Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời ...

Tài liệu Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay

.PDF
160
489
135

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ TÌNH TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC HÀ NỘI - 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN THỊ TÌNH TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM VÀ Ý NGHĨA CỦA NÓ ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Ở NƢỚC TA HIỆN NAY Chuyên ngành: Chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử Mã số: 9229002 LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: GS.TS. HỒ SĨ QUÝ HÀ NỘI - 2018 LỜI CA Đ AN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu trong luận án được trích dẫn nguồn trung thực. Những kết luận khoa học của Luận án chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. TÁC GIẢ LUẬN ÁN Nguyễn Thị Tình MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU..................................................................................................................1 1. Tính cấp thiết của đề tài.....................................................................................1 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu.....................................................................3 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu......................................................................3 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu.......................................................3 5. Đóng góp mới của luận án...................................................................................4 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án...........................................................4 7. Kết cấu của luận án.............................................................................................5 Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI............................................................................................................................6 1.1. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh..........................6 1.1.1. Các công trình nghiên cứu triết lý trong sự phân biệt với triết học............6 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về con người và đời sống con người...............12 1.2. Các công trình nghiên cứu có liên quan đến triết lý trong tục ngữ, ca dao Việt Nam..................................................................................................................16 1.2.1. Các công trình nghiên cứu về giá trị ca dao tục ngữ nói chung.................16 1.2.2. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam...........................................................................................................24 1.3. Những kết quả đƣợc kế thừa từ các công trình đã công bố và những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu.............................................................................28 Kết luận chƣơng 1...................................................................................................30 Chƣơng 2: TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ CA DAO VIỆT NAM: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN.....................................................................32 2.1. Quan niệm về triết lý nhân sinh......................................................................32 2.1.1. Triết học và triết lý: phân biệt triết lý với triết học.......................................32 2.1.2. Nhân sinh, nhân sinh quan và triết lý nhân sinh.........................................41 2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam: cơ sở hình thành và đặc điểm.......................................................................................................................................45 2.2.1. Quan niệm về tục ngữ và ca dao: một số vấn đề lý luận ...............................45 2.2.2. Cơ sở hình thành triết lý nhân sinh trong tục ngữ ca dao Việt Nam..........54 2.2.3. Đặc điểm và vai trò của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam Kết luận chương 2....................................................................................................57 Chƣơng 3: NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINHTRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NAM...................................................................................68 3.1. Triết lý về nguồn gốc, bản chất, về vị thế con ngƣời......................................................68 3.1.1. Triết lý về nguồn gốc của con người.............................................................68 3.1.2. Triết lý về bản chất con người......................................................................74 3.2. Triết lý về quan hệ con ngƣời với tự