LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án là công trình nghiên
cứu độc lập của riêng tôi. Các tài liệu, số liệu trong
luận án là trung thực, chính xác và có nguốn gốc
xuất xứ rõ ràng, không trùng lặp với các công trình
khoa học đã được công bố.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Nguyễn Khắc Trai
3
MỤC LỤC
Trang
TRANG PHỤ BÌA
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1.
Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.2.
Khái quát kết quả nghiên cứu các công trình đã công bố và những
vấn đề luận án tiếp tục giải quyết
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ CHỈ ĐẠO CỦA TRUNG ƯƠNG
CỤC MIỀN NAM VỀ CÔNG TÁC BINH VẬN TỪ NĂM
1969 ĐẾN NĂM 1972
2.1.
Những yếu tố tác động đến sự lãnh đạo của Trung ương Cục
miền Nam đối với công tác binh vận (1969 - 1972)
2.2.
Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam về công tác binh vận
(1969 - 1972)
2.3.
Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo công tác binh vận (1969 - 1972)
Chương 3 TRUNG ƯƠNG CỤC MIỀN NAM LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH
CÔNG TÁC BINH VẬN TỪ NĂM 1973 ĐẾN ĐẠI THẮNG
MÙA XUÂN 1975
3.1.
Những yếu tố mới tác động tới sự lãnh đạo của Trung ương Cục
miền Nam đẩy mạnh công tác binh vận (1973 - 1975)
3.2.
Chủ trương của Trung ương Cục miền Nam đẩy mạnh công tác
binh vận (1973 - 1975)
3.3.
Trung ương Cục miền Nam chỉ đạo đẩy mạnh công tác binh vận
(1973 - 1975)
Chương 4 NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM
4.1.
Nhận xét sự lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam về công tác
binh vận (1969 - 1975)
4.2.
Kinh nghiệm từ quá trình Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo
công tác binh vận (1969 - 1975)
KẾT LUẬN
CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
5
11
11
25
32
32
44
55
80
80
87
100
125
125
144
164
167
168
188
4
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
TT Chữ viết đầy đủ
Chữ viết tắt
1
Chủ nghĩa xã hội
CNXH
2
Gia đình binh sĩ
GĐBS
3
Mặt trận Tổ quốc
MTTQ
4
Miền Nam Việt Nam
MNVN
5
Phòng vệ dân sự
PVDS
6
Việt Nam Cộng hòa
VNCH
7
Xã hội chủ nghĩa
XHCN
5
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài luận án
Tiến công binh vận là hình thức đánh giặc lâu đời và trở thành nét độc đáo
trong truyền thống đánh giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam. Trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, công tác binh vận được Đảng xác định là mũi
tiến công chiến lược của cách mạng, với vai trò to lớn tuyên truyền vận động
làm suy sụp tinh thần, tư tưởng góp phần dẫn đến sụp đổ, tan rã tổ chức quân đội
Mỹ và quân đội VNCH trên chiến trường MNVN, nhằm thực hiện “công nông
binh liên hiệp”. Công tác binh vận được các cấp ủy Đảng quan tâm lãnh đạo, là
một bộ phận quan trọng cấu thành đường lối chiến tranh giải phóng dân tộc của
Đảng, là hoạt động đấu tranh thường xuyên của quân và dân ta với binh sĩ
VNCH và binh sĩ Mỹ, trực tiếp góp phần “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào” giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Công tác binh vận trên chiến trường B2 trong thời kỳ kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước có ý nghĩa vô cùng quan trọng đối với cách mạng
MNVN. Chiến trường B2 là chiến trường rộng lớn bao gồm các tỉnh thuộc
cực Nam Trung Bộ: Quảng Đức, Tuyên Đức, Ninh Thuận, Bình Thuận,
Lâm Đồng và Bình Tuy; các tỉnh thuộc miền Đông Nam Bộ: Phước Long,
Long Khánh, Phước Tuy, Bình Long, Bình Dương, Biên Hòa, Tây Ninh,
Hậu Nghĩa; các tỉnh thuộc miền Trung Nam Bộ: Long An, Kiến Tường,
Kiến Phong, Định Tường, Kiến Hòa, Gò Công; các tỉnh thuộc miền Tây
Nam Bộ: Châu Đốc, An Giang, Vĩnh Long, Vĩnh Bình, Phong Dinh, Ba
Xuyên, Kiên Giang, An Xuyên, Chương Thiện và đặc khu Sài Gòn - Gia
Định. Chiến trường B2 là nơi tập trung nhiều mục tiêu đầu não của quân
đội, chính quyền VNCH, tiến công binh vận vào các mục tiêu chiến lược
làm cho binh sĩ VNCH suy sụp từ trên xuống dưới, từ trong ra ngoài, tạo ra
phản ứng lan truyền sụp đổ về tinh thần của binh sĩ trên toàn miền Nam. Khi
đế quốc Mỹ tiến hành chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” với thủ đoạn
“dùng người Việt trị người Việt” tăng cường xây dựng quân đội VNCH, rút
6
dần quân Mỹ và đồng minh ra khỏi MNVN, thực hiện kế hoạch bắt lính, đôn
quân, mở rộng chiến tranh ra toàn Đông Dương đẩy binh sĩ VNCH chết trận
thay cho quân Mỹ, vơ vét cướp bóc tài sản của nhân dân làm cho mâu thuẫn
xã hội lên cao, mâu thuẫn trong binh sĩ VNHC không thể dung hòa, dẫn đến
tình trạng binh sĩ dao động tư tưởng thiếu niềm tin vào chế độ và quân đội
VNCH, thực hiện đào, rã ngũ chạy sang với cách mạng ngày càng nhiều. Từ
thực tiễn đặt ra, tiến công binh vận trên chiến trường B2 nhằm chống chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” càng quan trọng và ý nghĩa hơn bao giờ hết.
Nhận thức rõ vai trò của công tác binh vận và âm mưu thủ đoạn của đế quốc
Mỹ trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, Trung ương Cục đã lãnh đạo
toàn diện công tác binh vận, kịp thời đề ra chủ trương và sự chỉ đạo đúng đắn,
sát với tình hình thực tiễn của cách mạng. Với nhiều cách làm mới và hay,
công tác binh vận trên chiến trường B2 trong những năm chống chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh” đã giành những thắng lợi to lớn, làm suy sụp về
tinh thần dẫn đến tan rã lớn binh sĩ VNCH, góp phần khuất phục cơ quan đầu
não chính quyền và quân đội VNCH, hạn chế thương vong tổn thất cho cách
mạng, thúc đẩy mũi quân sự, chính trị nhanh chóng tiến lên giành thắng lợi
trong giai đoạn cuối của cuộc chiến tranh. Với những thành công to lớn, công
tác binh vận trong những năm chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”
trên chiến trường B2 để lại những kinh nghiệm có giá trị to lớn, nhằm phục vụ
thiết thực cho công tác tuyên truyền, đấu tranh làm thất bại hành động chống
phá của các thế lực thù địch đối với cách mạng Việt Nam hiện nay.
Mặc dù đã có những công trình nghiên cứu, tổng kết ở các cấp độ và
phạm vi khác nhau về lịch sử công tác binh vận trên toàn miền Nam nói
chung và một số địa phương trên chiến trường B2 nói riêng. Tuy nhiên, đến
nay chưa có công trình nào nghiên cứu về công tác binh vận có tính chất hệ
thống, chuyên sâu, toàn diện làm rõ chủ trương, chỉ đạo, đánh giá ưu, khuyết
điểm, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm từ quá trình Trung ương Cục lãnh đạo
công tác binh vận trên chiến trường B2. Do đó, nghiên cứu quá trình Trung
7
ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác binh vận từ năm 1969 đến năm 1975
trên chiến trường B2 là điều cần thiết nhằm góp phần tổng kết làm phong phú
hơn lịch sử Đảng nói chung, lịch sử Trung ương Cục nói riêng trong kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Đồng thời, đúc kết những kinh nghiệm quý cho
công tác binh vận của Đảng, có thể tham khảo vận dụng vào công tác tuyên
truyền hiện nay, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Trung ương Cục miền
Nam lãnh đạo công tác binh vận từ năm 1969 đến năm 1975” làm đề tài
luận án tiến sĩ, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích
Làm rõ quá trình Trung ương Cục miền Nam lãnh đạo công tác binh vận
từ năm 1969 đến năm 1975. Trên cơ sở đó đúc rút những kinh nghiệm có giá trị
vận dụng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Nhiệm vụ
Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án.
Làm rõ những yếu tố tác động đến quá trình Trung ương Cục miền
Nam lãnh đạo công tác binh vận trong những năm 1969 - 1975.
Hệ thống và phân tích làm rõ chủ trương, chỉ đạo của Trung ương Cục miền
Nam về công tác binh vận từ năm 1969 đến năm 1975.
Nhận xét và đúc rút một số kinh nghiệm từ quá trình Trung ương Cục
miền Nam lãnh đạo công tác binh vận trong những năm 1969 - 1975.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu hoạt động lãnh đạo của Trung ương Cục miền Nam về công
tác binh vận từ năm 1969 đến năm 1975.
Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Công tác binh vận là công tác tuyên truyền vận động của
các lực lượng tác động vào tâm lý, tư tưởng binh lính, sĩ quan quân đội Mỹ,
8
quân đội đồng minh và quân đội VNCH, nhằm làm hoang mang, rệu rã, chán
ghét và phản đối chiến tranh, đào rã ngũ hoặc chạy sang với cách mạng. Đối
tượng tiến công binh vận là binh sĩ Mỹ, đồng minh và binh sĩ VNCH.
Nghiên cứu chủ trương của Trung ương Cục về công tác binh vận
trong hai giai đoạn 1969 -1972 và 1973-1975. Làm rõ quá trình chỉ đạo của
Trung ương Cục về công tác binh vận trong từng giai đoạn, trên 4 nội
dung: Xây dựng lực lượng binh vận; xây dựng cơ sở và hoạt động nội
tuyến trong lòng địch; binh vận kết hợp với tiến công quân sự, đấu tranh
chính trị và đấu tranh ngoại giao; thực hiện chính sách binh vận.
Về thời gian: Từ năm 1969 đến tháng 5 năm 1975, đế quốc Mỹ thực hiện
chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Giai đoạn 1969 - 1972, Trung ương Cục
lãnh đạo công tác binh vận tham gia đánh bại một bước chiến lược “Việt Nam hóa
chiến tranh” của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ ký kết hiệp định Pari và rút hết quân Mỹ.
Giai đoạn 1973 - 1975, Trung ương Cục lãnh đạo công tác binh vận tham gia
đánh bại hoàn toàn chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”, góp phần vào sự
nghiệp giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Về không gian: Chiến trường B2 do Trung ương Cục miền Nam
trực tiếp lãnh đạo từ năm 1965 đến năm 1975. Bao gồm các tỉnh thuộc
cực Nam Trung Bộ; miền Đông Nam Bộ; miền Trung Nam Bộ; miền Tây
Nam Bộ và đặc khu Sài Gòn - Gia Định.
4. Cở sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận án
Cơ sở lý luận: Luận án được thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng về
chiến tranh cách mạng và công tác binh vận.
Cơ sở thực tiễn: Từ thực tiễn hoạt động lãnh đạo của Trung ương Cục
miền Nam về công tác binh vận trong những năm 1969 - 1975 và hệ thống
nghị quyết, chỉ thị, thông tư, điện, báo cáo, tổng kết, đề án của Ban Chấp hành
Trung ương Đảng, Bộ Chính trị, Trung ương Cục miền Nam, Quân ủy Miền,
Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa MNVN, Ban Binh vận Trung ương
9
Cục, Cục Chính trị Miền, Đoàn Thanh niên miền Nam, Ban Công vận, Ban
Nông vận, các đồng chí lãnh đạo của Đảng và Nhà nước về công tác binh vận.
Phong trào tiến công binh vận của các địa phương từ năm 1969 đến năm
1975. Bên cạnh đó luận án sử dụng kết quả nghiên cứu của một số công trình
khoa học có liên quan đến địa bàn nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu của chuyên
ngành Lịch sử Đảng. Trong đó chương 1, sử dụng chủ yếu phương pháp
thống kê, phân tích, tổng hợp làm rõ tổng quan tình hình nghiên cứu liên
quan đến luận án. Chương 2 và chương 3 chủ yếu sử dụng phương pháp
lịch sử, logic, phân tích, tổng hợp, so sánh làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo
của Trung ương Cục về công tác binh vận trong từng giai đoạn. Chương 4
chủ yếu sử dụng phương pháp logic, phân tích, tổng hợp và so sánh làm rõ
ưu, khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm từ quá trình Trung ương Cục lãnh
đạo công tác binh vận.
5. Những đóng góp mới của luận án
Hệ thống, khái quát hóa và luận giải những yếu tố tác động, làm rõ chủ
trương, chỉ đạo của Trung ương Cục miền Nam về công tác binh vận từ năm
1969 đến năm 1975. Luận án dựng lại lịch sử về công tác binh vận trên chiến
trường B2 trong những năm 1969 - 1975.
Đưa ra những đánh giá, nhận xét về sự lãnh đạo công tác binh vận của
Trung ương Cục miền Nam trong những năm 1969 - 1975.
Đúc rút một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo vận dụng trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
6. Ý nghĩa lý luận, thực tiễn của luận án
Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần tổng kết, hoạt động lãnh đạo của
Đảng về công tác binh vận, thông qua hoạt động lãnh đạo thực tiễn của Trung
ương Cục miền Nam trên chiến trường B2.
10
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ cung cấp thêm những luận cứ khoa học
cho việc hoạch định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng trong sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc hiện nay
Ý nghĩa thực tiễn: Góp phần làm sáng tỏ, sâu sắc hơn thực tiễn lịch sử cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
(thông qua thực tiễn chiến trường B2).
Là tài liệu bổ ích cho việc giáo dục truyền thống, nghiên cứu giảng dạy lịch
sử Đảng Cộng sản Việt Nam, lịch sử cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Là cơ sở để đấu tranh chống lại những quan điểm sai trái.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm: Mở đầu; 4 chương (10 tiết); kết luận; danh mục các công
trình khoa học của tác giả đã công bố; danh mục tài liệu tham khảo; phụ lục.
11
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài luận án
1.1.1. Các công trình nghiên cứu của tác giả nước ngoài
Mai-cơn-Mac-Lia (1990), Việt Nam cuộc chiến tranh mười nghìn ngày
[105], tác phẩm chỉ rõ mũi binh vận làm cho quân đội VNCH suy sụp về
tinh thần và đào rã ngũ ở một số đơn vị. Bên cạnh đó, việc chính quyền Mỹ
tăng thời gian phục vụ trên chiến trường và không ghi nhận sự hy sinh của
binh sĩ trên chiến trường MNVN cũng làm cho tinh thần binh sĩ Mỹ suy sụp
trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Sự suy sụp về tinh thần của
lính Mỹ và đồng minh biểu hiện ở hành động chống lệnh, phản đối chiến
tranh xâm lược của đế quốc Mỹ và tự nêu khẩu hiệu “Đừng là người lính
chết sau cùng ở Việt Nam” và mục tiêu chung là “Tự lo cho sinh mạng mình,
sống qua giai đoạn này và ra khỏi Việt Nam” [105, tr. 172].
Giac Đo-I-Ong (1993) “Những người lính da trắng của Hồ Chí Minh”
[82]. Tác giả làm rõ công tác binh vận đã vận động những người lính quân đội
Pháp bỏ hàng ngũ theo Việt Minh trong đội “Com măng đô” năm 1949. Họ
tham gia kháng chiến ở Việt Nam và chiến đấu hết mình, can đảm và có ý
thức kỷ luật vô cùng nghiêm túc khi quan hệ với nhân dân, nhất là đối với phụ
nữ. Họ có lý tưởng cách mạng, khát vọng hòa bình, tham gia nhiều chiến dịch
chủ yếu ở Liên khu 3 và lập được nhiều thành tích. Tác phẩm cho thấy chính
sách binh vận đúng đắn của Đảng đã vận động và tập hợp được binh sĩ đối
phương phục vụ cho cách mạng.
Philip B.Đavitson (1995), Những bí mật của cuộc chiến tranh Việt Nam
[76]. Tác giả cho rằng “binh vận là các hoạt động nhằm gây tư tưởng bất mãn
trong hàng ngũ binh lính kẻ thù” [76, tr. 38]. Tác giả khẳng định sự thất bại của
đế quốc Mỹ do nhiều nguyên nhân khác nhau và cho rằng không có một Tổng
thống nào của nước Mỹ nhận thức được rằng địch vận là một bộ phận chiến lược
của cách mạng Việt Nam, mục đích đánh tan sự ủng hộ của nhân dân Mỹ với
cuộc chiến tranh. Địch vận đã tận dụng triệt để các phương tiện thông tin đại
chúng để hủy hoại sự ủng hộ của dân chúng Mỹ đối với chiến tranh.
12
Ron Moreau (2001), “Một anh hùng cộng sản được nuôi dưỡng trong
hàng ngũ lính Mỹ”, Việt Nam cuộc chiến không quên [110]. Tác giả làm rõ
về hoạt động của cơ sở nội tuyến chiến lược Nguyễn Thành Trung được cài
cắm trong lòng địch và được Ban Binh vận Trung ương Cục hướng dẫn từ
khi xây dựng thành cơ sở nội tuyến cho đến khi làm binh biến, khởi nghĩa,
sử dụng máy bay của VNCH ném bom vào Dinh Độc lập và sân bay Tân
Sơn Nhất rồi trở về với cách mạng. Tác giả chỉ rõ hành động của Nguyễn
Thành Trung làm cho tinh thần quân đội và chính quyền VNCH hoang
mang, lo sợ. Tác phẩm đã cung cấp cho nghiên cứu sinh thấy rõ hơn thành
công của hoạt động nội tuyến trong lòng địch trên chiến trường B2 vào thời
điểm cuối của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Frank Snepp (2003), Cuộc tháo chạy toán loạn [128]. Tác phẩm khẳng
định, tinh thần binh sĩ VNCH trong những ngày cuối của cuộc chiến tranh suy
sụp nặng nề và tan rã. Nguyên nhân là do lực lượng cách mạng tiến công mạnh
về quân sự, chính trị và binh vận, bên cạnh đó đế quốc Mỹ cắt giảm viện trợ về
kinh tế, quân sự là nguyên nhân quan trọng làm cho tinh thần quân đội và chính
quyền VNCH suy sụp. Tác phẩm khẳng định “Không có viện trợ quân sự, ít
nhất một tỷ đô la thì Nam Việt Nam chỉ là cái bóng của họ” [128, tr. 82].
Negel Cawthorne (2007), Chiến tranh Việt Nam được và mất [41]. Tác
giả chỉ rõ nguyên nhân làm cho lính Mỹ suy sụp tinh thần chính là hoạt động
phản đối chiến tranh của nhân dân Mỹ và hoạt động binh vận của lực lượng
cách mạng miền Nam khi Mỹ triển khai chiến lược “Việt Nam hóa chiến
tranh”. Tác giả cho rằng binh vận đã xây dựng cơ sở cách mạng trong lòng đối
phương với nhiều hình thức và trong các đối tượng khác nhau, để lấy thông tin
từ binh lính Mỹ. Tác giả tuy đề cập chưa sâu đến công tác binh vận, nhưng đã
cho thấy phần nào vai trò công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
dưới sự nhìn nhận của người nước ngoài.
Jeferet Kimball (2007), Hồ sơ chiến tranh Việt Nam [101]. Tác phẩm
khẳng định sự thất bại của chính quyền VNCH và sự sụp đổ về tinh thần của
binh sĩ VNCH xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Đó là, do việc xét đoán kém cỏi
13
về chiến lược trong suốt tháng 3 năm 1975, tình trạng tham nhũng của bộ máy
chính quyền, khủng hoảng tiền tệ thế giới và cú sốc xăng dầu những năm 19731974 làm cho kinh tế VNCH khó khăn. Quân đội thì “chịu sự lãnh đạo tồi nói
chung và những yếu kém về cơ cấu nội tại và về tinh thần” [101, tr. 80]. Bên
cạnh đó, mũi tiến công quân sự của quân Giải phóng diễn ra mạnh mẽ, sự nổi
dậy của quần chúng nhân dân ở khắp nơi vừa đấu tranh vừa tuyên truyền kêu gọi
binh sĩ VNCH đầu hàng, góp phần làm cho binh sĩ VNCH tan rã.
Những công trình của tác giả người nước ngoài mới đề cập đến một số hoạt
động công tác binh vận nói chung và của một số cá nhân. Tuy đề cập chưa nhiều,
nhưng các công trình trên khẳng định vai trò của công tác binh vận góp phần làm
suy sụp tinh thần binh sĩ Mỹ và binh sĩ VNCH trong cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước của nhân dân Việt Nam.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của tác giả trong nước
1.1.2.1. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến công tác binh vận
nói chung trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Nguyễn Ngọc Giao (1973), “Bước phát triển mới trong công tác binh
vận của Quân giải phóng miền Nam” [83]. Bài báo chỉ ra những điểm mới
về nội dung, hình thức đấu tranh binh vận của Quân giải phóng sau khi có
Hiệp định Pari. Nội dung là nêu cao ngọn cờ hòa bình, hòa hợp dân tộc của
Mặt trận Dân tộc giải phóng MNVN và của Chính phủ Cách mạng lâm thời
Cộng hòa MNVN. Có nhiều hình thức mới, tiếp xúc cá nhân, tập thể tuyên
truyền giác ngộ binh sĩ VNCH, “Ở nhiều nơi đã tổ chức thành công hàng
ngàn, hàng vạn cuộc tiếp xúc trực tiếp với đông đảo binh sĩ Sài Gòn” [83,
tr. 61]. Ở nơi nào, đối phương lấn chiếm càn quét, các đơn vị Quân giải
phóng đã tiến công binh vận kết hợp với kiên quyết trừng trị thích đáng.
Bài báo làm rõ sự bắt nhịp kịp thời của Quân giải phóng miền Nam trong
đấu tranh binh vận sau Hiệp định Pari năm 1973.
Ban Chỉ đạo Tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (1995), Tổng
kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước - thắng lợi và bài học [18]. Trong
kinh nghiệm đấu tranh chính trị tác phẩm chỉ rõ, mục tiêu đấu tranh là vì dân
sinh, dân chủ, làm tan rã từng bộ phận ngụy quân, ngụy quyền nhất là ở cơ sở.
14
Phương pháp đấu tranh “từ lẻ tẻ đến cao trào, vừa đấu tranh độc lập vừa kết
hợp chặt chẽ với đấu tranh quân sự và binh vận trên cả ba vùng chiến lược”
[18, tr. 175]. Binh vận kết hợp với đấu tranh quân sự và đấu tranh chính trị
vừa tiêu diệt, tiêu hao lớn quân VNCH trong các chiến dịch tổng hợp chống
bình định, giành dân.
Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh trực thuộc Bộ Chính trị (2000), Chiến
tranh cách mạng Việt Nam 1945 - 1975, thắng lợi và bài học [19]. Công trình
khái quát những thắng lợi và bài học trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược. Công trình chỉ rõ vai trò của công tác
binh vận đó là “binh vận tiến công vào hàng ngũ địch, làm phân hóa lực
lượng, làm suy giảm ý chí của đội quân xâm lược góp phần làm tăng cường
thế và lực cho cách mạng” [19, tr. 222]. Công trình làm rõ vị trí của công tác
binh vận “Đó là mũi tiến công chiến lược, một vấn đề cơ bản trong cuộc vận
động cách mạng ở cả thành thị lẫn nông thôn” [19, tr. 223].
Quân đội nhân dân Việt Nam - Tổng cục Chính trị (2002), Tổng kết
công tác binh - địch vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước [117].
Công trình làm rõ một số chủ trương, chỉ đạo của Trung ương Đảng về công
tác binh - địch vận và chủ yếu làm rõ về hoạt động, kết quả của công tác binh
vận trên chiến trường miền Nam. Đồng thời, nhận xét đánh giá và rút ra
những kinh nghiệm công tác binh - địch vận trên chiến trường MNVN. Đó
là: Xác định đúng vị trí vai trò công tác binh - địch vận; Tổ chức toàn dân
làm công tác binh - địch vận; Sử dụng 3 mũi giáp công tiến hành công tác
binh - địch vận; Xây dựng cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ chuyên
trách đủ mạnh. Đây là công trình tương đối hoàn chỉnh về công tác binh địch vận trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.
Nguyễn Xuân Tú (2002), Đảng chỉ đạo giành thắng lợi từng bước trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước thời kỳ 1965 - 1975 [206]. Tác giả làm rõ
quá trình chỉ đạo của Đảng đánh bại từng bước cuộc chiến tranh xâm lược của đế
quốc Mỹ tại Việt Nam. Trong đó, đề cập đến một số chủ trương, chỉ đạo và kết
quả tiến công binh vận của Đảng, của Trung ương Cục. Tác giả chỉ rõ tháng 7 -
15
1969 Trung ương Cục chủ trương “tăng cường công tác dân vận làm cơ sở cho
đấu tranh chính trị, binh vận, xây dựng và mở rộng căn cứ” [206, tr. 85], để góp
phần khôi phục lại phong trào cách mạng. Tác phẩm có vai trò quan trọng, hình
thành khung chung về quá trình chỉ đạo của Đảng chống chiến lược “Việt Nam
hóa chiến tranh”, là tài liệu nghiên cứu sinh kế thừa về nội dung và phương pháp.
Nguyễn Văn Bạo (2007), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo kết hợp đấu
tranh quân sự, chính trị, ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước từ
1965 đến 1/1973 [23]. Tác giả làm rõ chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng về kết
hợp đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao trong kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước từ năm 1965 đến tháng 01 năm 1973. Trong đó chỉ rõ sau năm 1968, “cục diện
chiến tranh mới tạo ra cho đấu tranh quân sự, chính trị, ngoại giao có điều kiện kết
hợp và hỗ trợ cho nhau tốt hơn, thúc đẩy quá trình làm tan rã tinh thần của binh lính
Mỹ trên chiến trường làm cho ngụy quân, ngụy quyền nhanh chóng suy sụp” [23,
tr. 101]. Đồng thời, tác giả chỉ ra hoạt động kết hợp binh vận với phong trào đấu
tranh chính trị ở Sài Gòn - Gia Định của công nhân, học sinh, sinh viên, nhằm
chống bắt lính, bắt sinh viên vào PVDS. Tác phẩm không nghiên cứu trực tiếp
về công tác binh vận nhưng đã chỉ ra những yếu tố tác động đến sự suy sụp tinh
thần và tan rã về tổ chức của binh sĩ Mỹ, binh sĩ VNCH.
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam - Cục Dân vận và Tuyên
truyền đặc biệt (2008), Công tác dân vận và tuyên truyền đặc biệt trong Quân
đội nhân dân Việt Nam (1947 - 2002) [198]. Công trình làm rõ quá trình tham
mưu, chỉ đạo hướng dẫn công tác binh vận của Cục Dân vận và Tuyên truyền
đặc biệt qua các giai đoạn chống Pháp và chống Mỹ cho chiến trường miền Nam
nói chung và chiến trường B2 nói riêng. Công trình mang tính chất liệt kê về nội
dung chỉ đạo, hướng dẫn của cơ quan chuyên môn.
Lê Văn Mạnh (2012), Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo quân và dân ta
chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh” của đế quốc Mỹ (1969 -1975)
[106]. Tác giả dựng lại bức tranh chân thực Đảng lãnh đạo chống chiến lược
“Việt Nam hóa chiến tranh”, trong đó đề cập đến một số hoạt động binh vận và
chỉ ra hạn chế của công tác binh vận trong giai đoạn này là “Đấu tranh chính trị và
16
binh vận chưa phát triển kịp thời” [106, tr. 46]. Tác giả chỉ ra điểm hạn chế về
tinh thần quân đội VNCH và nguyên nhân dẫn đến suy sụp tinh thần quân đội
VNCH. Tác phẩm hình thành phông chung quá trình lãnh đạo của Đảng
chống chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”.
Viện Lịch sử quân sự Việt Nam (2013), Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước
1954 -1975, Tập VI, Thắng Mỹ trên trường ba nước Đông Dương [207]. Tác
phẩm làm rõ âm mưu, thủ đoạn của đế quốc Mỹ về bắt lính đôn quân, sử dụng
các biện pháp phản vận trong chiến lược “Việt Nam hóa chiến tranh”. Tác
phẩm làm rõ một số hoạt động binh vận của quân và dân miền Nam trong các
chiến dịch đường 9 Nam Lào, Đông Bắc Campuchia và trong họạt động
chống bình định trên toàn MNVN.
Nguyễn Văn Bích (2016) “Công tác binh - địch vận góp phần làm nên
thắng lợi” [24]. Tác giả làm rõ vị trí vai trò công tác binh - địch vận trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, chỉ ra khái niệm công tác binh - địch vận trong
kháng chiến chống Mỹ “là công tác tuyên truyền, vận động, tranh thủ lôi kéo
những người Việt Nam vì lý do khác nhau đang cầm súng, làm việc cho Mỹ,
ngụy trở về với dân tộc, đứng lên cùng nhân dân chống xâm lược và bè lũ
tay sai phản động, làm cho ngụy quân, ngụy quyền suy giảm, tê liệt dẫn đến
tan rã về tư tưởng, tổ chức; đồng thời là mũi tiến công chính trị vào quân
xâm lược Mỹ, chư hầu, làm cho chúng sa sút tinh thần, suy sụp ý chí xâm
lược” [24, tr. 308].
Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam, Cục Dân vận (2017),
Lịch sử Cục Dân vận (1947 - 2017) [199]. Công trình làm rõ lịch sử của Cục
Dân vận qua các thời kỳ chống Pháp và chống Mỹ, trong đó làm rõ quá trình,
tham mưu đề xuất với Tổng cục Chính trị về công tác binh vận trên chiến trường
miền Nam. Trong những năm chống Mỹ, cứu nước, công trình đề cập đến một
số chủ trương, chỉ đạo, hoạt động và kết quả binh vận. Công trình có cách tiếp
cận và giải quyết vấn đề binh vận mang đậm tính lịch sử, là tài liệu qúy khi
nghiên cứu về công tác binh vận.
17
Các công trình nghiên cứu về công tác binh vận nói chung trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đã làm rõ một số chủ trương, chỉ đạo của
Đảng và kết quả binh vận ở các giai đoạn kháng chiến. Các công trình trên
cung cấp cho nghiên cứu sinh nhìn nhận tổng quát hơn về công tác binh
vận của Đảng, là nguồn tài liệu quý cung cấp về nội dung và phương pháp
cách tiếp cận giải quyết vấn đề binh vận. Tuy nhiên, các công trình trên
mới đề cập đến một số chủ trương và chỉ đạo của Đảng về công tác binh
vận, chưa có công trình nào đề cập một cách hệ thống chuyên sâu về chủ
trương, chỉ đạo công tác binh vận của Trung ương Cục trong chống chiến
lược “Việt Nam hóa chiến tranh” (1969 - 1975).
1.1.2.2. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến công tác binh vận ở
các vùng miền, địa phương trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Tỉnh ủy Gia Lai (1998), Tổng kết công tác binh vận tỉnh Gia Lai trong
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) [196]. Công trình dựng
lại bức tranh lịch sử chân thực về hoạt động binh vận ở tỉnh Gia Lai, đề cập
đến một số chủ trương và chỉ đạo của Tỉnh ủy Gia Lai về công tác binh vận,
làm rõ các hoạt động binh vận của quân và dân Gia Lai trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Công trình đã nhận xét đánh giá và rút ra một số
kinh nghiệm về hoạt động binh vận của Tỉnh ủy Gia Lai.
Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (1998), Tổng kết công tác binh vận trong cuộc
kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975) [197]. Công trình làm rõ một
số chủ trương của Tỉnh ủy và các hoạt động, hình thức tiến công binh vận của
quân và dân Thừa Thiên Huế. Các hình thức tiến công binh vận được sử dụng
“quyết liệt chặn xe, xông vào đồn cho đến gọi loa, tuyên truyền văn nghệ vào
các đồn bốt, phong trào “nói đồng bào tôi nghe và nghe đồng bào tôi nói” ở
các thành phố” [197, tr. 126]. Công trình rút ra một số kinh nghiệm hoạt động
binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của quân và dân Thừa
Thiên Huế. Công trình là tài liệu quan trọng để đối chiếu so sánh với hoạt
động công tác binh vận trên chiến trường B2.
18
Thường vụ Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (1999), Tổng kết công
tác binh vận chiến trường Khu V, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975) [135]. Công trình làm rõ một số chủ trương và sự chỉ đạo
của Khu ủy Khu V về công tác binh vận. Đồng thời, làm rõ hoạt động và kết quả
tiến công binh vận của quân, dân Khu V trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước. Công trình chỉ ra những ưu, khuyết điểm và rút ra một số kinh nghiệm
công tác binh vận trên chiến trường Khu V. Công trình thể hiện nội dung và bố
cục chặt chẽ, là tài liệu quan trọng để so sánh đánh giá với kết quả công tác binh
vận trên chiến trường B2 dưới sự lãnh đạo của Trung ương Cục.
Vũ Quang Hiển (2008), “Mũi tiến công địch vận ở Huế, Xuân Mậu Thân
1968” [86]. Tác giả làm rõ hoạt động binh vận và địch vận của lực lượng vũ trang
trong tổng tiến công và nổi dậy ở Huế trong Xuân Mậu Thân. Tác giả chỉ rõ mối
quan hệ của ba mũi tiến công “Mũi tiến công chính trị và mũi tiến công quân sự
phối hợp nhịp nhàng và đều khắp... có tác dụng tiêu diệt lực lượng đối phương,
tạo đà cho mũi tiến công binh vận” [86, tr.16]. Tác giả chỉ rõ hoạt động binh vận
của lực lượng vũ trang là sử dụng phương pháp gọi loa kêu hàng, vận động nhân
dân tham gia tiến công binh vận rộng khắp và liên tục. Bài báo khoa học mới đề
cập đến hoạt động binh vận của lực lượng vũ trang trong phạm vi hẹp về không
gian và thời gian, nhưng nội dung và phương pháp tiếp cận rất khoa học.
Trần Thị Lan (2011), “Hoạt động nội tuyến trong cuộc Tổng tiến công và
nổi dậy Mậu Thân 1968 ở Đắk Lắk” [102]. Tác giả cho rằng hoạt động nội tuyến
là hình thức đánh địch đơn tuyến, hoàn toàn bí mật, chiến sĩ nội tuyến tạo được sự
tin tưởng của địch. Hình thức hoạt động nội tuyến ở Đắk Lắk là “nắm chắc âm
mưu, thủ đoạn, kế hoạch hoạt động của địch rồi báo cáo cơ quan cấp trên... đánh
phá các mục tiêu chiến lược do cấp trên chỉ định hoặc được cấp trên chấp nhận”
[102, tr. 18]. Kết quả là “Cách đánh bất ngờ ngay trong cơ quan đầu não đối
phương khiến cho quân địch hoang mang, kinh hoàng, dẫn đến làm suy giảm tinh
thần chiến đấu của binh lính địch tại Buôn Ma Thuột và trên chiến trường Đắk
Lắk” [102, tr. 21]. Tác phẩm đề cập rất sâu về công tác nội tuyến, đây là một hoạt
động của công tác binh vận.
19
Hà Văn Ngọc (2012) “Đấu tranh binh vận ở Quảng Nam trong những
năm đầu kháng chiến chống Mỹ, cứu nước” [112]. Tác phẩm làm rõ chủ trương
của Tỉnh ủy Quảng Nam về “phát huy vai trò đi đầu của lực lượng phụ nữ trong
đấu tranh chính trị - binh địch vận” [112, tr. 28]. Chị em phụ nữ của Tỉnh là lực
lượng nòng cốt làm binh vận, được bồi dưỡng tiếng Anh, tiếng Hàn Quốc để đấu
tranh trực diện với lính Mỹ và lính Nam Hàn. Phụ nữ và thiếu nhi nói được những
câu thông dụng bằng tiếng Hàn đã hướng dẫn quần chúng địa phương cách đấu
tranh trực diện, binh vận đối với lính Nam Hàn. Phụ nữ phát tán truyền đơn,
trương khẩu hiệu binh vận với nhiều hình thức, phối hợp với du kích, bộ đội địa
phương, bám sát đồn địch, dùng loa đọc lời kêu gọi bằng tiếng Hàn Quốc...
Hoàng Chí Hiếu (2015), “Công tác binh vận trên chiến trường Quảng
Trị những năm 1961 - 1966” [87]. Tác giả làm rõ hoạt động binh vận của
quân và dân Quảng Trị và chỉ rõ nhiệm vụ công tác binh vận là: Binh vận kết
hợp với đấu tranh chính trị và tác chiến làm tan rã tiêu hao, tiêu diệt lực lượng
vũ trang của địch chủ yếu là lực lượng vũ trang địa phương; Tiến công binh
vận nhằm phân hóa, tranh thủ cải tạo để triệt phá chính quyền của địch ở thôn
xã; Tổ chức binh vận chống càn quét, lấn chiếm; Chấp hành tốt các chính
sách binh vận để góp phần ổn định và củng cố nông thôn đồng bằng; Xây
dựng bộ máy binh vận ở nông thôn và đội ngũ binh vận quần chúng. Tác
phẩm tuy viết về binh vận trong một giai đoạn ngắn nhưng khái quát tương
đối đầy đủ về nội dung và nhiệm vụ công tác binh vận.
Các công trình trên tuy không nghiên cứu chuyên sâu về Trung ương Cục
lãnh đạo công tác binh vận và không nghiên cứu riêng ở chiến trường B2 nhưng
đã cho nghiên cứu sinh thấy rõ hơn về một số chủ trương, chỉ đạo hoạt động, kết
quả và kinh nghiệm công tác binh vận của nhiều địa phương trong cuộc kháng
chiến chống Mỹ, cứu nước. Các công trình trên là tài liệu quý để nghiên cứu sinh
tiếp thu kế thừa về nội dung và phương pháp nghiên cứu, là cơ sở để so sánh đối
chiếu với quá trình lãnh đạo binh vận của Trung ương Cục trên chiến trường B2
trong những năm 1969 - 1975.
20
1.1.2.3. Nhóm công trình nghiên cứu liên quan đến công tác binh vận
trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường B2
Thường vụ Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Quân khu 5 (1995), Lịch sử Khu 6 kháng
chiến chống Mỹ (1954 - 1975) [134]. Công trình làm rõ về lịch sử chống Mỹ, cứu
nước của quân và dân Khu 6, công tác binh vận được đề cập đến một số chủ
trương của Khu ủy Khu 6 và hoạt động, kết quả binh vận của quân và dân Khu 6
trong các giai đoạn chống Mỹ, cứu nước. Tuy nhiên, công trình mới đề cập đến
hoạt động binh vận đơn lẻ, chưa đề cập một cách hệ thống sự lãnh đạo của Khu ủy
Khu 6 và Trung ương Cục về công tác binh vận.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Đồng Nai (1998), Tổng kết công tác
binh vận tỉnh Đồng Nai, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ (1954 - 1975)
[17]. Công trình làm rõ hoạt động, kết quả và chỉ ra một số kinh nghiệm tiến
công binh vận của quân và dân tỉnh Đồng Nai trong cuộc kháng chiến chống
Mỹ, cứu nước: Một là, quán triệt đường lối cách mạng, chính sách binh vận
của Đảng. Hai là, công tác binh vận là nhiệm vụ chiến lược trong kháng
chiến, thực chất là công tác vận động quần chúng. Ba là, nắm vững tư tưởng
chiến lược tiến công trong công tác binh vận. Bốn là, xây dựng đội ngũ cán
bộ làm công tác binh vận vững vàng.
Thành ủy Thành phố Hồ Chí Minh - Tổ biên tập công tác binh vận
(2000), Tổng kết công tác binh vận trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu
nước (1954 - 1975) trên chiến trường B2 cũ [132]. Công trình nghiên cứu
chuyên sâu về hoạt động và kết quả công tác binh vận trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ, cứu nước trên chiến trường Nam Bộ. Công trình đưa ra đánh giá
chung công tác binh vận của Trung ương Cục trong kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước là “góp phần quan trọng vào thắng lợi chung, xứng đáng với nhiệm
vụ chiến lược mà Đảng đã giao” [132, tr. 165]. Công trình rút ra những bài
học kinh nghiệm về chỉ đạo công tác binh vận là: Vị trí chiến lược công tác
binh vận; Quán triệt và phục vụ cao nhất yêu cầu phương hướng chiến lược
của cách mạng; Gắn với nền tảng đoàn kết đấu tranh của các tầng lớp nhân
dân và GĐBS, phát huy khả năng tiềm ẩn của binh sĩ; Gắn trong hình thái ba
21
mũi giáp công; Tổ chức nội tuyến là khâu then chốt của công tác binh vận;
Khai thác, lợi dụng mâu thuẫn trong nội bộ địch; Chỉ đạo tương xứng vị trí
chiến lược công tác binh vận. Công trình nghiên cứu trực tiếp về hoạt động
binh vận, nhưng mới chỉ nghiên cứu trên chiến trường Nam Bộ, một bộ phận
của chiến trường B2. Công trình chưa hệ thống sự lãnh đạo và nhận xét về vai
trò của Trung ương Cục lãnh đạo công tác binh vận.
Bộ Tổng Tham mưu (2001), Tổng kết chiến tranh nhân dân địa phương,
chuyên đề kết hợp đấu tranh hai chân, ba mũi giáp công trên cả ba vùng chiến
lược, trong kháng chiến chống đế quốc Mỹ, tại địa bàn Quân khu 9 [35]. Công
trình khẳng định tiến công binh vận là mũi tiến công có ý nghĩa chiến lược rất
lợi hại trong sự kết hợp hai chân, ba mũi giáp công. Trong đó binh vận tạo
thuận lợi cho quân sự, giảm thương vong cho mũi quân sự. Binh vận diệt ác trừ
gian đánh trúng vào những tên đầu sỏ, hỗ trợ cho quần chúng đấu tranh trực
diện với địch. Mũi binh vận còn cung cấp thông tin có lợi cho đấu tranh chính
trị và đấu tranh vũ trang.
Đảng ủy, Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Tây Ninh (2001), Lịch sử lực
lượng võ trang tỉnh Tây Ninh (1954 - 1975) [72]. Công trình chỉ rõ hoạt
động của lực lượng vũ trang tỉnh Tây Ninh thực hiện ba mũi giáp công
trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Tiến công vũ trang hiệu quả
là cơ sở để đấu tranh chính trị, binh vận được thuận lợi, “hoạt động võ
trang 3 thứ quân hiệu quả trên cả 3 vùng phục vụ tốt cho đấu tranh chính trị
và binh vận” [72, tr. 505]. Hình thức đấu tranh binh vận của lực lượng vũ
trang Tây Ninh là tổ chức các đội vũ trang tuyên truyền, đấu tranh kêu gọi quân
đội và chính quyền VNCH, lôi kéo đông đảo quần chúng tham gia đấu tranh.
Sau Hiệp định Pari, Tỉnh ủy chủ trương, “Mũi võ trang phải làm đòn xeo phục
vụ đắc lực cho chính trị để tạo đà tiến công địch về binh, địch vận” [72, tr. 569].
Đây là công trình thể hiện sự kết hợp 3 mũi khá rõ trên chiến trường B2.
Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Bình Dương (2002), Công tác binh
vận tỉnh Bình Dương (1954 - 1975) [16]. Công trình làm rõ hoạt động, kết
quả và rút ra một số kinh nghiệm tiến công binh vận của quân và dân tỉnh
- Xem thêm -