BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP.HCM
TRẦN CHÂU NGỌC
LUẬN VĂN THẠC SỸ
ĐỀ TÀI:
U
U
TRUYEÄN CÖÔØI TIEÁNG
VIEÄT NHÌN TÖØ LYÙ
THUYEÁT HOÄI THOAÏI
TP. HỒ CHÍ MINH - 2011
MỤC LỤC
B
0
MỤC LỤC ............................................................................................................................ 2
7T
T
7
MỞ ĐẦU .............................................................................................................................. 5
7T
T
7
1. Lí do chọn đề tài................................................................................................................................... 5
7T
7T
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................................................................... 5
7T
7T
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu ............................................................................ 8
7T
T
7
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn cứ liệu ........................................................................................... 9
7T
T
7
5. Đóng góp của luận văn ....................................................................................................................... 10
7T
7T
6. Cấu trúc của luận văn ......................................................................................................................... 10
7T
7T
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT .................................................................................. 12
7T
7T
1.1.Khái niệm hội thoại .......................................................................................................................... 12
7T
7T
1.2.Một số vấn đề chung về hội thoại ..................................................................................................... 12
7T
7T
1.2.1.Đặc điểm hội thoại .................................................................................................................... 13
T
7
7T
1.2.2.Vận động hội thoại.................................................................................................................... 14
T
7
7T
1.2.3.Qui tắc hội thoại........................................................................................................................ 14
T
7
7T
1.3.Cấu trúc hội thoại ............................................................................................................................. 15
7T
7T
1.3.1.Cuộc thoại................................................................................................................................. 16
T
7
7T
1.3.2.Đoạn thoại ................................................................................................................................ 17
T
7
7T
1.3.3.Cặp trao đáp (cặp thoại) ............................................................................................................ 17
T
7
7T
1.3.3.1.Cấu trúc............................................................................................................................. 17
T
7
7T
1.3.3.2.Tính chất ........................................................................................................................... 18
T
7
7T
1.3.4.Tham thoại................................................................................................................................ 19
T
7
7T
1.3.5.Hành vi ngôn ngữ ..................................................................................................................... 20
T
7
7T
1.4.Phương châm hội thoại ..................................................................................................................... 21
7T
7T
1.4.1.Phương châm hội thoại và ngữ cảnh giao tiếp ........................................................................... 22
T
7
T
7
1.4.2.Các phương châm hội thoại....................................................................................................... 23
T
7
7T
1.4.2.1.Phương châm về lượng ...................................................................................................... 23
T
7
7T
1.4.2.2.Phương châm về chất......................................................................................................... 24
T
7
7T
1.4.2.3.Phương châm về cách thức ................................................................................................ 26
T
7
7T
1.4.2.4.Phương châm về quan hệ ................................................................................................... 27
T
7
7T
1.4.3.Những trường hợp vi phạm phương châm hội thoại................................................................... 29
T
7
T
7
1.4.3.1.Sự vi phạm không cố ý ...................................................................................................... 29
T
7
7T
1.4.3.2.Sự vi phạm cố ý................................................................................................................. 31
T
7
7T
CHƯƠNG 2: CẤU TRÚC HỘI THOẠI TRONG TRUYỆN CƯỜI ............................... 33
7T
T
7
2.1.Đặc điểm của cuộc thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam.......................................................... 33
7T
T
7
2.1.1.Hình thức hội thoại trong các cuộc thoại ................................................................................... 38
T
7
T
7
2.1.2.Cấu trúc của các cuộc thoại ....................................................................................................... 45
T
7
7T
2.2.Đặc điểm của cặp thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam............................................................ 53
7T
T
7
2.2.1.Cặp thoại một tham thoại .......................................................................................................... 57
T
7
7T
2.2.2.Cặp thoại hai tham thoại ........................................................................................................... 59
T
7
7T
2.2.3.Cặp thoại phức tạp .................................................................................................................... 60
T
7
7T
2.3.Đặc điểm của tham thoại trong Tiếng cười dân gian Việt Nam.......................................................... 62
7T
T
7
2.3.1.Đặc điểm của tham thoại dẫn nhập ............................................................................................ 63
T
7
T
7
2.3.2.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp .............................................................................................. 65
T
7
7T
2.3.3.Đặc điểm của tham thoại hồi đáp – dẫn nhập ............................................................................. 66
T
7
T
7
2.4.Đặc điểm của hành vi ngôn ngữ trong Tiếng cười dân gian Việt Nam ............................................... 67
7T
T
7
2.4.1.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói trực tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam ................... 68
T
7
T
7
2.4.1.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời dẫn nhập.................. 68
T
7
T
7
2.4.1.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp .................... 69
T
7
T
7
2.4.1.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói trực tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập .. 70
T
7
T
7
2.4.2.Các hành vi ngôn ngữ theo cách nói gián tiếp trong Tiếng cười dân gian Việt Nam................... 71
T
7
T
7
2.4.2.1.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời dẫn nhập ................. 71
T
7
T
7
2.4.2.2.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp .................... 73
T
7
T
7
2.4.2.3.Các hành vi ngôn ngữ được sử dụng theo cách nói gián tiếp trong lời hồi đáp – dẫn nhập .. 74
T
7
T
7
CHƯƠNG 3: VI PHẠM PHƯƠNG CHÂM HỘI THOẠI – YẾU TỐ
7T
TẠO NÊN
TIẾNG CƯỜI TRONG TRUYỆN CƯỜI......................................................................... 76
T
7
3.1.Sự vi phạm phương châm về lượng .................................................................................................. 76
7T
7T
3.2.Sự vi phạm phương châm về chất ..................................................................................................... 80
7T
7T
3.3.Sự vi phạm phương châm về cách thức ............................................................................................. 87
7T
7T
3.4.Sự vi phạm phương châm về quan hệ ............................................................................................... 92
7T
7T
KẾT LUẬN ........................................................................................................................ 99
7T
T
7
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................................... 101
7T
7T
TÀI LIỆU TRÍCH DẪN .................................................................................................. 104
7T
7T
MỞ ĐẦU
B
1
1. Lí do chọn đề tài
8B
Dụng học (pragmatics) là một bộ môn kí hiệu học đã được Ch. Morris đề xướng từ
những năm 30 của thế kỉ XX nhưng mãi đến những năm 70 thì việc nghiên cứu về dụng học
mới phát triển một cách mạnh mẽ.