nhiên......................................................................82 3.3. Triết lý về quan hệ con ngƣời với con ngƣời……………………………………...88 3.3.1. Triết lý về sự làm người.................................................................................88 3.3.2. Triết lý đối nhân xử thế..................................................................................91 3.4. Triết lý về đạo đức, nhân cách và ý nghĩa cuộc sống..................................105 3.4.1. Triết lý về đạo đức, nhân cách.....................................................................105 3.4.2. Triết lý về ý nghĩa cuộc sống.......................................................................109 3.5. Những nét độc đáocủa triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam 3.5.1. Thừa nhận thực tế đời sống đầy mâu thuẫn................................................................111 3.5.2. Phạm vi ứng dụng rộng, bao quát...............................................................113 3.5.3. Trình độ khái quát cao.................................................................................114 Kết luận chƣơng 3.................................................................................................114 Chƣơng 4: Ý NGHĨA CỦA TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG TỤC NGỮ, CA DAO VIỆT NA ĐỐI VỚI ĐỜI SỐNG XÃ HỘI HIỆN NAY………………117 4.1. Thực tiễn đời sống xã hội Việt Nam hiện nay: những vấn đề đặt ra…….117 4.2. Ý nghĩa định hƣớng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời sống xã hội hiện nay……………………………………………………………..127 4.2.1. Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam góp phần thúc đẩy tư duy lành mạnh, định hướng hành động hợp lẽ phải……………………..……..128 4.2.2. Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam góp phần giáo dục quan niệm sống tốt đẹp và lối sống nhân văn…………………………………………131 4.2.3. Về hạn chế của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam……..138 Kết luận chƣơng 4………………………………………………………………141 KẾT LUẬN……………………………………………………………………...143 CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN…………………………………………………………………………..148 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định “Xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [25;126]. Đây là quan điểm có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam, cũng đồng thời là quan điểm định hướng cho sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về văn hóa và con người Việt Nam. Về phương diện nghiên cứu, cho đến nay, giới lý luận đã đạt được những thành tựu rất đáng kể trong nghiên cứu văn hóa và con người. Tuy vậy, điều đáng lưu ý là, việc nghiên cứu về con người vẫn có thể rơi vào tình trạng không đầy đủ nếu thiếu vắng những khám phá về triết lý nhân sinh. Mà ở Việt Nam, trong kho tàng tục ngữ, ca dao, triết lý nhân sinh – triết lý về con người và về đời sống con người, lại chiếm vị trí rất đáng kể và có ý nghĩa không nhỏ đối với đời sống xã hội, trước đây cũng như hiện nay. Có thể thấy, tục ngữ, ca dao là một bộ phận đồng thời là chỉ báo tin cậy phản ánh sự phát triển phong phú về đời sống tinh thần của người Việt Nam từ trong lịch sử xa xưa. Bằng nghệ thuật ngôn từ trau chuốt, sâu sắc nhưng dung dị, mộc mạc, quen thuộc với người nông dân, ca dao, tục ngữ, và triết lý nhân sinh chứa đựng trong đó đã thực sự là vũ khí tinh thần sắc bén, là những chỉ dẫn thế giới quan và nhân sinh quan sáng suốt, định hướng cho con người sống, lao động, sáng tạo và yêu thương… trong suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Ngày nay, triết lý nhân sinh trong ca dao tục ngữ vẫn là hành trang đắt giá của xã hội hiện đại. Nói đến triết lý nhân sinh ở Việt Nam, trước tiên, người ta không thể không tìm kiếm trong văn học dân gian Việt Nam, trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam. Dĩ nhiên, triết học là tri thức hệ thống, bác học về thế giới quan và phương pháp luận, còn tục ngữ, ca dao lại là tri thức dân gian (Folk Knowledge) - tri thức của sự phản ánh cái cụ thể, cái thuộc về những kinh nghiệm, lẽ phải thông thường. 1 Quần chúng nhân dân, bằng kinh nghiệm và trí khôn của nhiều thế hệ là tác giả của loại hình tri thức này. Sức mạnh của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao là ở đó. Như nhiều tài liệu đã khẳng định, tục ngữ, ca dao Việt Nam, trên khắp các vùng miền, ở tất cả các lĩnh vực, đều chứa đựng trong nó hệ thống phong phú các triết lý nhân sinh sâu sắc. Mấy nghìn năm dân tộc Việt Nam tồn tại và phát triển, cũng là mấy nghìn năm triết lý nhân sinh luôn nối tiếp nhau xuất hiện và thực hiện chức năng định hướng của mình trong tục ngữ, ca dao. Kinh nghiệm sống, lao động và đấu tranh, các giá trị làm người, các bản sắc đặc trưng về lối sống và ứng xử… không ngừng được đúc kết và cất giữ trong ca dao, tục ngữ, kể cả trong xã hội hiện đại. Vấn đề là ở chỗ, hiện hay việc xác định hệ thống triết lý nhân sinh trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam trên thực tế chưa được tìm hiểu một cách hệ thống. Đại đa số các tác giả tuy đánh giá cao giá trị của các triết lý nhân sinh, chỉ ra sự tồn tại của một số triết lý nhân sinh cụ thể trong kho tàng tục ngữ, ca dao và phân tích nội dung của chúng, nhưng lại chưa tiến hành hệ thống hóa, phân loại, và đánh giá ý nghĩa nhiều tầng, đa diện của tục ngữ, ca dao đối với các xã hội ở từng giai đoạn lịch sử và trong toàn bộ đời sống xã hội nói chung. Việc xem xét cũng chủ yếu tiến hành trong khuôn khổ những nghiên cứu văn học, văn hóa học… hầu như rất ít được nghiên cứu từ góc độ triết học. Đối với việc nghiên cứu từ góc độ triết học, những vấn đề cần phải giải đáp là: Những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam gồm những gì? Làm thế nào để phân loại, xác định và nhận diện hợp lý các triết lý nhân sinh phong phú, đa dạng trong đời sống xã hội Việt Nam ở các thời kỳ lịch sử khác nhau? Ý nghĩa định hướng của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao đối với đời sống xã hội hiện nay thể hiện như thế nào? Cần phải làm gì và làm như thế nào để giữ gìn và phát huy những nội dung của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam vào giáo dục con người trong bối cảnh hiện nay? Nghiên cứu triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, do vậy có ý nghĩa không nhỏ trong việc khẳng định những giá trị quý báu của văn hóa dân tộc. Trên cơ sở đó, việc làm rõ, đánh giá những giá trị của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam, sẽ góp phần làm tăng cường sức sống của đời sống tinh thần 2 xã hội, củng cố niềm tin, lý tưởng sống cho mỗi người Việt Nam hiện nay dưới tác động của toàn cầu hóa. Xuất phát từ những lý do đó, tác giả đã chọn: “Triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam và ý nghĩa của nó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay” để làm đề tài luận án tiến sĩ triết học này. 2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án 2.1. Mục đích - Nghiên cứu, xác định những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. - Phân tích, đánh giá giá trị và ý nghĩa của những triết lý nhân sinh đó đối với đời sống xã hội ở nước ta hiện nay. 2.2. Nhiệm vụ Phù hợp với mục đích nghiên cứu nói trên, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài gồm: - Tổng quan tình hình nghiên cứu có liên quan và xác định khung lý thuyết để nghiên cứu đến đề tài. - Nghiên cứu, xác định triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. - Phân tích nội dung cơ bản của các loại triết lý nhân sinh chủ yếu trong kho tàng tục ngữ, ca dao Việt Nam. - Đánh giá ý nghĩa với những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam đối với đời sống xã hội Việt Nam hiện nay. 3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận án là triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. 3.2. Phạm vi nghiên cứu Luận án giới hạn nghiên cứu những ca dao, tục ngữ đã được tuyển chọn trong kho tàng tục ngữ, ca dao các tỉnh Bắc Bộ, Bắc Trung Bộ; chủ yếu là trong các tác phẩm về tục ngữ, ca dao đã xuất bản. 4. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận 3 - Cơ sở lý luận của luận án là Chủ nghĩa duy vật biện chứng và Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về con người và đời sống con người, về tồn tại xã hội và ý thức xã hội… Cùng với cơ sở lý luận cơ bản đó, luận án còn chú ý khai thác và sử dụng những giá trị lý luận của các công trình nghiên cứu ngoài triết học về chủ đề đời sống con người được phản ánh trong tục ngữ, ca dao. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận án sử dụng phương pháp logic - lịch sử, quy nạp - diễn dịch, tổng hợp phân tích, so sánh - đối chiếu, thống kê,… Luận án chú trọng sử dụng các tài liệu triết học và triết lý, về đời sống tinh thần và vật chất của xã hội và con người, về văn hóa và con người. Trong chừng mực có liên quan, luận án có sử dụng các tài liệu văn học, văn hóa học có liên quan đến chủ đề, các báo cáo chuyên môn của các tổ chức văn hóa - xã hội của Đảng và Nhà nước, đặc biệt các báo cáo của các Hội văn học – nghệ thuật, các trường Đại học khu vực phía bắc… có liên quan đến đề tài. 5. Đóng góp mới của luận án Luận án đã xác định được những nội dung cơ bản của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Bước đầu phân loại các loại triết lý nhân sinh theo đặc thù của đời sống người Việt thể hiện trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Luận án đã chỉ ra những nét độc đáo, góp phần khẳng định giá trị của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Luận án đã phân tích làm rõ ý nghĩa của các triết lý nhân sinh trongviệc xây dựng nhân sinh quan lành mạnh của con người Việt Nam hiện nay. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án 6.1. Ý nghĩa lý luận Luận án đã góp phần làm rõ một số vấn đề lý luận như nội dung cơ bản, phân loại, ý nghĩa định hướng… của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. Luận án đã góp phần chỉ ra ý nghĩa của triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam đối với việc xây dựng nhân sinh quan của con người hiện nay. 6.2. Ý nghĩa thực tiễn 4 Luận án có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về triết học, triết lý, chủ nghĩa duy vật lịch sử, văn học dân gian, văn hóa học về ca dao, tục ngữ Việt Nam, đặc biệt về triết lý nhân sinh trong tục ngữ, ca dao Việt Nam. 7. Kết cấu của luận án Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận án được bố cục làm 4 chương với 12 tiết. 5 Chƣơng 1 TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI 1.1. Các công trình nghiên cứu về triết lý và triết lý nhân sinh 1.1.1. Các công trình nghiên cứu triết lý trong sự phân biệt với triết học Công trình sớm nhất về vấn đề này là của Trần Đức Thảo với tên gọi “Triết lý đã đi đến đâu”, Nxb. Minh Tân, Paris, 1950. Bản điện tử do triethoc.edu.vn thực hiện. Mở đầu tác giả viết: “Triết lý là ý niệm của nhân loại, tự giác đã đi ra khỏi cách sinh sống thời đại dã man, và nhờ văn minh có nâng đời sống lên phương diện phổ biến: nghĩa là mỗi người có một nhân phẩm, ai ai cũng phải công nhận, không kể đến hoàn cảnh đặc biệt, nhưng chỉ vì một người là một người, có giá trị làm người”.[100,2]. Ở tác phẩm này, tác giả chia vấn đề triết lý ra làm 3 phần: Phần 1: Căn bản thiết thực của triết lý - châu Âu và châu Á; phần 2: Giai đoạn trưởng giả cách mệnh, từ thời trung cổ đến Hêghen; phần 3: Thời đại trưởng giả trụy lạc, Mácxit phát triến. Có thể khẳng định, với công trình này Trần Đức Thảo đã chỉ ra những đặc điểm của triết lý, trên cơ sở đã trình bày một cách đầy đủ nguồn gốc hình thành và quá trình phát triển của triết lý trong triết học phương Đông và phương Tây. Với tính cách là triết gia Việt Nam được thừa nhận có tầm vóc quốc tế ở Phương Tây, Trần Đức Thảo trong tác phẩm này đã dành nhiều tâm huyết cho vấn đề triết lý. Tiếc rằng ông lại chưa đặt ra vấn đề phân biệt giữa triết học và triết lý, mặc dù ông sử dụng cả hai thuật ngữ này. Tác giả Phạm Xuân Nam (chủ biên) với cuốn sách “Triết lý phát triển ở Việt Nam - Mấy vấn đề cốt yếu”, Nxb. Khoa học xã hội, 2003; cuốn sách gần 600 trang, là một công trình nghiên cứu lớn về triết lý và triết lý phát triển ở Việt Nam, gồm 7 chương, đề cập đến những vấn đề như: Triết lý được định nghĩa là gì? Triết lý phát triển là như thế nào? Triết lý về mối quan hệ giữa các lĩnh vực trong đời sống xã hội như kinh tế, chính trị, đạo đức, pháp luật, triết lý về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, con người với xã hội… Nội dung của các chương này đều phản ánh cô đúc và có phần bổ sung, phát triển thêm kết quả nghiên cứu của 6 đề tài nhánh thuộc chương trình nghiên cứu khoa học cấp Bộ của Trung tâm Khoa học xã hội và Nhân văn Quốc gia từ cuối năm 1997 đến năm 2001. Khi bàn đến triết lý, chủ yếu tác giả Phạm Xuân Nam đẫ đề cập đến triết lý phát triển của xã hội. Theo tác giả, “Triết lý 6 phát triển - chính là những quan điểm, luận điểm, phương châm cốt lõi và cơ bản nhất có vai trò định hướng cho hoạt động thực tiễn nhiều mặt của con người, nhằm biến đổi theo chiều hướng đi lên từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp của tất cả các yếu tố, các chiều cạnh hợp thành xã hội tổng thể mà trong đó bản thân con người là trung tâm” [79;40]. Tác giả Nguyễn Văn Huyên với công trình “Triết lý phát triển – từ Mác – Lênin đến Hồ Chí Minh”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000. Sách chuyên khảo này gồm những nội dung lớn như: Quan niệm triết lý là gì? Triết lý Hồ Chí Minh là như thế nào? Nguồn gốc và nội dung triết lý phát triển của Hồ Chí Minh và sự vận dụng triết lý phát triển ấy trong công cuộc đổi mới, xây dựng đất nước ở Việt Nam hiện nay. Theo tác giả, đặc điểm nổi bật của tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung và triết lý phát triển Hồ Chí Minh nói riêng là tư tưởng - hành động. Nhân lõi triết lý của Hồ Chí Minh về một đất nước phát triển cũng như giải pháp có tính nguyên tắc đối với việc thực hiện quá trình phát triển đất nước không chỉ dừng lại ở lý thuyết, mà nó được hoà quyện vào trong hành động thực tiễn, vào trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước Việt Nam. Hồ Sĩ Quý với “Một số suy nghĩ về triết học và triết lý” đăng trên Tạp chí Triết học số 3/1998 đã phân biệt một cách khá súc tích triết học với triết lý. Theo tác giả, “Triết học là một môn khoa học nghiên cứu những qui luật chung nhất của tự nhiên, xã hội, con người và mối quan hệ của tư duy với tồn tại. Nó thường được thể hiện dưới dạng một hệ thống các nguyên lý, quan điểm có tính trừu tượng khái quát hoá cao với lôgíc nội tại tương đối chặt chẽ. Khác với triết học, triết lý không phải là môn khoa học đề cập đến những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội, tư duy” [91;3]. Còn triết lý, tác giả cho rằng có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm... mang