tất cả những tài liệu trên đã giúp ích cho chúng tôi rất nhiều
trong việc thực hiện đề tài này.
3. Mục đích nghiên cứu
Thực hiện nghiên cứu đề tài “Truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống
Pháp ”, trước hết chúng tôi tập hợp những truyện kể dân gian Nam Bộ có liên quan trực
tiếp đến đề tài một cách có hệ thống. Từ đó chúng tôi sẽ đi sâu, tìm hiểu, khám phá những
nét cơ bản về đặc điểm nội dung và đặc điểm thi pháp của loại truyện này. Mặt khác,
thông qua việc nghiên cứu đề tài này sẽ giúp chúng tôi thấy được tư tưởng yêu nước của
nhân dân ta thể hiện qua hình tượng người anh hùng chống Pháp trong truyện kể dân gian
Nam Bộ, và qua đó thấy được tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của nhân dân ta.
Bên cạnh đó, chúng tôi còn mong muốn tìm hiểu những chứng tích về địa danh,
văn hóa gắn liền với tên tuổi các vị anh hùng chống Pháp.
4. Phạm vi nghiên cứu
Do sự giới hạn của đề tài nên chúng tôi chỉ đi vào tìm hiểu những truyện dân gian
về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ đến cuối thế kỉ XIX, và chúng tôi cũng không
nghiên cứu tất cả các truyện về người anh hùng chống Pháp trong kho tàng truyện dân
gian Việt Nam.
Ở phạm vi đề tài, do truyện dân gian về người anh hùng chống Pháp ở Nam Bộ
không chỉ có thể loại truyền thuyết mà còn có cả truyện chuyển hoá từ giai thoại sang thể
loại truyền thuyết nên trong quá trình thực hiện đề tài này chúng tôi sẽ nghiên cứu cả loại
-9-
truyện này để làm sáng tỏ vấn đề. Ngoài ra để so sánh, mở rộng vấn đề chúng tôi còn
khảo sát thêm các truyện kể dân gian về những nhà nho yêu nước chống Pháp ở Nam Bộ.
Bên cạnh đó, đây là đề tài chưa được nghiên cứu chuyên sâu nên rất hạn chế về
mặt tài liệu nghiên cứu. Do vậy, chúng tôi chú trọng vào việc khảo sát cụ thể truyện kể để
tìm ra những nét đặc trưng tiêu biểu về nội dung và nghệ thuật của loại truyện này.
Những tài liệu khảo sát chính:
1. Nam kì cố sự - Nguyễn Hữu Hiếu
2. Giai thoại dân gian Đồng Tháp Mười - Nguyễn Hữu Hiếu
3. Truyền thuyết Thiên Hộ Dương – Đốc Binh Kiều - Nguyễn Hữu Hiếu.
4. Tổng tập Văn học dân gian người Việt-tập11- Giai thoại văn học Việt Nam - Kiều Thu
Hoạch .
5. Kho tàng giai thoại Việt Nam - Vũ Ngọc Khánh.
6. Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long - Khoa Ngữ văn – Đại học Cần Thơ.
7. Chuyện xưa tích cũ - Sơn Nam .
8. Nghìn năm bia miệng - Huỳnh Ngọc Trảng.
9. Định Tường xưa - Huỳnh Minh.
10. Gò Công xưa- Huỳnh Minh.
11. Kiến Hoà xưa - Huỳnh Minh.
12. Văn học dân gian – Những tác phẩm chọn lọc - Bùi Mạnh Nhị.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài này, chúng tôi đã sử dụng nhiều phương pháp
nghiên cứu để làm rõ các vấn đề mà đề tài đặt ra.
Phương pháp thống kê, phân loại: Đây là phương pháp đầu tiên mà chúng tôi sử
dụng khi tiến hành khảo sát đề tài này. Một công việc không thể thiếu được khi thực hiện
đề tài này đó là chúng tôi tiến hành tìm kiếm, thu thập các tài liệu liên quan đến đề tài
thông qua sách, báo, tạp chí và các giáo trình có liên quan. Sau đó tiến hành thống kê một
cách cụ thể và phân loại theo tiêu chí đã đề ra.