Ngữ dụng học (linguistic pragmatics) là một bộ môn ngôn ngữ học nghiên cứu cách sử
dụng ngôn ngữ trong giao tiếp, tức là sử dụng ngôn ngữ trong những ngữ cảnh cụ thể để đạt
được những mục đích giao tiếp cụ thể. Đây là một bộ môn mới, có cách tiếp cận ngôn ngữ
một cách toàn diện nên việc tìm hiểu bộ môn này trở thành nhu cầu cần thiết đối với những
ai quan tâm đến tiếng Việt.
Hội thoại là một bộ phận của ngữ dụng học được dùng trong hoạt động giao tiếp.
Trong giao tiếp có những cấu trúc phức tạp, có những qui định tuy không được nói ra thành
lời nhưng những người tham gia giao tiếp cần phải tuân thủ, nếu không thì dù câu nói không
mắc lỗi (về ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp) giao tiếp cũng sẽ không thành công.
Là một thể loại của văn học, truyện cười sử dụng một cách triệt để hình thức hội thoại.
Và thông thường, khi tiếp xúc với truyện cười, chúng ta cảm thấy tức cười và bật lên tiếng
cười. Nhưng nhiều lúc để trả lời vì sao chúng ta lại cười, các yếu tố gây cười, điều gì làm
nên tiếng cười…thì không nhiều người có thể lý giải được. Do đó, thiết nghĩ nên có những
công trình nghiên cứu về truyện cười, cung cấp những kiến thức cơ bản về ngôn ngữ học để
có thể lý giải được một câu chuyện cười.
Xuất phát từ những điều vừa nêu, chúng tôi chọn đề tài Truyện cười tiếng Việt nhìn
từ lý thuyết hội thoại làm đề tài nghiên cứu. Vì phạm vi của đề tài khá rộng, và giới hạn chỉ
dừng lại ở cấp độ luận văn nên chúng tôi chỉ xin đi vào một số vấn đề trọng tâm mà chúng
tôi cho rằng đó là những yếu tố cơ bản và cần thiết để nghiên cứu truyện cười.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
9B
Truyện cười ra đời từ rất sớm và khó có thể khẳng định mốc thời gian đánh dấu sự ra
đời của nó. Nhưng có thể khẳng định một điều rằng, truyện cười ra đời từ khi con người có
nhu cầu trao đổi tư tưởng tình cảm với nhau, nảy sinh trong quá trình giao tiếp và phục vụ
cho nhu cầu giao tiếp.
Điểm qua các tài liệu có liên quan đến truyện cười, chúng tôi nhận thấy có khá ít công
trình nghiên cứu về chúng. Phần lớn là những công trình có tính chất sưu tập, tuyển chọn và
biên soạn lại theo một khuynh hướng nào đó (dưới dạng các tuyển tập).
Một số tài liệu có bàn về truyện cười dưới góc nhìn văn học, nhưng cũng chỉ mang
tính chất điểm qua, nêu lên. Như: Văn học dân gian Việt Nam Đinh Gia Khánh chủ biên, Văn
học dân gian Việt Nam của Hoàng Tiến Tựu, Những đặc điểm thi pháp của các thể loại văn
học dân gian của Đỗ Bình Trị, Tổng tập văn học dân gian của người Việt do Viện Khoa học
Xã hội Việt Nam biên soạn, Tiếng cười dân gian Việt Nam của Trương Chính – Phong
Châu...Chẳng hạn:
1) Trong quyển Văn học dân gian Việt Nam [29], các tác giả đã đi vào tìm hiểu tiếng
cười trong truyện cười (tiếng cười hài hước đơn giản và tiếng cười hài hước có ý nghĩa xã
hội), nội dung truyện cười (đấu tranh xã hội, chống lại mọi hành động, thái độ có hại cho xã
hội...), nghệ thuật truyện cười (phóng đại, kịch tính)...
2) Trong lời nói đầu của cuốn Tiếng cười dân gian Việt Nam [70] Trương Chính –
Phong Châu cũng đã nêu lên những đặc diểm khái quát về truyện cười: ý nghĩa xã hội của
tiếng cười (tiếng cười là vũ khí đả kích tố cáo đối với cái xấu), đối tượng của tiếng cười (vua
chúa, quan lại, địa chủ, thần linh…), biện pháp gây cười (phóng đại, kịch tính), gạn đục khơi
trong (giáo dục tư tưởng)…Trong đó tác giả giới thiệu hai biện pháp chính để gây cười là
phóng đại (phóng đại về sự việc, thói hư tật xấu của nhân vật, khai thác những hiện tượng
trái lẽ tự nhiên, tạo mâu thuẫn giữa nội dung và hình thức để gây cười); tạo kịch tính (kịch
tính được tạo nên do sự thay đổi bất ngờ của hoàn cảnh, chính yếu tố bất ngờ đã tạo nên
tiếng cười).
3) Với Các phương thức lạ hóa trong nghệ thuật biểu đạt truyện cười [36], tác giả
Triều Nguyên cho rằng phương thức, thủ pháp góp phần tạo nên tiếng cười gọi chung là lạ
hóa. Có ba phương thức lạ hóa thường gặp trong truyện cười, đó là lạ hóa theo lối phóng đại,
lạ hóa theo lối tạo sự việc bất ngờ, lạ hóa theo lối dựng hoàn cảnh thực tế.
4) Trong Tiếng cười Việt Nam [48], Văn Tân nêu ra và phân tích một số yếu tố gây
cười: phương pháp phóng đại, cái tục, tính kịch, tiếu lâm không có kết luận, tính hiện thực,
hình thức ngắn ngủi.
5) Còn trong Truyện tiếu lâm [42], tác giả Nguyễn Hồng Phong nhận thấy có bốn đặc
điểm tạo nên tiếng cười: sự khai thác triệt để các mâu thuẫn trái tự nhiên, sự sắp đặt các
mâu thuẫn trong thế tương phản để gây cười, phương pháp nói ngoa – phóng đại, lối nói
thắt nút.