tính khái quát cao, nhưng thường thiếu tính hệ thống, được khái quát chủ yếu từ kinh nghiệm hàng ngày hoặc là “mảnh vụn” của những hệ thống tri thức nào đó. Triết lý, dĩ nhiên cũng được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ; và được sử dụng trong đời sống xã hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người về mặt thế giới quan, phương pháp luận. Theo chúng tôi đây là một trong những công trình phân biệt rõ và sâu về sự khác biệt giữa triết học 7 và triết lý, giúp người đọc có thể hiểu rõ những đặc trưng cơ bản của triết lý và sự khác nhau của nó với triết học. Công trình “Triết lý phương Đông - giá trị và bài học Lịch sử” của tác giả Trịnh Doãn Chính, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2001. Nội dung chính của tác phẩm đề cập đến những vấn đề cơ bản trong triết lý phương Đông như: triết lý về đạo đức, triết lý về pháp luật, triết lý về con người, triết lý về xã hội…Tuy nhiên, cũng như các tác giả khác, Trịnh Doãn Chính chưa đề cập đến vấn đề sự phân biệt giữa triết học và triết lý, đồng thời chỉ đề cập đến những nội dung cơ bản trong triết lý phương Đông mà chủ yếu là Ấn Độ và Trung Quốc. Công trình “Triết lý trong văn hóa phương Đông” của tác giả Nguyễn Hùng Hậu, Nxb. Đại học sư phạm Hà Nội, 2002. Trong cuốn sách này tác giả đã đề cập đến những nội dung cơ bản của triết lý trong văn hóa phương Đông, trong đó nổi bật là một số quan điểm, nội dung, sự thống nhất giữa mục tiêu và động lực của nhân tố con người trong triết lý phát triển Hồ Chí Minh. Ở đây, tác giả đã sơ bộ trình bày một vài vấn đề triết lý trong văn hoá phương Đông - một trong những cái nôi văn minh của nhân loại - thể hiện ở ba nước: Ấn Độ, Trung Quốc và Việt Nam. Dĩ nhiên, phương Đông còn bao gồm nhiều nước khác nữa mà tác giả chưa có điều kiện nghiên cứu. Tuy vậy, qua nghiên cứu triết lý trong văn hoá ba nước trên cũng phần nào giúp chúng ta hiểu tính cách của người Việt Nam nói riêng và người phương Đông nói chung, từ đó ta có những chiến lược phát triển con người nói riêng và văn hoá nói chung một cách thích hợp, góp phần đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hoá đất nước, hướng nhanh đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh…. Tác giả Trịnh Doãn Chính còn có một công trình khác có liên quan đến vấn đề này là “Veda, Upanishad - những bộ kinh triết lý tôn giáo cổ Ấn Độ”, Nxb. Chính trị Quốc gia, 2006. Phần thứ nhất giới thiệu về kinh Veda; phần thứ hai giới thiệu về kinh Upanishad. Với mỗi bộ kinh, các tác giả đều giới thiệu khái quát về niên đại, nguồn gốc, kết cấu, nội dung cơ bản và sau đó là toàn bộ nội dung của kinh văn gốc được biên dịch, chú giải. Ngoài ra, trong cuốn sách còn có thêm phần từ vựng, giúp bạn đọc nắm một cách cơ bản một số từ, khái niệm cổ được sử dụng. Thông qua những bộ kinh này, người đọc sẽ có thêm nhiều hiểu biết sâu sắc về 8 nhân sinh quan, vũ trụ quan của người Ấn Độ cổ, cũng như cuộc sống hàng ngày, mong ước của họ, những giá trị chân lý mà họ hướng tới…Đồng thời, khi đọc cuốn sách này, bạn đọc sẽ thấy rằng, tư tưởng của chúng không chỉ có ý nghĩa triết học tôn giáo, ý nghĩa văn chương mà còn có ý nghĩa cả về luân lý, đạo đức; hơn thế, rộng lớn hơn là giá trị văn hóa của nó. Nó được coi là một trong những cội nguồn tư tưởng của nền văn minh Ấn Độ, là hệ tư tưởng truyền thống thống trị trong đời sống tinh thần xã hội Ấn Độ cổ, là cơ sở triết lý cho một trong những tôn giáo lớn của Ấn Độ. Có thể khẳng định, đây là một công trình lớn, có ý nghĩa thiết thực cho những người nghiên cứu về triết học, triết lý và triết học phương Đông. Mang trong mình ý nghĩa, giá trị to lớn cùng với sự ảnh hưởng sâu rộng của nền triết học Ấn Độ đến Việt Nam, cuốn sách là tài liệu hữu ích cho các nhà nghiên cứu trong việc tìm hiểu, nghiên cứu tư tưởng và tôn giáo cổ Ấn Độ từ sự tiếp cận trực tiếp với các kinh văn gốc. Tác giả Trương Văn Chung với “Bài giảng triết học phương Đông”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007. Nội dung chính của công trình này nêu những đặc điểm chung của Triết học phương Đông, triết học tâm linh siêu nghiệm, phương pháp tư duy trực cảm, tiên nghiệm, triết học chính trị đạo đức. Tất nhiên, trong công trình này tác giả cũng dành một phần để đề cập đến vấn đề triết lý trong triết học phương Đông nhưng vẫn còn mờ nhạt, không rõ ràng. Báo cáo tổng hợp kết quả nghiên cứu đề tài khoa học cấp Bộ năm 2008 của Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh với tiêu đề: “Triết lý phát triển Hồ Chí Minh- giá trị lý luận và thực tiễn”. Công trình lớn này bao gồm 2 chương: Chương 1, quan niệm về triết lý phát triển và nguồn gốc tư tưởng – lý luận hình thành triết lý phát triển Hồ Chí Minh; chương 2: Bản chất và nội dung triết lý phát triển Hồ Chí Minh; chương 3: Vận dụng và phát triển triết lý phát triển Hồ Chí Minh trong sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Nội dung chính