Phương pháp phân tích, tổng hợp: là phương pháp chúng tôi sử dụng xuyên suốt
trong quá trình nghiên cứu đề tài. Để làm sáng tỏ đặc điểm nội dung và thi pháp của loại
- 10 -
truyện mà đề tài đặt ra thì chúng tôi sẽ tiến hành phân tích ở nhiều phương diện nhằm làm
rõ giá trị nội dung và nghệ thuật của loại truyện này.
Ngoài ra chúng tôi còn sử dụng phương pháp nghiên cứu liên ngành: vận dụng
những kiến thức về lịch sử, văn hoá…để thực hiện đề tài.
Tuy nhiên với khả năng nghiên cứu còn non trẻ của chúng tôi thì vấn đề sai sót
trong việc sử dụng các phương pháp nghiên cứu là điều khó tránh khỏi.
- 11 -
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1
KHÁI QUÁT VỀ TRUYỆN DÂN GIAN NAM BỘ VÀ TRUYỆN
DÂN GIAN NAM BỘ VỀ NGƯỜI ANH HÙNG CHỐNG PHÁP
1.1. Khái quát truyện dân gian Nam Bộ
1.1.1. Khái niệm về truyện dân gian Nam Bộ
So với lịch sử khai phá mấy ngàn năm của Đồng bằng Sông Hồng thì miền đất
Nam Bộ được biết đến muộn hơn rất nhiều. Nam Bộ là vùng đất mới mà nó chỉ thực sự
được biết đến sau khi công cuộc khẩn hoang nơi đây được tiến hành với quy mô lớn vào
cuối thế kỷ XVII. “Lịch sử khai phá 300 năm khiến nó được xem là vùng đất mới so với
mấy nghìn năm tồn tại của đất nước Việt Nam. Con người nơi đây mang trong mình
truyền thống văn hóa của dân tộc, đồng thời hoàn cảnh tự nhiên, lịch sử, xã hội đặc thù
đã góp phần tạo nên nét riêng trong đời sống, trong tính cách của họ. Chính những điều
này ít nhiều đã để lại dấu ấn trong sáng tác nghệ thuật ngôn từ truyền miệng, sưu tầm
được ở đây”[24; tr.8].
Nam Bộ được coi là miền đất mới với sự định cư của nhiều tộc người như: Kinh,
Khơme, Hoa,…họ đến từ nhiều nơi và do nhiều nguyên nhân khác nhau. Sự hỗn hợp ấy
đã tạo nên nét văn hóa riêng của miền đất mới này. Đặc biệt là làm cho nhóm truyện dân
gian nơi đây mang đậm màu sắc Nam Bộ. “Tiến trình phát triển truyện dân gian của
người Việt Nam Bộ gắn liền với tiến trình con người khai phá vùng đất. Công cuộc khai
phá, lập làng, lập ấp, sự cộng cư thân ái với những tộc người anh em như: Chăm, Hoa,
Khơme…”[21; tr.72]. Nếu như “Truyện dân gian của người Việt ở Đồng bằng Sông Hồng
là sự nối tiếp, liên tục dòng chảy trước đó” thì “Truyện dân gian của người Việt ở Nam
Bộ được phát triển từ vốn văn hóa tiềm ẩn trong dòng máu. Sự xa cách vùng văn hóa cội
nguồn cả về không gian và thời gian là nhân tố tác động mạnh mẽ tới những đặc trưng
của truyện dân gian người Việt Nam Bộ” [ 21; tr.73]
Như trên, chúng ta thấy Nam Bộ là vùng đất non trẻ, quá trình hình thành và phát
triển của nó mang những đặc điểm riêng và đã để lại dấu ấn trong các sáng tác dân gian.