Dưới góc nhìn ngôn ngữ học, chúng tôi nhận thấy một số bài nghiên cứu về truyện
cười của các tác giả Trịnh Sâm, Trần Hoàng, Vũ Ngọc Khánh, Bùi Khắc Viện…là trong số
hiếm hoi các tác giả đề cập đến vấn đề này. Có thể điểm qua:
1) Trong Nghệ thuật tổ chức văn bản trong truyện cười bác Ba Phi [44], tác giả Trịnh
Sâm đã đã xem xét văn bản như một chỉnh thể trong hoạt động giao tiếp và tiến hành mô
hình hóa chúng. Tác giả chỉ ra một số thủ pháp nghệ thuật về tổ chức văn bản. Qua khảo sát
56 truyện cười bác Ba Phi tác giả tìm ra được những cấu trúc trong tổ chức văn bản: cấu trúc
tuyến tính, cấu trúc đảo trình tự, cấu trúc song hành, cấu trúc hỗn hợp; và các thủ pháp tổ
chức văn bản: thủ pháp tăng tiến, thủ pháp khuếch đại, thủ pháp chuẩn bị ngữ cảnh. Tác giả
tập trung vào phân tích, thể hiện hai loại cấu trúc đó là cấu trúc tuyến tính và cấu trúc đảo
trật tự.
2) Tác giả Trần Hoàng với Những sắc thái độc đáo của tiếng cười dân gian Nam Bộ
qua truyện kể Ba Phi [24] đã rút ra một số biện pháp gây cười là ngoa dụ (cường điệu, phúng
dụ, khoa trương) và một số biện pháp tu từ văn bản (phương thức mở rộng), giọng điệu
mang tính khẩu ngữ của người Nam Bộ (qua việc sử dụng các từ địa phương, từ xưng hô,
quán ngữ, thành ngữ…). Mặc dù tác giả chỉ giới hạn một số biện pháp gây cười trong truyện
cười Bác Ba Phi, nhưng có thể nói đây là những biện pháp gây cười, tạo nên tiếng cười trong
cuộc sống nói chung.
3) Vũ Ngọc Khánh với Hành trình đi vào xứ sở cười [30] đã nêu ra ba phương thức
chính gây cười trong tiếng Việt là: Biến hóa ngôn ngữ để gây cười (chơi chữ, nói lái, nói
tục), cưỡng chế logic để gây cười (lối nói phóng đại, gài bẫy, tạo bất ngờ, đưa ra một câu
chuyện phi lí để gây cười) và tạo trò đùa – mẫu nhân vật để gây cười (đây là cách gây cười
phổ biến nhất). Tác giả thể hiện nhận định của mình qua một số truyện cười tiêu biểu.
4) Trong Hiện tượng mơ hồ trong nghệ thuật gây cười [7], tác giả Nguyễn Đức Dân
cho rằng “Hiện tượng mơ hồ chẳng những được dùng trong những mẩu chuyện cười, những
nụ cười ngắn gọn, nó còn được dùng để xây dựng những truyện cười. Những truyện cười của
các tác giả Việt Nam thường dựa trên những hiện tượng mơ hồ về từ ngữ”.
5) Bùi Khắc Viện với Tiếng cười trong phong cách ngôn ngữ của Bác qua tác phẩm
bằng tiếng Việt [61] cho rằng có hai loại biện pháp gây cười: ngôn ngữ học và phi ngôn ngữ
học. Biện pháp ngôn ngữ học là biện pháp đặc thù nhằm khai thác những đặc điểm riêng của
ngôn ngữ để gây cười. Tác giả nêu ra một số biện pháp gây cười như: chơi chữ, tương
phản...Biện pháp phi ngôn ngữ học gồm các thao tác: lựa chọn, sắp xếp các chi tiết...
6) Trong Hàm ý hội thoại trong các truyện cười dân gian: Khoe của và Hai kiểu áo
[65], tác giả Nguyễn Hoàng Yến cho rằng từ góc nhìn dụng học, sự khai thác hàm ý trong
các truyện này nhằm mục đích làm rõ thêm đặc tính của truyện cười. Hàm ý hội thoại là yếu
tố quan trọng tạo nên tiếng cười. Tác giả thống kê có 98% truyện cười có hội thoại (thống kê
qua Tiếng cười dân gian Việt Nam của Trương Chính - Phong Châu).
Đặc biệt, theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì có rất ít những công trình nghiên cứu về
truyện cười dưới góc nhìn ngôn ngữ học ở cấp độ luận văn, luận án. Cụ thể, đã có công trình
nghiên cứu về: Đặc điểm ngữ dụng của truyện cười dân gian Việt Nam [34]; Một số phương
thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt [47], tác giả đã tiến hành khảo sát truyện
cười và trên cơ sở đó nêu ra 26 phương thức tạo hàm ngôn trong truyện cười tiếng Việt:
phương thức chơi chữ, phương thức so sánh, phương thức tỉnh lược...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu đều nặng về sưu tầm, diễn giải cảm tính dưới
góc nhìn văn hóa dân gian, có những sự diễn giải nhìn từ ngôn ngữ học nhưng rất ít và chủ
yếu nghiên cứu đặc điểm của văn bản hay một số phương thức tạo nên tiếng cười.
3. Đối tượng, mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu
10B
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là những văn bản có tổ chức ngôn từ theo một hình
thức nào đó có thể gây nên tiếng cười. Do đó, truyện cười được hiểu theo nghĩa rất rộng – từ
truyện cười dân gian cho đến hiện đại đều là đối tượng nghiên cứu của đề tài này. Tuy nhiên,
do danh mục truyện cười được biên tập, xuất bản khá lớn nên chúng tôi chỉ xin khảo sát ở
một số tác phẩm tiêu biểu (chúng tôi sẽ trình bày cụ thể trong mục phương pháp nghiên cứu
và nguồn cứ liệu) mà chúng tôi cho rằng chúng thể hiện rõ nét những vấn đề cần trình bày.
3.2. Mục đích nghiên cứu
Với hướng nghiên cứu như trên, luận văn nhằm hướng đến mục đích là nghiên cứu hội
thoại truyện cười nhằm chỉ ra các đặc điểm hội thoại dưới góc nhìn ngữ dụng học. Đồng thời
luận văn cung cấp cho người tiếp nhận cách thức vận dụng những kiến thức ngôn ngữ học để
có thể giải mã, giải thích về truyện cười và các yếu tố tạo nên tiếng cười.
3.3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn là:
- Xác định cơ sở lí luận về ngữ dụng học đối với việc nghiên cứu hội thoại nói chung,
hướng tới việc nghiên cứu hội thoại trong thể loại văn học, cụ thể là truyện cười. Đi vào tìm
hiểu các khái niệm có liên quan: cấu trúc hội thoại, phương châm và việc vi phạm phương
châm hội thoại...
- Trên cơ sở lý thuyết đã xác định, tiến hành tập hợp, xử lí tư liệu về hội thoại trong
truyện cười và phân loại theo các tiêu chí đề ra.
- Miêu tả, phân tích các đặc điểm của hội thoại trong truyện cười. Chỉ ra các đặc điểm
của hội thoại nói chung, hiệu quả trong giao tiếp nói riêng.
3.4. Phạm vi nghiên cứu
Từ góc nhìn lý thuyết hội thoại, chúng tôi nhận thấy có thể nghiên cứu truyện cười từ
nhiều khía cạnh (những yếu tố chi phối vận động hội thoại, sự thể hiện các qui tắc hội thoại,
cấu trúc hội thoại, sự thể hiện các quan hệ liên cá nhân, phép lịch sự...). Nhưng trong phạm
vi luận văn này, chúng tôi chỉ giới hạn tìm hiểu ở một số khía cạnh sau:
- Cấu trúc hội thoại trong truyện cười.
- Các phương châm hội thoại trong truyện cười.
- Việc vi phạm phương châm hội thoại trong truyện cười.
4. Phương pháp nghiên cứu và nguồn cứ liệu
1B
4.1. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện luận văn này chúng tôi sử dụng tích hợp một số phương pháp sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này dùng để miêu tả các ngữ liệu được thể hiện
dưới dạng hội thoại, qua đó tìm ra những đặc điểm cụ thể của vấn đề cần trình bày.
- Phương pháp thống kê – phân loại: Phương pháp này nhằm tiến hành thống kê các
ngữ liệu và từ đó phân loại theo các tiêu chí đã đề ra.
- Phương pháp phân tích – tổng hợp: Trên cơ sở nguồn ngữ liệu đã thống kê, phương
pháp này được sử dụng để phân tích ngữ liệu theo từng nội dung cụ thể và sau đó tổng hợp
lại các kết quả đã phân tích.
- Phương pháp phân tích ngữ nghĩa – ngữ dụng: Trong quá trình miêu tả, phân tích
ngữ liệu, chúng tôi tiến hành xem xét chúng một cách toàn diện, đặt trong ngữ cảnh cụ thể.
4.2. Nguồn cứ liệu
Trong quá trình thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng các nguồn cứ liệu trích dẫn sau:
1) Minh Anh (2005), Truyện cười đó đây, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà Nội
2) Vương Mộng Bưu (2001), Truyện cười dí dỏm thông minh, Nxb Văn hóa – Thông
tin Hà Nội
3) Trương Chính, Phong Châu (2004), Tiếng cười dân gian Việt Nam, Nxb Khoa học
xã hội, Hà Nội
4) Trần Thúy Hằng (2001), Truyện cười đó đây, Nxb Thanh Niên
5) Thanh Thanh (2004), Tiếu lâm khôi hài, Nxb Thanh Niên
6) Trần Mạnh Thường (2000), Truyện cười Việt Nam, Nxb Văn hóa – Thông tin Hà
Nội
5. Đóng góp của luận văn
12B
Nếu đạt được mục đích – nhiệm vụ nghiên cứu đã đề ra luận văn có thể sẽ có những
đóng góp sau:
- Về lí luận, luận văn sẽ góp phần làm rõ những đặc điểm của truyện cười nhìn từ lý
thuyết hội thoại, đồng thời trên cứ liệu truyện cười, làm rõ những đặc điểm của lý thuyết hội
thoại trong giao tiếp tiếng Việt.
- Về thực tiễn, luận văn sẽ là nguồn tư liệu góp phần vào việc giảng dạy tiếng Việt
trong nhà trường: vận dụng lý thuyết hội thoại – đặc biệt là các phương châm hội thoại nhằm
đạt hiệu quả trong hoạt động giao tiếp.
6. Cấu trúc của luận văn
13B
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo, phần nội dung chính của luận văn
chia làm ba chương:
- Chương 1: Cơ sở lí thuyết
Trong chương 1, luận văn trình bày những vấn đề chung về lý thuyết hội thoại làm cơ
sở định hướng nghiên cứu hội thoại trong thể loại truyện cười tiếng Việt. Cụ thể, những nội
dung được thể hiện là: một số vấn đề chung về hội thoại (khái niệm, đặc điểm, vận động, qui
tắc), cấu trúc hội thoại (cuộc thoại, đoạn thoại, cặp thoại, tham thoại, hành vi ngôn ngữ),
phương châm hội thoại (phương châm lượng, phương châm chất, phương châm cách thức,
phương châm quan hệ) và việc vi phạm phương châm hội thoại.
- Chương 2: Cấu trúc hội thoại trong truyện cười
Trong chương 2, luận văn miêu tả đặc điểm của các thành phần trong cấu trúc hội
thoại. Dựa vào những thống kê trên cơ sở khảo sát ngữ liệu trong Tiếng cười dân gian Việt
Nam [70], luận văn rút ra những đặc điểm trong cấu trúc của cuộc thoại, cặp thoại, tham
thoại, hành vi ngôn ngữ được thể hiện.
- Chương 3: Vi phạm phương châm hội thoại – yếu tố tạo nên tiếng cười trong truyện
cười
Trong chương 3, từ những vấn đề lí luận chung của phương châm hội thoại (cụ thể là
bốn phương châm: phương châm về lượng, phương châm về chất, phương châm về cách
thức, phương châm về quan hệ) luận văn miêu tả, phân tích những trường hợp vi phạm
phương châm hội thoại – phương thức tạo nên tiếng cười trong truyện cười.
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT
2B
1.1.Khái niệm hội thoại
14B
Hội thoại là hoạt động giao tiếp căn bản, thường xuyên, phổ biến của sự hành chức
ngôn ngữ. Các hình thức hành chức khác nhau của ngôn ngữ đều được giải thích dựa vào
hình thức hoạt động căn bản này. Do đó, có khá nhiều tác giả đề cập đến khái niệm này.
Bàn về hội thoại, Đỗ Hữu Châu khẳng định: “Hội thoại là hình thức giao tiếp thường
xuyên, phổ biến của ngôn ngữ, nó cũng là hình thức cơ sở cho mọi hoạt động ngôn ngữ
khác” [3, tr. 201].
Từ điển tiếng Việt định nghĩa: “Hội thoại là sử dụng một ngôn ngữ để nói chuyện với
nhau” [39, tr. 461].
Sách Tiếng Việt 12 thì cho rằng: “Hội thoại là hoạt động giao tiếp bằng lời (bằng
miệng) giữa các nhân vật giao tiếp nhằm trao đổi các nội dung miêu tả và liên cá nhân theo
đích được đặt ra” [1, tr. 3].
Hồ Lê lại cho rằng hội thoại được gắn với hành vi phát ngôn: “Phát ngôn hội thoại là
kết quả của một hành vi phát ngôn được kích thích bởi một sự kiện hiện thực kể cả hội thoại
hoặc xung đột tâm lí của người phát ngôn, có liên quan đến những người có khả năng trực
tiếp tham gia hội thoại, nó tác động và khiến anh ta phải dùng lời để phản ứng lại và hướng
lời nói của mình vào những người có khả năng trực tiếp tham gia vào hội thoại ấy, trên cơ sở
của một kiến thức về cấu trúc câu và về cách xử lí mối quan hệ giữa phát ngôn và ngữ huống
và của một dự cảm về hiệu quả của lời nói ấy đối với người thụ ngôn hội thoại trực tiếp” [31,
tr. 180].
Nguyễn Đức Dân cho rằng: “Trong giao tiếp nhiều chiều, bên này nói, bên kia nghe
và phản hồi trở lại. Lúc đó, vai trò của hai bên thay đổi: bên nghe trở thành bên nói và bên
nói trở thành bên nghe. Đó là hội thoại” [9, tr. 76].
Còn Đỗ Thị Kim Liên thì quan niệm: “Hội thoại là một trong những hoạt động ngôn
ngữ thành lời giữa hai hoặc nhiều nhân vật trực tiếp, trong một ngữ cảnh nhất định mà giữa
họ có sự tương tác qua lại về hành vi ngôn ngữ hay hành vi nhận thức nhằm đi đến một đích
nhất định” [33, tr. 18].
1.2.Một số vấn đề chung về hội thoại
15B
Khi mới ra đời, hội thoại được xã hội học, xã hội ngôn ngữ học, dân tộc ngôn ngữ học
Mỹ nghiên cứu. Từ năm 1970, hội thoại trở thành đối tượng nghiên cứu chính thức của một
phân ngành ngôn ngữ học Mỹ – phân ngành phân tích hội thoại (conversation analysis). Sau
đó phân tích hội thoại được tiếp nhận ở Anh với tên gọi phân tích diễn ngôn (discourse
analysis)…Cho đến nay, hội thoại được đề cập đến trong ngôn ngữ học của hầu hết các quốc
gia trên thế giới.
Ở Việt Nam trong những năm gần đây, một số tác giả như Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Đức
Dân, Hoàng Phê, Lê Đông, Cao Xuân Hạo, Trần Thị Thìn, Nguyễn Văn Hiệp, Hoàng Tuệ,
Hồ Lê…đã công bố những công trình có liên quan đến vấn đề hội thoại. Có thể nói, những
tác giả này là những người đi tiên phong trong việc giới thiệu một hướng nghiên cứu mới
vào Việt Nam đó là dụng học – lý thuyết hội thoại.
1.2.1.Đặc điểm hội thoại
26B
Trong ngữ dụng học các cuộc hội thoại được phân biệt ở một số mặt như sau:
- Đặc điểm của thoại trường (không gian, thời gian) nơi diễn ra cuộc thoại. Thoại
trường có thể mang tính công cộng như: trong cuộc mít tinh, lớp học, câu lạc bộ, hội thảo,
cửa hiệu, ngoài chợ, trong tiệm ăn, quán giải khát... hay riêng tư: trong phòng khách giữa
chủ và khách, trong phòng riêng của gia đình… Thoại trường không phải chỉ là không gian,
thời gian mà có thể gắn với khả năng có mặt của những người thứ ba vào cuộc hội thoại đang
diễn ra. Một cuộc hội thoại vốn được coi là riêng tư giữa hai người, nhưng nếu bỗng xuất
hiện thêm những người thứ ba, dù là khách quan, dù không xen vào cuộc hội thoại thì điều
đó ít hay nhiều vẫn ảnh hưởng đến nội dung và hình thức của cuộc thoại.
- Các cuộc thoại còn khác nhau ở số lượng người tham gia. Căn cứ vào số lượng người
tham gia có thể có song thoại (hai người tham gia hội thoại); tam thoại (ba người tham gia
hội thoại); đa thoại (nhiều người – trên ba người tham gia hội thoại). Nhưng dạng cơ bản của
hội thoại là dạng song thoại, tức là dạng diễn ra giữa hai nhân vật đối đáp (đối thoại).
- Cương vị và tư cách của những người tham gia hội thoại cũng rất khác nhau tùy theo
các cuộc thoại. Đó là tính chủ động hay bị động của các đối tác (còn gọi là “đối ngôn”); sự
có mặt hay vắng mặt của vai nghe trong hội thoại.
- Cuộc thoại còn khác nhau ở tính có đích hay không có đích. Những cuộc hội thoại
trong thương thuyết, ngoại giao, hội thảo khoa học...thường có chủ đích, chủ đề được xác
định rõ ràng. Trong khi đó những cuộc chuyện trò tán gẫu thường là không có đích.
- Hội thoại còn mang tính có hình thức hay không có hình thức cố định. Những cuộc
hội nghị thương thảo thường có hình thức tổ chức khá chặt chẽ, trang trọng đến mức thành
nghi lễ. Những chuyện trò đời thường không cần một hình thức tổ chức cố định và chặt chẽ
nào cả.
- Cuối cùng là vấn đề ngữ vực. Do tính có hình thức hay không có hình thức mà các
cuộc hội thoại có thể diễn ra ở một trong ba ngữ vực (trường (field), thức (mood), không khí
(tenor)).
1.2.2.Vận động hội thoại
27B
Trong bất cứ cuộc hội thoại nào cũng có ba vận động chủ yếu: trao lời, trao đáp và
tương tác.
- Vận động đầu tiên xuất hiện trong một cuộc hội thoại là vận động mà Sp1 (người
nói) nói lượt lời của mình ra và hướng lượt lời của mình vào Sp2 (người nghe) làm
cho Sp2 nhận biết lượt lời đó là dành cho Sp2.
- Sau khi tiếp nhận phát ngôn của Sp1, Sp2 đưa ra phát ngôn để thể hiện quan điểm, ý
kiến, tình cảm của mình để đáp lại lời trao từ Sp1, và cuộc thoại chính thức được bắt đầu.
Đây được gọi là vận động trao đáp.
- Trong quá trình hội thoại, các đối ngôn sẽ có ảnh hưởng lẫn nhau, tác động đến
cách ứng xử của nhau. Đây được xem là vận động tương tác xảy ra trong hội thoại. Trước
khi hội thoại giữa các đối ngôn tồn tại một khoảng cách nhất định về sự hiểu biết lẫn nhau,
về tâm lí, tình cảm…Sau khi hội thoại, nếu những khoảng cách ấy được thu hẹp lại, rút
ngắn lại, khi ấy có thể nói đã có một cuộc hội thoại tích cực. Ngược lại, khoảng cách ấy
vẫn giữ nguyên hoặc mở rộng ra, khi ấy cuộc thoại có thể bị xem là tiêu cực. Tương tác là
một kiểu quan hệ xã hội giữa người với người. Có một hoạt động xã hội thì có sự tương
tác. Tương tác bằng lời là một kiểu tương tác, là hình thức giao tiếp bằng ngôn ngữ.
1.2.3.Qui tắc hội thoại
28B
Để một cuộc thoại có thể diễn tiến bình thường, các đối ngôn trong cuộc thoại phải
tuân thủ những quy tắc nhất định khi tham gia hội thoại. Qua nghiên cứu thực tế, chuyên
gia ngữ dụng học C. K. Orecchioni người Pháp đã đề ra một số quy tắc cụ thể như sau: quy
tắc điều hành luân phiên lượt lời, quy tắc quan hệ liên cá nhân trong hội thoại (Orecchioni
dẫn theo [3, tr. 225]).
Khi tham gia hội thoại, các đối ngôn phải ý thức rõ ràng về các vai trò nói và nghe
của nhau. A đóng vai trò nói thì B sẽ đóng vai trò nghe, và sau khi nhận ra dấu hiệu thể
hiện hết vai của A, thì B sẽ tiếp nhận vai trò của A để tiến trình hội thoại không bị gián
đoạn. Các lượt lời nói có thể được một người điều chỉnh hoặc do các đối ngôn tự thương
lượng ngầm với nhau. Đó chính là quy tắc được gọi là quy tắc điều hành luân phiên lượt
lời.
Trong hội thoại, còn có quy tắc điều hành nội dung của hội thoại, chủ yếu quy định
về quan hệ nội dung giữa các phát ngôn được đưa ra trong quá trình hội thoại. Theo quy
tắc này, một cuộc hội thoại không phải là sự lắp ghép ngẫu nhiên tùy tiện các phát ngôn,
các hành vi ngôn ngữ. Nguyên tắc liên kết không chỉ chi phối các diễn ngôn đơn thoại mà
chi phối cả những lời tạo thành một cuộc thoại. Tính liên kết hội thoại thể hiện bên
trong một phát ngôn, giữa các phát ngôn, giữa các hành động ở lời, giữa các đơn vị hội
thoại…
Trước đó, Grice cũng đã từng xuất phát từ quy luật trong hội thoại mà đề ra
nguyên tắc cộng tác hội t h o ạ i và các phương châm hội thoại. Nội dung chủ yếu của
nguyên tắc cộng tác hội thoại được P. Grice đề xuất là: Hãy làm cho phần đóng góp của
anh đúng như nó được đòi hỏi ở giai đoạn mà nó xuất hiện phù hợp với đích hay phương
hướng của cuộc hội thoại mà anh đã chấp nhận tham gia vào (Grice (1967) dẫn theo [3, tr.
229]).
Trong hội thoại, ngoài quan hệ trao đổi thông tin (miêu tả, trần thuật – những thông
tin được đánh giá theo tiêu chí đúng sai logic) còn có quan hệ được gọi là liên cá nhân
(quan hệ giữa các vai trong giao tiếp). Liên quan trực tiếp tới quan hệ liên cá nhân là vấn
đề lịch sự trong giao tiếp.
1.3.Cấu trúc hội thoại
16B
Chịu ảnh hưởng của lí thuyết phân tích diễn ngôn, lí thuyết hội thoại Thụy Sĩ – Pháp
cho rằng hội thoại là một tổ chức có tôn ti như tổ chức của một đơn vị cú pháp. Các đơn vị
cấu trúc hội thoại từ lớn đến nhỏ là: cuộc thoại (conversation), đoạn thoại (sequence), cặp
trao đáp (exchange), tham thoại (intervention), hành vi ngôn ngữ (speech act).
Có thể hình dung cấu trúc hội thoại bằng sơ đồ:
cuộc thoại
đoạn thoại 1
cặp thoại 1
tham thoại 1
hành vi 1
hành vi 2
đoạn thoại 2
cặp thoại 2
tham thoại 2
đoạn thoại n
cặp thoại n
tham thoại n
hành vi n
1.3.1.Cuộc thoại
29B
Nói tới hội thoại là nói tới cuộc thoại. Cuộc thoại là một lần nói chuyện, trao đổi giữa
những cá nhân (ít nhất là hai cá nhân) trong một hoàn cảnh xã hội nào đó. Theo C. K.
Orecchioni: Để có một và chỉ một cuộc thoại, điều kiện cần và đủ là có một nhóm nhân vật
có thể thay đổi nhưng không đứt quãng, trong một khung thời gian – không gian có thể thay
đổi nhưng không đứt quãng, nói về một vấn đề có thể thay đổi nhưng không đứt quãng
(Orecchioni dẫn theo [3, tr. 313]). Cuộc thoại ngắn là những cuộc thoại chỉ chứa một cặp
câu, như: chào – chào, hỏi – đáp, đề nghị – đồng ý, ra lệnh – nhận lệnh…
Ví dụ:
(1) A: - Chào anh.
B: - Chào.
(2) A: - Dạo này bác có khỏe không?
B: - Tôi khỏe.
Cuộc thoại dài là những thương lượng về một hợp đồng kinh doanh, sản xuất hay hợp
tác văn hóa, nghệ thuật, khoa học, những cuộc đàm phán giữa hai quốc gia về kinh tế, chính
trị, biên giới…
Trong một cuộc nói chuyện, người ta có thể trao đổi hết vấn đề này sang vấn đề khác.
Nhưng bao giờ cũng có lúc bắt đầu và lúc kết thúc. Chúng làm nên ranh giới của một cuộc
thoại. Lúc bắt đầu được gọi là mở thoại, luôn do một bên chủ động. Lúc kết thúc cũng do
một bên chủ động đề ra, gọi là kết thoại.
Giữa phần mở thoại và phần kết thoại là phần trung tâm của cuộc thoại: phần thân
thoại. Như vậy, cấu trúc khái quát của một cuộc thoại sẽ là: MỞ THOẠI – THÂN THOẠI –
KẾT THOẠI.
Cấu trúc một cuộc thoại về cơ bản là vậy, nhưng cũng có thể miêu tả cấu trúc cuộc
thoại theo một sơ đồ khác. Chẳng hạn, Ventola cho rằng cấu trúc khái quát của một cuộc
thoại trong tiếng Anh là: “Chào – giới thiệu – nêu vấn đề nội dung chính – chuẩn bị kết thúc
– (chào) từ biệt”. Như vậy phần mở thoại bao gồm ba nội dung: chào – giới thiệu – nêu vấn
đề (Ventola (1979) dẫn theo [9, tr. 85]).
Thông thường người ta nhận thấy được các dấu hiệu định ranh giới cuộc thoại như:
dấu hiệu mở đầu (chào hỏi), dấu hiệu kết thúc (những câu hỏi: còn gì nữa không nhỉ, thế
thôi nhé…). Nhưng dù vậy, những dấu hiệu như thế vẫn không thể xem là bắt buộc, đặc
biệt với những cuộc thoại với những người thân quen. Việc xác định ranh giới cuộc thoại
chưa thật dứt khoát và ít nhiều mang tính võ đoán.
1.3.2.Đoạn thoại
30B
Đoạn thoại được quan niệm là một đơn vị hội thoại do một số cặp trao đáp liên kết
chặt chẽ với nhau về ngữ nghĩa hoặc về ngữ dụng. Về ngữ nghĩa, đó là đơn vị có sự liên
kết nhờ chủ đề: có một chủ đề duy nhất. Còn về ngữ dụng, đó là đơn vị có tính duy nhất
về đích hội thoại. Có những loại đoạn thoại sau: mở thoại; thân thoại; kết thoại.
Đoạn mở thoại và kết thoại có cấu trúc tương đối đơn giản và ổn định, dễ nhận ra hơn
đoạn thân thoại, do đoạn thân thoại có thể có dung lượng lớn và có cấu trúc phức tạp.
Tổ chức của đoạn thoại mở đầu và kết thúc phần lớn được nghi thức hoá và lệ thuộc
rất nhiều vào yếu tố như: các kiểu cuộc thoại, hoàn cảnh giao tiếp, sự hiểu biết về nhau của
các đối ngôn…
1.3.3.Cặp trao đáp (cặp thoại)
31B
1.3.3.1.Cấu trúc
B
7
4
Cặp thoại là đơn vị lưỡng thoại nhỏ nhất của một cuộc thoại do các tham thoại tạo
nên. Có thể căn cứ vào số lượng các tham thoại để phân loại các cặp thoại.
- Cặp thoại một tham thoại: hình thành khi người nghe im lặng, không có hành động gì
cả, lúc đó ta có cặp thoại được gọi là “hẫng”. Đó là tham thoại Sp1 không được Sp2 hưởng ứng
hồi đáp bằng một hành vi tương ứng.
- Cặp thoại hai tham thoại: là dạng thường gặp nhất trong hội thoại. Trong cặp thoại
hai tham thoại, mỗi tham thoại thường ứng với một chức năng cụ thể: tham thoại thứ
nhất được gọi là “tham thoại dẫn nhập”, tham thoại thứ hai được gọi là “tham thoại hồi
đáp”. Đây là dạng cấu trúc đơn giản nhất của cặp thoại trong trong hiện thực giao tiếp.
- Cặp thoại phức tạp: là cặp thoại có nhiều tham thoại tham gia, hoặc có thể có ít
tham thoại nhưng lại có nhiều hành vi ngôn ngữ, trong quan hệ ràng buộc lẫn nhau. Cặp
thoại phức tạp bao gồm các dạng:
Dạng thứ nhất: Loại cặp thoại có nhiều tham thoại dẫn nhập, nhưng chỉ có một
tham thoại hồi đáp.
Dạng thứ hai: Loại cặp thoại có một tham thoại dẫn nhập, với nhiều tham thoại hồi
đáp.
Dạng thứ ba: Loại cặp thoại phức tạp do có nhiều tham thoại tham gia ở cả hai phía.
1.3.3.2.Tính chất
B
8
4
- Cặp thoại chủ hướng/cặp thoại phụ thuộc
Cặp thoại chủ hướng là cặp chủ đạo giữ vai trò trung tâm, chứa nội dung chính
của đoạn thoại. Trong đoạn thoại, ngoài cặp thoại chủ hướng ra, còn có thể có nhiều cặp
thoại không tồn tại độc lập mà phụ thuộc vào một cặp thoại khác, cụ thể là phụ thuộc vào
một trong các tham thoại của cặp thoại phụ thuộc, gọi là cặp thoại phụ thuộc. Tính chất
phụ thuộc của cặp thoại này thể hiện ở không mang đích hay chủ đề chung, mà chỉ có
chức năng bổ trợ, giải thích thêm về những khía cạnh hay chi tiết nào đó của tham thoại
trong cặp thoại chủ hướng. Cặp thoại phụ thuộc thường gặp là hai loại cặp thoại: cặp thoại
củng cố và cặp thoại sửa chữa.
- Cặp thoại tích cực/tiêu cực
Khi xác định tính chất của cặp thoại thường phải dựa vào tính chất của tham thoại
mà chủ yếu là tham thoại hồi đáp. Khi tham thoại hồi đáp tích cực (thỏa mãn đích dẫn
nhập), thì ta c ó c ặ p thoại tích cực; khi tham thoại hồi đáp tiêu cực (nghịch hướng
đích dẫn nhập), thì ta có cặp thoại tiêu cực.
Theo lẽ thường, khi có được cặp thoại tích cực thì các đối ngôn thoả mãn và có thể
kết thúc cuộc thoại ở đó. Nhưng với cặp thoại tiêu cực lại xảy ra khả năng sau: cuộc thoại
vẫn kết thúc nhưng kết thúc trong tình trạng không thoả mãn, kết thúc trong bất đồng, bất
hòa hay thất bại của người dẫn nhập, vì vậy sẽ xảy ra sự tái dẫn nhập, với hi vọng của
người nói muốn xoay chuyển từ tình thế tiêu cực sang tích cực, mong đạt được sự đồng
thuận.
Cặp thoại tích cực: ra lệnh – tuân lệnh; yêu cầu – chấp nhận; khen tặng – tiếp nhận;
mời – nhận lời; hỏi – trả lời; nhận định – tán thành; phê bình – tiếp thu…
Cặp thoại tiêu cực: mời – từ chối; khen tặng – khước từ; yêu cầu – từ chối; hỏi – hỏi
lại, trả lời không thuận theo sự chờ đợi; mắng – cãi; phê bình – phủ nhận; chất vấn – thanh
minh…
1.3.4.Tham thoại
32B
Tham thoại là phần đóng góp của từng nhân vật hội thoại vào một cặp thoại nhất
định [3, tr. 316]. Cần có sự phân biệt giữa tham thoại với lượt lời. Một lượt lời có thể
chứa nhiều tham thoại mà cũng có thể nhỏ hơn tham thoại.
Ví dụ:
(1) – Chào!
(2) – Chào!
(3) – Anh khỏe không?
(4) – Cảm ơn. Bình thường. Anh đi đâu về?
(5) – Tôi vừa đi Cửu Long về.
(6) – Vĩnh Long chứ.
(1) và (2) là một cặp thoại chào gồm hai tham thoại đối xứng. (3) và (4) là một cặp
thoại, trong đó (3) là một lượt lời gồm một tham thoại hỏi (lượt lời bằng với tham thoại).
(4) là một lượt lời gồm ba tham thoại: một tham thoại cảm ơn, một tham thoại hồi đáp và
một tham thoại hỏi lại (lượt lời lớn hơn tham thoại). Còn ở (5) và (6), (6) có tính chất điều
chỉnh, bổ sung lại phát ngôn (5) chứ chưa phải là một lượt lời độc lập (lượt lời nhỏ hơn
tham thoại).
Tham thoại là đơn vị dùng để cấu tạo nên cặp thoại. Mỗi tham thoại có thể nằm
trong quan hệ trao đáp theo những hướng khác nhau: Nó vừa là tham thoại hồi đáp cho
cặp thoại này, lại vừa đóng vai trò dẫn nhập cho một cặp thoại khác, từ đó sẽ tạo ra các
kiểu dạng cấu trúc khác nhau. Nói khác đi, mỗi tham thoại thực hiện chức năng dẫn
nhập hoặc hồi đáp nhưng cũng có khi kiêm nhiệm đồng thời hai chức năng, khi đó gọi là
tham thoại có chức năng kép.
Về tổ chức nội tại, một tham thoại do một hoặc một số hành vi ngôn ngữ tạo nên.
Trong đó có ít nhất một hành vi chủ hướng làm nòng cốt và có thể có thêm một hoặc một
số hành vi phụ thuộc. Hành vi chủ hướng đảm nhiệm vai trò quyết định mục đích giao tiếp
của tham thoại chứa nó, đồng thời tham gia kết hợp với hành vi chủ hướng nằm ở tham
thoại khác để tạo nên cặp kế cận. Hành vi phụ thuộc có vai trò làm rõ lí do hoặc bổ
sung nghĩa cho hành động chủ hướng trong quá trình hội thoại. Khi tham thoại chỉ có một
hành vi thì ranh giới tham thoại sẽ trùng với ranh giới hành vi.
Trong tham thoại, hành vi chủ hướng có chức năng trụ cột, quyết định hướng của
tham thoại và quyết định hành vi đáp thích hợp của người đối thoại. Còn hành vi phụ
thuộc thì có nhiều chức năng khác nhau như: củng cố, giải thích, biện minh, đánh
giá…nhằm hỗ trợ cho hành vi chủ hướng. Ngoài ra, trong tham thoại còn có những thành
phần mở rộng. Những thành phần này không đóng góp lớn cho nội dung ngữ nghĩa của
tham thoại mà chỉ thuần tuý là những hành vi có chức năng ngữ dụng, chỉ có chức năng
duy trì quan hệ liên cá nhân trong hội thoại.
Dựa vào vai trò, vị trí của tham thoại có thể phân loại tham thoại thành một số loại
sau:
- Tham thoại dẫn nhập là tham thoại có chức năng mở đầu cho một cặp thoại.
- Tham thoại hồi đáp là tham thoại có chức năng phản hồi tham thoại dẫn nhập.
Tham thoại hồi đáp có thể đóng vai trò kết thúc cặp thoại, vì thế còn gọi là tham thoại
hồi đáp – dẫn nhập. Mỗi tham thoại đều có thể nằm trong quan hệ cặp thoại với tham thoại
trước và sau nó, nghĩa là tham gia trực tiếp tạo nên hai cặp thoại, trừ tham thoại đầu tiên
và cuối cùng thường chỉ tham gia vào một cặp thoại.
1.3.5.Hành vi ngôn ngữ
3B
Xét trong quan hệ hội thoại, các hành vi ngôn ngữ có thể chia thành hai nhóm:
những hành vi có hiệu lực ở lời và những hành vi liên hành vi. Những hành vi có hiệu lực
ở lời tức là những hành vi có hiệu lực thay đổi quyền lực và trách nhiệm của người hội
thoại, theo cách hiểu của O. Ducrot (Ducrot dẫn theo [3, tr. 319), là những hành vi xét
trong quan hệ giữa các tham thoại của các nhân vật hội thoại với nhau. Khi thực hiện một
hành vi có hiệu lực ở lời trong một tham thoại, người nói có trách nhiệm đối với phát ngôn
của mình và có quyền đòi hỏi người đối thoại phải hồi đáp lại bằng một hành vi ở lời tương
ứng, ví dụ: hỏi / trả lời; cầu khiến / đáp ứng… Những quyền lực và trách nhiệm đó làm cho
các hành vi ngôn ngữ có tính chất như các quy ước pháp lí và những đối ngôn có những tư
- Xem thêm -