của tác phẩm này đề cập đến nguồn gốc hình thành, nội dung của triết lý Hồ Chí Minh và đặc biệt là vấn đề vận dụng triết lý Hồ Chí Minh đối với sự nghiệp đổi mới ở nước ta hiện nay. Công trình là sự nghiên cứu nét độc đáo, sáng tạo, giá trị của triết lý phát triển Hồ Chí Minh cho phép chúng ta khám phá những nội dung đặc sắc nhất của tư tưởng Hồ Chí Minh với tư cách là hệ thống các quan điểm sâu sắc và toàn diện về cách 9 mạng Việt Nam. Triết lý phát triển chính là hạt nhân cốt lõi của phương pháp luận Hồ Chí Minh. Ở đây, các tác giả còn nêu bật, trên bình diện lý luận, sức sống, sức hấp dẫn lâu bền của tư tưởng Hồ Chí Minh; vai trò nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam trong hành động của triết lý phát triển Hồ Chí Minh đối với việc xác định, hoàn thiện triết lý phát triển Việt Nam hiện đại. Đồng thời chỉ ra những đóng góp lý luận của triết lý phát triển Hồ Chí Minh cho sự phát triển nhân loại với tư cách nhà văn hóa kiệt xuất. Nguyễn Gia Linh với tác phẩm “Triết lý nhân sinh cuộc đời”, Nxb. Lao động, 2009. Nội dung tác phẩm đề cập đến những vấn đề cơ bản trong quan niệm sống của con người như: nội tâm, tính cách, thân phận, tâm linh… Tác giả cho rằng: Cuộc sống của con người không phải do một thế lực siêu nhiên nào mà do chính bản thân mình tạo ra. Mỗi người đều phải thường xuyên đối mặt với các vấn đề của cuộc sống như: công việc, xã hội. Cách đối nhân xử thế, thái độ làm việc, mức độ cố gắng, cách tư duy và niềm tin... của chúng ta quyết định sự thành bại trong cuộc đời của chúng ta. Bất kể thế nào thì chúng ta đều muốn thành công và tìm cách tránh thất bại hoặc đi đường vòng. Triết lý nhân sinh của cuộc đời chính là cây đèn soi sáng để bạn đi đến lý tưởng, thành công. Bertrand Russell trả lời phỏng vấn với tên gọi “Triết lý là cái gì vậy?” đã có câu trả lời rất sâu sắc. Theo ông, triết lí là suy luận về những đầu đề chưa thể có một tri thức đích xác được. “Đại khái thì chúng ta có thể nói rằng khoa học là cái gì mình biết, mà triết lí là cái gì mình không biết. Định nghĩa đó đơn sơ; vì vậy mà chúng ta thường thấy những vấn đề triết lí chuyển qua khu vực khoa học. Triết lí có hai công dụng. Công dụng thứ nhất: duy trì sự suy tư về những môn mà chúng ta vẫn chưa thể sắp vào loại tri thức khoa học được; vì tri thức khoa học vẫn chủ bao gồm một phần rất nhỏ những vấn đề nhân loại chú điểm lợi ích vô cùng mà khoa học, ít nhất là lúc này, chưa bàn xét gì tới mấy; và nếu chúng ta không tưởng tượng gì khác ngoài những cái gì mình biết rồi thì tôi cho là đáng tiếc lắm. Tưởng tượng vũ trụ, đặt giả thuyết để mở rộng nó ra, đó có thể là một công dụng khác, theo tôi, quan trọng cũng không kém: là triết lí cho chúng ta thấy rằng có những điều chúng ta tưởng là biết rồi mà sự thật chưa biết. Một triết lí bắt chúng ta phải suy tư hoài về những cái chúng ta có thể biết được; mặt khác nó nhắc nhở chúng ta phải khiêm tốn, 10 nghĩ rằng cái mà chúng ta cho là biết rồi, là tri thức, sự thực chưa phải là tri thức” [5;10]. Có thể thấy những quan niệm sâu sắc về triết lý trong triết học, Bertrand Russell đã góp phần trả lời cho nhiều nhà nghiên cứu khi đặt ra vấn đề triết lý. Là cơ sở cho tác giả luận án khi tiếp cận các góc độ của triết lý để triển khai ở nội dung của chương 2. Từ những công trình nghiên cứu trên, có thể hiểu được sâu hơn về triết học. Có khá nhiều định nghĩa về triết học, nhưng định nghĩa nào cũng đều bao hàm những nội dung cơ bản sau: Triết học nghiên cứu toàn bộ vũ trụ và con người (hay thế giới, con người, xã hội và tư duy) trong hệ thống chỉnh thể toàn vẹn, giải thích tất cả các quan hệ trong và ngoài các chỉnh thể đó, chỉ ra những quy luật phổ biến nhất chi phối, quy định sự vận động của các chỉnh thể, tức là của vũ trụ, của xã hội loài người, của con người và của tư duy, tư tưởng và thể hiện toàn bộ sự hiểu biết đó dưới dạng các tri thức hệ thống về thế giới quan và nhân sinh quan. Tóm lại, theo nghiên cứu ở trên thì triết lý là những lý lẽ mang tính khái quát, nó là kết quả của sự suy nghĩ, chiêm nghiệm, đúc kết thành những quan diểm, luận điểm, phương châm cơ bản mang tính cốt lõi nhất về cuộc sống và hoạt đọng thực tiễn của con người. Chúng có vai trò định hướng cho con người trong cuộc sống cũng như hoạt động thực tiễn. Về mặt hình thức nó thường được thể hiện dưới dạng những mệnh đề, những câu châm ngôn ngắn gọn, súc tích bao chứa ý nghĩa sâu xa về nhân tình thế thái, về tự nhiên, xã hội và con người. Qua phân tích các công trình nói trên về vấn đề triết lý, theo tác giả luận ánhiện nay ở Việt Nam vẫn có những quan niệm không hoàn toàn giống nhau về triết lý, nhưng các ý kiến đều thống nhất ở chỗ: Thứ nhất, triết lý khác triết học. Triết học là hệ thống tri thức ở trình độ những vấn đề chung nhất, phổ biến nhất của sự vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy. Triết lý không phải là một hệ thốngvà cũng không nghiên cứu những vấn đề chung nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy như triết học, mặc dù triết lý có quan hệ với triết học, thậm chí đôi khi là phái sinh từ một triết học nào đó. Triết lý chỉ đề cập tới từng mặt, từng lĩnh vực hẹp của đời sống xã hội, nhất là trong các nội dung về nhân sinh. Thứ hai, từ những nguyên lý triết học cụ thể nhất định, người ta có thể rút ra 11 những triết lý về phương diện nào đó của cuộc sống. Thứ ba, triết lý có thể được nảy sinh trực tiếp trên cơ sở hoạt động thực tiễn của con người. Nghĩa là từ hoạt động kinh nghiệm thường ngày, con người có thể rút ra những triết lý sống, triết lý hành động cho bản thân và cộng đồng. Triết lý có ý nghĩa như là phương châm cho đối nhân, xử thế, cho hành vi của con người trong đời sống hàng ngày. Thứ tư, có nhiều loại triết lý khác nhau, phụ thuộc vào cách phân loại; chẳng hạn, triết lý phát triển, triết lý nhân sinh, triết lý kinh doanh,.v.v.. Ngoài ra, cũng có một vài quan niệm khác hơi đặc biệt về triết lý. Chẳng hạn, theo GS. Trần Văn Giàu, triết học chủ yếu là lý luận về nhận thức, nó đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải; còn triết lý chủ yếu hướng về đạo lý (chứ không phải bản thân đạo lý). Nó chủ yếu đặt vấn đề tốt hay xấu, nên hay không nên; chứ không đặt vấn đề đúng hay sai, phải hay không phải. GS.Vũ Khiêu thì cho rằng triết lý là triết học khiêm tốn nói về mình; nó không thể hiện tầm khái quát vũ trụ quan và nhân sinh quan mà nó thể hiện ý nghĩ và hành vi chỉ đạo cuộc sống con nguời. Kế thừa những kết quả nghiên cứu trên, dựa trên quan niệm được nhiều người tán thành nhất về khái niệm triết lý (nội dung, cách hiểu khái niệm triết lý) chúng tôi thấy rằng có thể hiểu triết lý là quan niệm định hướng nhận thức và hành vi (với tính cách là kết quả của sự ứng dụng những tri thức triết học, hay trực tiếp khái quát từ thực tiễn của hoạt động người), được thể hiện dưới dạng những luận điểm, những mệnh đề, những tư tưởng được coi là cốt lõi nhất về cuộc sống, về con người và về xã hội, được nhiều người thừa nhận và coi đó là nguyên tắc xử thế, phương châm sống và hành động. 1.1.2. Các công trình nghiên cứu về con người và đời sống con người Công trình nghiên cứu do Phạm Minh Hạc chủ biên với tên gọi “Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1996. Tác phẩm đã đề cập đến những vấn đề cơ bản về truyền thống, cơ sở hình thành cùng những nội dung cơ bản của truyền thống Việt Nam và phát huy vai trò của truyền thống trong nhân tố con người phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả cũng khái quát những phẩm chất tốt đẹp của con 12 người Việt Nam được hun đúc từ bao đời nay như: yêu nước, yêu lao động, nhân nghĩa, thủy chung, vị tha… Tuy nhiên, theo tác giả với xu thế toàn cầu hóa hiện nay đã và đang làm ảnh hưởng không nhỏ đến những giá trị truyền thống văn hóa dân tộc. Vấn đề đặt ra là phải làm thế nào để bên cạnh việc tiếp thu có chọn lọc những tinh hoa văn hóa nhân loại cần kế thừa và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp của con người Việt bao đời nay. Công trình “Quan điểm của triết học Mác- Lênin về con người với việc xây dựng con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Luận án Tiến sĩ triết học của tác giả Vũ Thiện Vương, bảo vệ tại Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2000. Tác giả đã phân tích một cách có hệ thống quan điểm của triết học Mác Lênin về con người; phân tích CNH - HĐH với những yêu cầu xây dựng con người Việt Nam trong giai đoạn hiện nay cũng như đề ra những phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu CNH - HĐH. Công trình “Tìm hiểu giá trị văn hóa truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2001. Công trình này do các tác giả: Nguyễn Trọng Chuẩn, Phạm Văn Đức và Hồ Sỹ Quý đồng chủ biên đã phản ánh rõ những nét cơ bản về giá trị và giá trị truyền thống được thể hiện trong mối quan hệ giữa văn hóa truyền thống với sự phát triển trong đó nhấn mạnh vị thế chủ thể của văn hóa nội sinh trong hội nhập, khai thác những yếu tố tích cực của Nho giáo Việt Nam phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tác giả Trần Văn Giàu với “Con người Việt Nam, một số vấn đề cần nghiên cứu” đăng trên Tạp chí Nghiên cứu con người, số 2/2002. Bài viết đã làm nổi bật ý nghĩa và tầm quan trọng của giá trị và tinh thần của con người, của dân tộc Việt Nam, từ đó đưa ra những vấn đề cần thiết trong nghiên cứu về con người Việt Nam. Mở đầu bài viết, tác giả đã nêu lên những suy nghĩ của mình khi đọc cuốn sách của Mắcnamara viết về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Mắcnamara đã phân tích các diễn biến của cuộc chiến và nhìn thẳng vào nguyên nhân khiến Mỹ thất bại trong cuộc chiến tranh tại Việt Nam. Trong số các nguyên nhân được chỉ ra, tác giả đặc biệt chú ý tới hai nguyên nhân. Mắcnamara cho rằng Mỹ đã thua vì Mỹ không thể hiểu nổi tại sao người Việt Nam lại đấu tranh cho lý tưởng của mình một 13 cách