Tuy nhiên, với sự nghiên cứu hạn hẹp của chúng tôi, chúng tôi chưa tìm thấy một khái
- 12 -
niệm cụ thể nào nói về truyện dân gian Nam Bộ. Theo sự khảo sát của chúng tôi thì trong
“Văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long” của Khoa Ngữ Văn trường Đại học Cần
Thơ có nói đến khái niệm văn học dân gian Đồng bằng Sông Cửu Long là văn học dân
gian được sưu tầm ở Đồng bằng Sông Cửu Long. Đây là những sáng tác nghệ thuật
truyền miệng được lưu truyền ở các tỉnh Đồng bằng Sông Cửu Long. Nghĩa là nó có thể
được nhân dân sáng tác trong suốt mấy thế kỷ qua trên vùng đất mới, song nó còn là vốn
văn hóa cổ truyền được cất giữ trong trí nhớ của những người đi mở cõi từ các địa
phương khác tụ họp về đây. Nói đơn giản hơn đó là những tác phẩm nghệ thuật truyền
miệng được sưu tầm, ghi chép từ chính những người hiện đang sinh sống trong vùng đọc
lại [ 24; tr.9].
Xuất phát từ khái niệm trên, theo chúng tôi khái niệm về truyện dân gian Nam Bộ
là truyện dân gian được sưu tầm ở Nam Bộ có thể do nhân dân sáng tác trên vùng đất này
suốt mấy thế kỷ qua, hoặc là vốn truyện dân gian cổ truyền được cất giữ trong trí nhớ của
những người đi khẩn hoang từ khắp nơi tụ họp về đây. Truyện thể hiện được lời ăn tiếng
nói, tâm tư tình cảm của con người Nam Bộ cùng với nét đặc thù của vùng đất này được
hình thành và phát triển song song với lịch sử khai phá và phát triển về văn hóa xã hội
trên vùng đất này.
1.1.2. Phân loại truyện dân gian Nam Bộ
Về cách phân loại truyện dân gian Nam Bộ, cũng là một vấn đề khá phức tạp, hiện
nay vẫn chưa có sự thống nhất trong cách phân loại. Sau đây chúng tôi sẽ phân loại truyện
dân gian Nam Bộ theo cách truyền thống là chia làm năm loại:
-
Thứ nhất là thể loại thần thoại:
Thần thoại: là tập hợp những truyện kể dân gian về các vị thần, các nhân vật anh
hùng thần linh, các nhân vật sáng tạo văn hóa thần linh, phản ánh quan niệm của con
người cổ về thế giới tự nhiên và đời sống xã hội con người [2; tr.5].
- Thứ hai là truyền thuyết:
Truyền thuyết là thể loại tự sự dân gian, là những truyện kể dân gian về các sự kiện,
nhân vật lịch sử ( hay giải thích nguồn gốc cảnh vật địa phương) đã được trí tưởng tượng
dân gian tô vẽ thêm bằng các yếu tố hư cấu [2; tr.8].
Có 3 loại truyền thuyết cơ bản:
- 13 -
Truyền thuyết về anh hùng chống ngoại xâm.
Truyền thuyết về các danh nhân văn hoá.
Truyền thuyết về địa danh.
- Thứ ba là truyện cổ tích:
Truyện cổ tích là truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện tưởng
tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như : nhân vật xấu xí, người con riêng,
người mồ côi, người nghèo khổ…Thuộc về truyện cổ tích còn có những câu chuyện kể về
các nhân vật thông minh, ngốc nghếch và cả những câu chuyện kể về những con vật hoạt
động và nói năng như người [2; tr.13].
- Thứ 4 là truyện ngụ ngôn: là một thể loại tự sự dân gian, là một loại truyện chứa
đựng trong câu chuyện hoàn toàn tưởng tượng – thường là truyện về loại vật hoặc ngườimột triết lí, một quan niệm nhân sinh, một kinh nghiệm sống đã được tổng kết hay một
nhận xét về một thực tế xã hội [2; tr.19].
- Thứ 5 là truyện cười: Truyện cười là những truyện kể về những hiện tượng đáng cười
trong cuộc sống. Truyện cười là hình thức đặc biệt phản ánh hiện thực bằng sự phê phán
thông qua tiếng cười [2; tr.20].
Trên đây là cách phân loại theo truyền thống. Tuy nhiên do đặc điểm riêng của hệ
thống truyện kể từng vùng mà có thể có cách phân loại khác nhau. Như vậy, đối với
truyện dân gian Nam Bộ ngoài cách phân loại trên thì để cho việc phân loại được bao quát
hơn, chúng ta có thể nói đến cách phân loại theo đề tài, nội dung của truyện kể. Dựa vào
cách phân loại này thì truyện dân gian Nam Bộ được phân thành 6 nhóm:
1. Truyện có liên quan đến địa danh, liên quan đến sản vật của địa phương: mở
ra một không gian rộng lớn, hoang sơ, giới thiệu sự giàu có của vùng đất mới.
2. Truyện có liên quan đến lịch sử và văn hoá gồm những truyền thuyết về
nhân vật lịch sử, nhân vật văn hoá, những truyện có liên quan đến tính ngưỡng, phong
tục cùng với những hình ảnh, nghĩa khí của các vị anh hùng chống ngoại xâm.
3. Truyện sinh hoạt: kể lại những sự kiện diễn ra trong gia đình và xã hội.
4. Truyện về loài vật, đặc biệt là truyện về sấu và cọp là một trong những bằng
chứng về chiến công chinh phục rừng hoang của cha ông ta ở vùng đất mới.
- 14 -
5. Truyện Ông Ó: là một nhóm truyện trạng với nội dung hướng vào xã hội,
chủ đề gần với truyện trào phúng.
6. Truyện Bác Ba Phi: là một nhóm truyện trạng với nội dung hướng về tự
nhiên với quê hương U Minh giàu có sản vật, gần gũi với truyện bông đùa.
1.2. Khái quát truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp
1.2.1. Lịch sử kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ, gắn liền với
những tên tuổi về người anh hùng chống Pháp được lưu dấu trong truyện kể
dân gian Nam Bộ.
Phong trào kháng chiến của nhân dân Nam Bộ chống thực dân Pháp bắt đầu ngay
từ khi Pháp mới đặt chân xâm lược và đã diễn ra liên tục. Nhân dân Nam Bộ kháng Pháp
bằng quân sự, bằng vũ khí sắc bén của thơ văn, bằng phong trào tị địa của các sĩ phu. Đây
là những nét đặc sắc về phong trào kháng chiến chống Pháp của nhân dân Nam Bộ, đã
nêu cao tinh thần đấu tranh bất khuất, kiên cường của con người vùng đất này. Sau đây,
chúng tôi sẽ trình bày quá trình đấu tranh của quân và dân Nam Bộ trên mặt trận quân sự
và văn chương từ năm 1858 đến 1885. Đây là giai đoạn đầu tiên mà nhân dân Nam Bộ
đứng lên chống Pháp dưới sự lãnh đạo của lớp trí thức, quan lại nho học yêu nước và các
sĩ phu yêu nước như: Trương Định, Võ Duy Dương, Thủ Khoa Huân, Nguyễn Trung
Trực…Họ đã tổ chức và lãnh đạo nhân dân đứng lên kháng chiến quyết liệt không đội trời
chung với kẻ thù. Giai đoạn 1859 đến 1885 là khoảng thời gian từ khi quân dân ta đối mặt
với Pháp tại thành Gia Định ngày 17- 2 - 1859 đến khi phong trào kháng Pháp ở miền
Nam suy yếu dần vào năm 1885 để chuyển sang phong trào Cần Vương. Trong khoảng
thời gian này chúng tôi sẽ chia ra làm 3 giai đoạn nhỏ:
- Giai đoạn thứ nhất từ 1859 đến 1862: Đây là giai đoạn thực dân Pháp mới bắt đầu
đánh chiếm Gia Định đến khi ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị mất khi triều đình kí hoà ước
vào ngày 5-6-1862.
Ngày 11-2-1859, quân Pháp vào cửa Cần Giờ gặp sự kháng cự mãnh liệt của quân
ta, nhưng nhờ súng ống tối tân nên chúng chiếm được ưu thế nên đến ngày 17-2-1859
thành Gia Định rơi vào tay giặc.
Sau khi Gia Định bị giặc chiếm, nổi lên trận đánh vang dội của nghĩa quân Trương
Định, trận đánh vào đồn điền chợ Rẫy vào đêm 3 rạng 4 tháng 7 năm 1860.
- 15 -
Trong những tháng cuối năm 1860, dưới quyền chỉ huy của Trương Định, nghĩa
quân luôn tấn công quân Pháp và gây cho chúng nhiều thiệt hại. Tháng 11 và những ngày
đầu tháng 12 năm 1860, nghĩa quân Trương Định đánh Pháp ở Cần Giuộc, Thủ Dầu Một,
Tây Ninh và Trảng Bàng.
Ngày 4 tháng 9 năm 1861, Võ Duy Dương cho tập kích đồn giặc trên rạch Bảo
Định. Đến ngày 14 tháng 10 năm 1861, Võ Duy Dương án sát Định Tường tổ chức đánh
một trận lớn ở khu vực Cái Thia, Cái Bè. Để trừng trị bọn tay sai theo giặc, trong các
ngày 22, 23, 27 tháng 11 năm 1861 nghĩa quân đã ám sát trưởng các xã Mĩ Quý, Trung
Lương, Tân Lý.
Đến ngày 10-12-1861 Nguyễn Trung Trực đốt tàu Esperance của Pháp tại Vàm
Nhựt Tảo.
Đến ngày 16-12-1861, quân ta và Pháp đánh nhau ở Biên Hòa, cuối cùng ta cũng
thất thủ, như vậy ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ bị mất. Đến ngày 23-3-1862 quân ta và
Pháp đánh nhau ở Vĩnh Long lần thứ nhất. Và ngày 5-6-1862 triều đình Huế ký hiệp ước
“Năm Nhâm Tuất”, hiệp ước này đã công nhận ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ thuộc về
Pháp.
- Giai đoạn hai từ sau khi triều đình Huế ký hiệp ước ngày 5-6-1862 đến mất ba
tỉnh miền Tây 1867.
Sau khi vua Tự Đức ra lệnh cho quan quân triều đình phải hạ khí giới đầu hàng
giặc để hy vọng chuộc lại hoặc trao đổi ba tỉnh miền Đông đã mất. Tuy nhiên một số quan
quân triều đình bất tuân lệnh vua mà tiêu biểu là Trương Định. Ông đã nguyện cùng ở lại
với nhân dân chiến đấu tới cùng. Ông được nhân dân tôn làm chủ soái. Ông đã chỉ huy đại
binh đóng ở Gò Công. Ngày 1-3-1862 Trương Định đánh chiếm đồn Pháp ở Gò Công,
đóng luôn quân ở đây. Ngày 16-12-1862 ba chiếc tiểu hạm đậu trên sông Vàm Cỏ Đông
bị nghĩa quân tấn công. Ngày17-12-1862 nghĩa quân của Trương Định tấn công đồn Rạch
Tra. Ngày 18-12-1862 Trương Định chỉ huy đánh đồn Thuộc Nhiêu. Ngày 25-2-1863
Pháp tái chiếm Gò Công, Trương Định rút quân về “Đám lá tối trời”. Đến ngày 20-81864, tên phản nước Huỳnh Công Tấn dẫn lính đến bao vây và giết Trương Định.
Sau khi Trương Định mất, lại có cuộc khởi nghĩa do Võ Duy Dương chỉ huy.
Ngày 22-7-1865, Võ Duy Dương với 100 nghĩa quân tấn công đồn Pháp ở Mỹ Trà (Sa
- 16 -
Đéc), đốt chợ và một chiếc tàu nhỏ. Cuối tháng 3-1866, Võ Duy Dương đóng binh ở ấp
Lý, bị Pháp tấn công. Ngày 14 - 4 - 1866 Pháp đánh vào tổng hành dinh của Võ Duy
Dương ở Đồng Tháp. Ngày 18 - 4 - 1866, tất cả các đồn trại của Võ Duy Dương bị Pháp
chiếm. Sau thất bại này, ông xuống An Giang rồi ra Bình Thuận bằng đường biển, bị đắm
thuyền chết ở cửa biển Thần Mẫu vào ngày 6-10-1866.
Đến ngày 25-6-1867, Pháp tuyên bố Nam Kỳ là lãnh địa của Pháp, triều đình Huế
không còn quyền lực gì đối với Nam Kỳ.
- Giai đoạn ba từ 1867 sau khi mất ba tỉnh miền Tây đến năm 1885 khi phong
trào kháng Pháp ở Nam Kỳ đã suy yếu.
Sau khi Nam Kỳ thuộc về tay Pháp, ở vùng đất này đã có nhiều cuộc khởi nghĩa
của quân dân bùng nổ nhưng do thế lực của địch mạnh hơn nên cuối cùng những phong
trào này đều thất bại.
Từ 9-11 đến 17-11-1867, Phan Tôn và Phan Liêm chống Pháp tại Bến Tre, đánh
hai trận lớn. Trận Hương Điểm từ 9 đến 13-11-1867. Trận Ba Tri, từ 15-11 đến 17-111867. Ở trận này, hai anh em Phan Tôn và Phan Liêm đều thất bại và đã tị địa ra Huế.
Đến 18-6-1868, Nguyễn Trung Trực đánh Rạch Giá và giữ được đến ngày 21-61868. Ngày 19-9-1868, giặc bao vây đảo Phú Quốc, Nguyễn Trung Trực bị bắt. Đến ngày
27-10-1868 Nguyễn Trung Trực bị tử hình tại Rạch Giá.
Đầu năm 1875, phong trào kháng Pháp do Nguyễn Hữu Huân lãnh đạo lan rộng từ
ranh giới tỉnh Tân An qua chợ Gạo đến Tân Hiệp và Vĩnh Kim Đông, Vĩnh Kim Tây.
Ngày 15-5-1875, Phủ Lộc ở Cái Bè, Phủ Đức ở Gò Công hợp tác với Pháp hành quân tìm
bắt Thủ Khoa Huân. Ngày 19-5-1875, Nguyễn Hữu Huân bị tử hình ở Chợ Cũ (Mỹ Tho).
Như vậy, trong 26 năm (1859-1885) toàn quân và dân Nam Bộ đã chiến đấu anh
dũng, bằng vũ khí thô sơ và bằng một quyết tâm sắt đá để chống cự kẻ thù xâm lược từ
lúc chúng mới bước chân vào Gia Định đến khi chúng biến mảnh đất này thành thuộc địa
của chúng. Nhân dân Nam Bộ đã đấu tranh bằng mọi vũ khí có thể có, có người đấu tranh
bằng khí giới, có người đấu tranh bằng văn thơ, dù bất cứ hoàn cảnh nào, quân dân Nam
Kỳ cũng đấu tranh quyết liệt, chấp nhận hi sinh vì nền độc lập của nước nhà. Người anh
hùng này vừa ngã xuống, liền có những anh hùng khác đứng lên chiến đấu anh dũng.
- 17 -
Quân dân Nam Bộ đã kế thừa truyền thống yêu nước nồng nàn và tinh thần chiến đấu kiên
cường, bất khuất của ông cha ta.
1.2.2. Khái niệm truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp
1.2.2.1. Khái niệm về người anh hùng chống Pháp
Trong suốt thời kì kháng chiến chống Pháp của dân tộc ta, đã có biết bao vị anh
hùng đứng lên giương cao ngọn cờ độc lập dân tộc. Theo chúng tôi, người anh hùng
chống Pháp là những người đã tham gia vào phong trào kháng chiến chống Pháp, họ là
những nhân vật lịch sử đã đi vào trận chiến, lập nên những chiến công vẻ vang giết giặc
cứu nước. Với những đóng góp to lớn và sự hi sinh cao cả của họ, nhân dân luôn tôn kính
và biết ơn họ, xem họ là những vị anh hùng dân tộc.
1.2.2.2. Khái niệm truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống
Pháp
Theo kết quả khảo sát của chúng tôi, chưa có một công trình nghiên cứu nào nêu
lên khái niệm truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp.
Theo chúng tôi, để có khái niệm đầy đủ và chính xác về truyện kể dân gian ở Nam
Bộ về người anh hùng chống Pháp, chúng ta cần xem xét trong tổng hòa các mối quan hệ
tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử. Thật vậy, Nam Bộ là vùng đất non trẻ, ra đời muộn hơn các
vùng đất khác của tổ quốc, được hình thành do quá trình khai phá và khẩn hoang hơn 300
năm của ông cha ta. Cuộc khẩn hoang mới diễn ra hơn 1 thế kỉ rưỡi, thực dân Pháp đã đến
xâm lược ngay từ những ngày đầu và suốt tiến trình về sau, hoàn cảnh khắc nghiệt, khó
khăn nhưng nhân dân Nam Bộ vẫn kiên cường đấu tranh để bảo vệ vùng đất này. Thế nên,
truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp không chỉ ca ngợi những vị anh
hùng đã kiên cường, anh dũng chiến đấu với kẻ thù để bảo vệ quê hương, mà còn thể hiện
tâm tư, tình cảm và dấu ấn riêng của người dân Nam Bộ. Truyện không đậm chất huyền
ảo, thần kì mà lại mang đậm dấu ấn hiện thực. Các nhân vật trong truyện đều lấy nguyên
mẫu từ những con người có thật, những sự kiện trong truyện đều xoay quanh các vị anh
hùng. Tất cả đều thể hiện nét riêng, độc đáo của con người Nam Bộ.
Truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp là loại truyện dân gian kể
về người anh hùng khởi nghĩa vũ trang chống Pháp, ca ngợi những vị anh hùng đã chiến
đấu và hi sinh anh dũng vì nhân dân Nam Bộ nói riêng và cho cả dân tộc nói chung. Loại
- 18 -
truyện này kể về những chiến công hiển hách, cả sự thất bại của các vị anh hùng. Truyện
còn phản ánh tâm tư, tình cảm, lòng yêu nước của nhân dân Nam Bộ. Đây là những
truyện kể được sáng tác và lưu truyền trên vùng đất Nam Bộ.
Sau đây, chúng tôi xin nói thêm về góc độ thể loại và góc độ đề tài, nội dung của
hệ thống truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp.
Theo cách phân loại truyền thống, về mặt thể loại, chúng tôi xác định hệ thống
truyện dân gian Nam Bộ về người anh hùng chống Pháp thuộc thể loại truyền thuyết, bên
cạnh đó cũng có truyện có sự chuyển hoá từ giai thoại sang truyền thuyết.
Về vấn đề phân biệt giữa truyền thuyết và giai thoại, chúng tôi dẫn ra những nhận
định từ các tài liệu nghiên cứu như sau:
- Về thể loại truyền thuyết: Truyền thuyết là thể loại tự sự dân gian, là những
truyện kể dân gian về các sự kiện, nhân vật lịch sử ( hay giải thích nguồn gốc cảnh vật
địa phương) đã được trí tưởng tượng dân gian tô vẽ thêm bằng các yếu tố hư cấu [2; tr.8].
Truyền thuyết là một thể loại lớn trong văn học dân gian, đã hình thành, vận động
và phát triển lâu đời. Nhìn chung, truyền thuyết là những tự sự dân gian có cái lõi lịch sử,
màu sắc ít nhiều huyền ảo, nội dung kể về các nhân vật và sự kiện lịch sử. Truyền thuyết
không phải là chính sử mà chỉ là dã sử. Nó là văn học chứ không phải lịch sử. Nó thể hiện
cách nhìn, cách đánh giá của nhân dân về lịch sử.
Khác chính sử, một số sự kiện trong truyền thuyết có thể do người dân bịa đặt,
tưởng tượng ra. Nhưng điều đó chỉ nhằm củng cố thêm niềm tin, sự ngưỡng mộ của nhân
dân đối với những người có công trong lịch sử.
Tuy nhiên, không phải nhân vật, sự kiện lịch sử nào cũng được đi vào truyền
thuyết. Muốn thành truyền thuyết, những nhân vật, sự kiện này phải gần gũi với nhân dân,
phải được nuôi dưỡng bởi lòng biết ơn, sự tôn thờ và ngưỡng mộ của bao thế hệ, phải tồn
tại qua nhiều chứng tích văn hóa …
Truyền thuyết được chia thành nhiều nhóm: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết
phổ hệ, truyền thuyết thần tổ ngành nghề, truyền thuyết địa danh ...
- Về giai thoại: Theo GS. Kiều Thu Hoạch, “giai thoại vốn là một thuật ngữ gốc
Hán, giai có nghĩa là hay, thoại là câu chuyện kể. Như vậy, giai thoại là câu chuyện kể
hay, đẹp, mà lâu nay, giới nghiên cứu vẫn coi thuật ngữ này là tương đương với thuật ngữ
- 19 -
anecdote của phương Tây” (Thông báo Văn hóa dân gian 2002, tr.644). Theo “Chúng tôi
gọi là giai thoại, tác phẩm tự sự trào phúng hoặc hài hước, được xây dựng trên một tình
tiết có một sức tăng tiến, tới điểm cao, biểu hiện rõ rệt và hết sức bất ngờ” ( Vũ Ngọc
Khánh-Tiếp cận kho tàng Foklore Việt Nam, tr.168). Như vậy, giai thoại là những tự sự
dân gian, chủ yếu được truyền miệng. Nó là những câu chuyện lý thú, hay, đẹp, có tính
chất hài hước, dí dỏm, mang nhiều ý nghĩa triết lý.
Vũ Ngọc Khánh đề nghị chia giai thoại làm ba nhóm: giai thoại văn học, giai thoại
lịch sử, giai thoại Folklore (Tiếp cận kho tàng Foklore Việt Nam, tr.174).
-
Quá trình đối sánh, cho thấy truyền thuyết và giai thoại có không ít chỗ trùng hợp.
Những điểm trùng hợp giữa truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử là:
Cùng dạng thức (tự sự dân gian).
Cùng cách lưu truyền (được truyền miệng và được ghi lại thành văn bản).
Cùng nội dung (đề cập đến các sự kiện, nhân vật lịch sử, có liên hệ chặt chẽ đến
tiến trình tồn vong của đất nước).
Cùng phương pháp phản ánh (nhân vật gần với đời thực, ít yếu tố siêu nhiên,
thần kỳ, đôi khi còn ít nhiều yếu tố hư cấu, tưởng tượng).
- Tuy nhiên, ngoài sự trùng hợp trên, truyền thuyết lịch sử và giai thoại lịch sử có
rất nhiều điểm khác nhau:
Về qui mô tác phẩm, giai thoại thường phải hết sức ngắn gọn. Một giai
thoại hấp dẫn cần phải có lời kể, lời thoại thật ngắn gọn. Đây là yếu tố làm tăng kịch tính
và độ căng cho câu chuyện. Tuy nhiên, truyền thuyết không có nhu cầu được kể ngắn gọn.
Về hình thức thể hiện, giai thoại bắt buộc phải có lời thoại, tức có đối đáp
giữa các nhân vật. Không có lời thoại, câu chuyện dù thú vị đến đâu cũng không thể thành
giai thoại. Trong khi đó, không ít truyền thuyết rất hấp dẫn mà chẳng cần có lời thoại nào.
Về ngôn ngữ kể, giai thoại thường đề cao tính trí tuệ của lời thoại. Một giai
thoại được xem là hay cần phải có lời thoại hay, giàu chất trí tuệ. Khác giai thoại, truyền
thuyết lại đề cao tính biểu cảm của lời kể. Một truyền thuyết hay cần phải có cốt chuyện
hay, lời kể gây được nhiều xúc động.
Về giọng kể, giai thoại thường pha giọng dí dỏm, hài hước, phê phán.
Truyền thuyết luôn mang giọng điệu trang trọng, thành kính, phù hợp với thái độ đánh giá
- 20 -
- Xem thêm -