kiên cường như thế; không hiểu vì sao con người Việt Nam lại dũng cảm, bền bỉ, hy sinh để bảo vệ những giá trị của họ. Theo Mắcnamara, người Việt Nam có một loại văn minh, văn hóa khác với Mỹ mà Mỹ không hiểu được. Mỹ thua là thua “phần Việt Nam”, thua “chất Việt Nam” chứ không phải thua về mặt khoa học – kỹ thuật. Sự đúc kết và suy ngẫm của Mắcnamara khiến tác giả bài viết hiểu thêm tầm quan trọng của ý thức dân tộc của dân tộc Việt Nam bởi Mỹ đã thua tinh thần Việt Nam, tinh thần đấu tranh cho những giá trị của dân tộc. Công trình này cũng rất chú ý tới nghiên cứu của Hồ Chí Minh bởi từ rất sớm, Hồ Chí Minh đã hiểu được tầm quan trọng của ý thức dân tộc của dân tộc Việt Nam, sức mạnh của tinh thần dân tộc. Hồ Chí Minh đã đặt vấn đề dân tộc vào đúng tầm quan trọng và vị trí của nó, hiểu được quan hệ của cách mạng dân tộc với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, tư tưởng của Hồ Chí Minh rất quốc tế chủ nghĩa chứ không hề dân tộc hẹp hòi. Điều thú vị là theo Hồ Chí Minh, nếu nghiên cứu con người Việt Nam thì phải nghiên cứu xem con người Việt Nam có những đặc điểm gì, có những gì bí ẩn. Có thể thấy, theo Trần Văn Giàu thì bản lĩnh, phẩm chất, văn hóa của con người là vô cùng quan trọng đối với việc khai thác các giá trị của con người và của xã hội. Hồ Sĩ Quý với “Con người và phát triển con người”, Giáo trình Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Khoa Triết học, Nxb. Giáo dục, Hà Nội, 2007. Giáo trình trình bày một cách đầy đủ nhất những vấn đề cơ bản, có hệ thống về con người và phát triển con người như: Phương pháp luận nghiên cứu con người, định nghĩa, khái niệm về con người, sự phát riển con người, nguồn lực con người, nhân cách, tiềm năng, tài năng, cộng đồng và cá nhân… Bên cạnh đó giáo trình còn nêu lên những vấn đề cơ bản về con người Việt Nam, về vai trò nhân tố con người; chỉ ra những khả năng phát riển con người; xác định phương hướng, giải pháp xây dựng con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trong giai đoạn hiện nay. Ở cuốn sách này tác giả còn nêu khái quát về đời sống con người ở tầm triết học, theo tác giả con người là chủ nhân, chủ thể tích cực của mọi hoạt động trong xã hội, con người đã và đang làm chủ cuộc sống của chính mình và của xã hội…Theo chúng tôi nghĩ ở tầm triết lý cũng như vậy. Những tư tưởng ấy của tác giả cũng có ý nghĩa rất lớn về mặt triết lý và triết học. 14 Tác giả Nguyễn Đắc Hưng với cuốn sách “Việt Nam – Văn hóa và con người”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009. Ở đây, tác giả đi vào nghiên cứu về con người Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, về con người theo từng vùng lãnh thổ, về mối quan hệ, sự tác động qua lại lẫn nhau giữa con người và văn hóa, tầm quan trọng của văn hóa và con người đối với sự phát triển của quốc gia. Đồng thời, tác giả cũng nêu lên những mặt hạn chế của toàn cầu hóa ảnh hưởng tới văn hóa, nhân cách của con người Việt Nam hiện nay. Nguyễn Văn Dân với cuốn sách “Con người và văn hóa Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2011. Ở tác phẩm này tác giả đã trình bày một cách khái quát cơ sở lý luận về con người và văn hóa Việt Nam trong tình hình mới, nêu lên những nhân tố cơ bản tác động đến sự biến đổi của con người Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và đề xuất một số giải pháp phát huy mặt tích cực và hạn chế của con người Việt Nam trong thời đại mới. Tác giả viết: “Con người và văn hóa Việt Nam đang biến đổi theo hướng tốt đẹp. Tuy nhiên, cũng còn không ít điều phải làm để cho xu hướng biến đổi tốt đẹp đó được duy trì và phát huy. Muốn cho Việt Nam có được một hình ảnh và vị thế chủ động và tích cực trong hội nhập, chúng ta phải đứng từ góc độ của người tham gia để tiếp thu và hội nhập, phải xuất phát từ bên trong để hội nhập, chứ không thụ động đón nhận bất cứ thứ gì áp đặt từ bên ngoài” [15;240]. Theo chúng tôi, đây là những ý tưởng lớn, có ý nghĩa quan trọng về triết học. Bởi tác giả khẳng định, con người đang biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp, xuất phát từ bản chất tốt đẹp, cao quý của con người, sự biến đổi ấy dựa vào nội lực của con người. Đây là những luận điểm quan trọng để luận án kế thừa và phát triển ở nội dung chương 2, chương 3 của luận án. Lê Công Sự với “Con người qua lăng kính triết gia”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012. Tác phẩm đã trình bày một cách khái quát nhất quan niệm về con người trong triết học phương Đông, phương Tây mà cụ thể là triết lý về con người của Lão Tử, Khổng Tử, con người trong sự trăn trở của Trần Đức Thảo và quan niệm về con người trong triết học phương Tây hiện đại là “Xây dựng một cuộc sống ấm no hạnh phúc ở chốn trần gian”[97; 85] Theo tác giả, hạnh phúc không phải là hư ảo, mà nó gắn liền với đời sống con người, từ những sinh hoạt hàng ngày như: ăn, mặc, ở, đi lại… 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan