Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Giáo dục - Đào tạo Cao đẳng - Đại học Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh khánh hòa....

Tài liệu Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh khánh hòa.

.PDF
86
308
98

Mô tả:

VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TIẾN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ TỈNH KHÁNH HÒA LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC Hà Nội - Năm 2018 VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TIẾN TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ TỈNH KHÁNH HÒA Ngành: Triết học Mã số: 8229001 NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS. HỒ SĨ QUÝ Hà Nội - Năm 2018 LỜI CAM ĐOAN Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Tác giả Nguyễn Văn Tiến MỤC LỤC MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1 Chương 1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG ...............................................7 1.1. Một số vấn đề về Triết học và Triết lý, Triết lý nhân sinh .............................7 1.1.1. Những quan niệm cơ bản về Triết học và Triết lý ............................................7 1.1.2. Những quan niệm cơ bản về Triết lý nhân sinh và Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ .............................................................................................................. 10 1.2. Một số vấn đề lý luận về ca dao, tục ngữ ...................................................... 11 1.2.1. Vị trí và vai trò của ca dao tục ngữ trong đời sống tinh thần xã hội .............. 11 1.2.2. Khái niệm, nội dung và hình thức nghệ thuật của ca dao, tục ngữ. ............... 16 1.2.2.1. Ca dao.......................................................................................................... 16 1.2.2.2. Tục ngữ ....................................................................................................... 21 1.3. Một số vấn đề về ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa ...................................... 26 1.3.1. Vài nét về ca dao tục ngữ tỉnh Khánh Hòa .................................................... 26 1.3.2. Nguồn gốc, điều kiện tồn tại của ca dao tục ngữ tỉnh Khánh Hòa ................ 27 1.3.2.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Khánh Hòa ............................................................ 28 1.3.2.2. Điều kiện lịch sử - xã hội tỉnh Khánh Hòa ................................................. 28 Tiểu kết chương 1 ................................................................................................... 31 Chương 2. MỘT SỐ NỘI DUNG TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ TỈNH KHÁNH HÒA .......................................................................... 33 2.1. Ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa phản ánh đời sống kinh tế - xã hội của tỉnh Khánh Hòa ...................................................................................................... 34 2.1.1. Về quê hương đất nước .................................................................................. 34 2.1.2. Về tình cảm lứa đôi, hôn nhân, gia đình ........................................................ 39 2.1.3. Về lao động sản xuất và các vấn đề khác của đời sống xã hội ...................... 42 2.2. Triết lý về mối quan hệ giữa con người với giới tự nhiên ........................... 45 2.3. Triết lý về con người và các quan hệ xã hội.................................................. 49 2.4. Một số kết luận ban đầu qua việc tìm hiểu về triết lý nhân sinh của ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa ........................................................................................ 56 2.4.1. Những dấu hiệu của tư tưởng biện chứng trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa ........................................................................................................................... 56 2.4.2. Vấn đề kinh nghiệm trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa .......................... 60 Tiểu kết chương 2 ................................................................................................... 62 Chương 3: TÍCH CỰC, HẠN CHẾ VÀ GIẢI PHÁP GIỮ GÌN, PHÁT TRIỂN GIÁ TRỊ TRIẾT LÝ NHÂN SINH TRONG CA DAO, TỤC NGỮ TỈNH KHÁNH HÒA ......................................................................................................... 64 3.1. Những mặt tích cực và hạn chế của việc giữ gìn và phát triển giá trị triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa ............................................... 64 3.2. Giải pháp và kiến nghị .................................................................................... 70 3.2.1. Giải pháp ........................................................................................................ 70 3.2.2. Kiến nghị ........................................................................................................ 74 KẾT LUẬN ............................................................................................................. 77 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Lịch sử văn học là tấm gương phản chiếu của tâm hồn dân tộc. Đời sống tinh thần của các thế hệ con Lạc cháu Rồng qua hàng nghìn năm đã tạc vào văn học những dấu ấn khó phai mờ. Từ ngàn xưa, ông cha ta không chỉ để lại những kinh nghiệm trong đời sống và sản xuất mà còn cất lên những khúc ca của lòng mình để tạo nên kho tàng văn học dân gian đồ sộ và phong phú. Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam, ca dao, tục ngữ chiếm một vị trí quan trọng. Ca dao, tục ngữ là tiếng nói phản ánh đời sống tâm hồn, tình cảm của quần chúng nhân dân, phản ánh lịch sử xã hội, và do vậy, ca dao, tục ngữ là một kho tài liệu phong phú về phong tục, tập quán trong các lĩnh vực sinh hoạt vật chất và tinh thần của nhân dân lao động. Ca dao, tục ngữ Việt Nam chứa đựng nhiều yếu tố triết lý sâu sắc như: triết lý đạo đức, triết lý giáo dục và còn ẩn chứa trong đó những triết lý nhân sinh. Triết lý nhân sinh là sự đúc kết những kinh nghiệm của ông cha ta về tự nhiên, con người, xã hội. Những triết lý đó mang lại cho chúng ta sự hiểu biết sâu sắc về những quan niệm của ông cha ta về lẽ sống, về đạo làm người, về cách thức ứng xử của con người với tự nhiên và giữa con người với con người trong đời sống xã hội. Tuy nhiên, hiện nay vấn đề ca dao, tục ngữ của Việt nam nói chung và của tỉnh Khánh Hòa nói riêng vẫn chưa được tiến hành đầy đủ, đúng với những gì lẽ ra nó được tìm hiểu. Nếu có tiến hành thì đó cũng mới chỉ dừng lại ở những sự liệt kê theo chủ đề, mới chỉ bàn luận về mặt tích cực và tiêu cực, kinh nghiệm của ca dao, tục ngữ. Các công trình nghiên cứu về ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa chưa thực sự đi sâu vào vấn đề triết lý nhân sinh như là sự thể hiện tư duy của ông cha ta ngày trước về con người, về cách thức tác động của con người vào tự nhiên sao cho có hiệu quả, về mối quan hệ giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Tất cả những luận giải đó mặc dù được diễn giải bằng ngôn ngữ dân gian nhưng ẩn chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc, có giá trị to lớn trong công cuộc xây dựng đất nước trong giai đoạn hiện nay. 1 Vì những lí do như trên, tôi lựa chọn đề tài: “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa” làm đề tài luận văn tốt nghiệp của mình. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Đề tài mà tôi nghiên cứu tiếp cận là vấn đề có tính chất đặc thù ở một địa phương đó là tỉnh Khánh Hòa nên chưa được nghiên cứu nhiều, phần lớn các công trình nghiên cứu về ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa tập trung dưới góc độ văn học dân gian là chính. Một số công trình có nội dung chứa đựng nhiều ca dao, tục ngữ có liên quan đến đề tài: Trước hết, là những công trình nghiên cứu tổng quan về ca dao, tục ngữ Việt Nam: Công trình sưu tập ca dao, tục ngữ công phu nhất, có nội dung phong phú là bộ sách “Tục ngữ phong dao” của Nguyễn Văn Ngọc, xuất bản lần đầu vào năm 1928, tập 1 của bộ sách này giới thiệu khoảng 6500 câu tục ngữ của các vùng miền Bắc, Trung, Nam cho đến nay vẫn được coi là một trong những công trình sưu tập tục ngữ Việt Nam có quy mô lớn. Tuy vậy công trình này vẫn chỉ dừng lại ở việc sưu tầm thuần túy những câu ca dao, tục ngữ. Cuốn sách “Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam” của Vũ Ngọc Phan, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1998 là bản in lần thứ 11 có sửa chữa, bổ sung bản in đầu từ năm 1956 và các bản in sau đó. Ngoài phần sưu tập, tuyển chọn tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, tác giả còn có nhiều trang viết giới thiệu, bàn luận về: công việc sưu tập, nghiên cứu tục ngữ, ca dao Việt Nam từ xưa đến nay; đặt vấn đề tìm hiểu tục ngữ, ca dao của ta xuất hiện vào những thời kỳ nhất định nào không; ca dao lịch sử thực chất là gì; thế nào là tục ngữ, ca dao và dân ca; nội dung và hình thức của tục ngữ, ca dao; đất nước và con người qua tục ngữ, ca dao; ảnh hưởng qua lại giữa tục ngữ, ca dao và văn học thành văn…Tức là nhà văn, nhà nghiên cứu Vũ Ngọc Phan chỉ bàn luận tục ngữ, thơ ca Việt Nam dưới góc độ văn học, văn hóa, xã hội học…,chứ chưa tìm hiểu kho tàng sáng tác này từ giá trị, khía cạnh triết học. Bộ giáo trình “Văn học dân gian Việt Nam” của ba tác giả Đinh Gia Khánh (chủ biên), Chu Xuân Diên và Võ Quang Nhơn do Nhà xuất bản Giáo dục ấn hành 2 từ Hà Nội năm 1998. Đây là cuốn sách tái bản có bổ sung, điều chỉnh trên cơ sở hai tập giáo trình của các tác giả đã xuất bản từ những năm 1972 - 1977 và năm 1983. Các chương mục trong bộ giáo trình này viết về các hình thức sinh hoạt ca hát dân gian và vấn đề phân loại ca dao, dân ca Việt Nam, lịch sử và xã hội, đất nước và con người trong ca dao, dân ca Việt Nam, các thể loại trữ tình dân gian và những truyền thống nghệ thuật của ca dao, dân ca Việt Nam…đều nhằm mục đích phục vụ cho việc giảng dạy, học tập và nghiên cứu văn học. Ở đây do nhiệm vụ nghiên cứu đã xác định, nên không tiếp cận tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam dưới góc độ triết học. Công trình của Cao Huy Đỉnh mang tên “Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt Nam” được Nhà xuất bản Khoa học xã hội ấn hành từ Hà Nội năm 1974, cũng bàn nhiều về thơ ca dân gian Việt Nam. Ở đây, tác giả công trình có tiếng vang khá lớn này đã bàn về những chứng tích văn nghệ dân gian, nguồn sáng tác dân gian, sự phát triển của thơ ca trữ tình dân gian. Nhưng, như tựa đề của nó xác định, đây là cuốn sách chỉ nghiên cứu sự phát triển liên tục của văn học dân gian nước ta, chư không khai thác, phân tích, bình luận những giá trị, yếu tố triết học trong khối lượng tác phẩm đồ sộ đó. Cuốn sách “Tục ngữ ca dao Việt Nam” (2014) của tác giả Ngọc Hà đã sưu tập và tuyển chọn những câu ca dao, tục ngữ rất hay và ý nghĩa trong kho tàng ca dao, tục ngữ Việt Nam. Với cuốn sách này tác giả đã sắp xếp các câu ca dao, tục ngữ theo từng chủ đề giúp người có hướng tiếp cận và nghiên cứu dễ dàng. Đây là một tài liệu tham khảo rất hữu ích cho những người muốn đọc và tìm hiểu về ca dao, tục ngữ. Thứ hai, là những công trình nghiên cứu tổng quan về ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa: Đáng chú ý là công trình nghiên cứu của: Trần Việt Kỉnh, Nguyễn Chí Trang, Hà Nam Tiến (1982) “Thơ ca dân gian Phú Khánh” - công ty Văn hoá Phú Khánh. Thơ ca dân gian Phú Khánh là những sáng tác rất qúy báu của nhân dân lao động nó phản ánh một cách trung thực về mặt nhận thức tư tưởng và tình cảm của con người 3 bằng phương thức thẩm mỹ vô cùng trong sáng và tinh túy. Các tác giả đã trình bày những nội dung phản ánh của ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa và Phú Yên về tình yêu quê hương đất nước, ca dao, tục ngữ về tình cảm đôi lứa, ca dao, tục ngữ về quan hệ hôn nhân - gia đình. Cùng đề cập đến con người Khánh Hòa có các công trình: “Khánh Hoà diện mạo văn hoá một vùng đất”. Tạp chí Văn hoá Thông tin Khánh Hoà 1998. “Đất nước con người Khánh Hoà” của Trần Việt Kỉnh. Trung tâm Thông tin Cổ động Khánh Hoà xuất bản 1989. Hai công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập đến điều kiện tự nhiên của Khánh Hòa từ đó đi sâu vào đặc điểm văn hóa riêng biệt của người dân Khánh Hòa thông qua các lễ hội, phong tục tập quán của người dân Khánh Hòa. Hai công trình trên chưa đề cập đến tính triết lý trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa. Thứ ba, là những công trình tập trung khai thác về những yếu tố triết học, triết lý trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Tiêu biểu trong đó có những công trình sau: Trong cuốn “Những yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ Việt Nam” (1996), tác giả Võ Hoàng Khải đã làm sáng tỏ đồng thời hệ thống hóa các yếu tố duy vật và biện chứng trong ca dao, tục ngữ qua đó để thấy được bản chất tư duy của người lao động bình dân. Trong đó có thể thấy rõ một số nội dung duy vật và biện chứng đã được tác giả trình bày khá rõ ràng. Cao Thị Hoa (2011) “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế”. Tác giả đã trình bày những tư tưởng triết học được thể hiện trong ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế. Luận văn chủ yếu nhấn mạnh đến triết lý nhân sinh như: Tư tưởng triết học biểu hiện qua mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên và mối quan hệ giữa con người với xã hội. Tác giả cũng đã rút ra một số nhận xét ban đầu về ca dao, tục ngữ Thừa Thiên Huế. Lê Thị Hồng Nhung (2015) “Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam”. Tác giả đã trình bày bày được những nội dung triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam như: Quan niệm về đời người và ý nghĩa của cuộc đời con người, quan niệm về cách ứng xử của con người với tự nhiên, quan niệm về cách 4 ứng xử giữa con người với con người trong xã hội. Qua đó tác giả cũng đã đưa ra được những giá trị và hạn chế của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam. Như vậy, những công trình nghiên cứu được đề cập nói trên đã đi sâu và làm sáng tỏ những vấn đề về ca dao, tục ngữ của Việt Nam nói chung cũng như của tỉnh Khánh Hòa nói riêng. Trên cơ sở tiếp tục tiếp thu có chọn lọc các nguồn tài liệu có liên quan đến đề tài, tôi đi sâu nghiên cứu một khía cạnh cụ thể trong ca dao, tục ngữ đó là triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ ở tỉnh Khánh Hòa. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích Luận văn nghiên cứu, xác định và góp phần làm sáng tỏ triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa. Phân tích, đánh giá giá trị và ý nghĩa của những triết lý nhân sinh đó. Từ đó xây dựng và đề xuất một số giải pháp nhằm kế thừa, giữ gìn và phát huy giá trị của các triết lý nhân sinh trong đời sống tinh thần xã hội tỉnh Khánh Hòa hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ Để đạt được mục đích đã nêu trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ như sau: - Phân tích một số quan niệm lý luận về triết lý và triết lý nhân sinh. - Xác định những triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa. Phân tích và đánh giá giá trị của những triết lý nhân sinh đó. - Đề xuất các giải pháp nhằm phát huy giá trị của triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa trong giai đoạn hiện nay. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của luận văn là triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ. Phạm vi nghiên cứu của luận văn là kho tàng ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa. 5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu Cơ sở lý luận của luận văn là Chủ nghĩa Mác - Lênin; Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về tồn tại xã hội và ý thức xã hội, về văn hóa và đời sống con người… Cơ sở phương pháp luận của luận văn là Phép biện chứng duy vật. 5 Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu là quy nạp và diễn dịch, lôgic và lịch sử, phân tích và tổng hợp, thống kê, so sánh và đối chiếu… Luận văn còn chú ý khai thác, kế thừa những giá trị của các công trình nghiên cứu trước đó có liên quan đến đề tài. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn Đây là một công trình nghiên cứu có thể coi là mới về triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ ở một đia phương là tỉnh Khánh Hòa. Việc nghiên cứu sâu hơn, chi tiết hơn về ca dao, tục ngữ tỉnh Khánh Hòa và làm rõ những triết lý nhân sinh được của nó, hy vọng cũng có giá trị thực tiễn và lý luận nhất định. Luận văn có thể là tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy, học tập triết học văn hóa, văn học. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm có ba chương, chín tiết. 6 Chương 1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG 1.1. Một số vấn đề về Triết học và Triết lý, Triết lý nhân sinh 1.1.1. Những quan niệm cơ bản về Triết học và Triết lý Quan niệm về “Triết học” Triết học ra đời ở cả phương Đông và phương Tây gần như cùng một thời gian (khoảng từ thế kỷ VIII đến thế kỷ VI trước Công nguyên) tại một số trung tâm văn minh cổ đại của nhân loại như Trung Quốc, ấn Độ, Hy Lạp. Ở Trung Quốc, thuật ngữ triết học có gốc ngôn ngữ là chữ triết. Người Trung Quốc hiểu triết học không phải là sự miêu tả mà là sự truy tìm bản chất của đối tượng, triết học chính là trí tuệ, là sự hiểu biết sâu sắc của con người. Ở Ấn Độ, thuật ngữ dar'sana (triết học) có nghĩa là sự chiêm ngưỡng, nhưng mang hàm ý là tri thức dựa trên lý trí, là con đường suy ngẫm để dẫn dắt con người đi đến với lẽ phải. Ở phương Tây, thuật ngữ triết học xuất hiện ở Hy Lạp. Nếu chuyển từ tiếng Hy Lạp cổ sang tiếng Latinh thì triết học là Philosophia, có nghĩa là yêu mến sự thông thái. Với người Hy Lạp, philosophia vừa mang tính định hướng, vừa nhấn mạnh đến khát vọng kiếm tìm chân lý của con người. Như vậy, cho dù ở phương Đông hay phương Tây, ngay từ đầu, triết học đã là hoạt động tinh thần biểu hiện khả năng nhận thức, đánh giá của con người, nó tồn tại với tư cách như là một hình thái ý thức xã hội. Đã có rất nhiều cách định nghĩa khác nhau về triết học, nhưng đều bao hàm những nội dung cơ bản giống nhau: Triết học nghiên cứu thế giới với tư cách là một chỉnh thể, tìm ra những quy luật chung nhất chi phối sự vận động của chỉnh thể đó nói chung, của xã hội loài người, của con người trong cuộc sống cộng đồng nói riêng và thể hiện nó một cách có hệ thống dưới dạng duy lý. Tóm lại, có thể hiểu: Triết học là một hệ thống tri thức lý luận chung nhất của con người về thế giới, về vai trò, vị trí của con người trong thế giới ấy. Triết học ra 7 đời do hoạt động nhận thức của con người phục vụ nhu cầu sống. Song, với tư cách là hệ thống tri thức lý luận chung nhất, triết học chỉ có thể xuất hiện trong những điều kiện nhất định sau đây: Con người đã phải có một vốn hiểu biết nhất định và đạt đến khả năng rút ra được cái chung trong muôn vàn những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ. Xã hội đã phát triển đến thời kỳ hình thành tầng lớp lao động trí óc. Họ đã nghiên cứu, hệ thống hóa các quan điểm, quan niệm rời rạc lại thành học thuyết, thành lý luận và triết học ra đời. Tất cả những điều trên cho thấy: Triết học ra đời từ thực tiễn, do nhu cầu của thực tiễn; nó có nguồn gốc nhận thức và nguồn gốc xã hội. Quan niệm về “Triết lý” Theo Từ điển Tiếng Việt của Viện Khoa học - Xã hội - Nhân văn - Viện ngôn ngữ (Nxb Từ điển Bách khoa, 2007), triết lý được hiểu theo hai nghĩa: Khi “triết lý” là một danh từ thì nó được hiểu là ý niệm của nhân loại. Triết lý cũng như bao nhiêu giá trị khác, phải biến đổi theo hoàn cảnh xã hội, theo phương tiện sinh hoạt của con người. Khi “triết lý” là một động từ thì được hiểu là: tỏ ý niệm của riêng mình về việc gì đó. Văn hóa là cội nguồn nuôi dưỡng các triết lý, các tư tưởng và hệ thống triết học, là điều kiện tất yếu cho sự tồn tại và phát triển của các hệ thống triết học. Các triết lý, các hệ thống triết học là những bộ phận cốt lõi nhất trong nền văn hóa của một dân tộc. Xét trên nhiều khía cạnh, triết lý luôn ở tầm thấp hơn so với các hệ thống triết học, song nó cũng là chất liệu của các hệ thống triết học. Các triết lý xuất hiện, phát triển và hoạt động trong đời sống xã hội và cá nhân, mỗi yếu tố đều trực tiếp hoặc gián tiếp liên hệ với nhau. Trong các triết lý đã có thể hiện những quan niệm khác nhau về các yếu tố cơ bản và các mặt của hoạt động sống của con người: vị trí con người, các quan hệ xã hội, đời sống tinh thần và các giá trị của cuộc sống con người. Những quan niệm ấy ẩn chứa bên trong các nội dung, chương trình, phương thức hoạt động chung của xã hội và được cụ thể hóa bằng những quan niệm cụ thể hơn, định hướng cho những hoạt động của các cá nhân và cộng đồng. Ca dao, tục ngữ Việt Nam và triết học là hai lĩnh vực hoàn toàn khác nhau nhưng về phương 8 diện nào đó lại rất gần gũi với nhau. Ca dao, tục ngữ là sự đúc kết những kinh nghiệm của con người trong quá trình lao động, sản xuất, mang tính triết lý cao. Do đó, nhiều người còn gọi ca dao, tục ngữ Việt Nam là triết lý dân gian hay triết học của nhân dân lao động Việt Nam. Làm rõ mối quan hệ giữa triết lý và triết học, trong bài viết “Mấy suy nghĩ về Triết học và triết lý” của tác giả Hồ Sĩ Quý trên Tạp chí Triết học số 3/1998, tác giả cho rằng: “… dù quan niệm khác nhau đến mấy, trước hết chúng ta cũng phải thừa nhận rằng, nếu đã tồn tại với tính cách triết học thì đương nhiên triết học nào cũng trực tiếp hoặc kín đáo bộc lộ tính hệ thống của nó; tức là nó phải tồn tại ở trình độ một hệ thống, hoặc tiểu hệ thống những quan điểm, những quan niệm hoặc tư tưởng… có ý nghĩa phương pháp luận và thế giới quan (hoặc nhân sinh quan) và những vấn đề chung nhất của mọi tồn tại và của sự nhận thức cũng như đánh giá về mọi tồn tại đó. Như vậy, đụng đến triết học là đụng đến tính hệ thống của nó. Nói một cách khác, khi thuật ngữ triết học được sử dụng, tức là khi người ta buộc phải xem xét những tư tưởng, quan điểm… trong hệ thống nội tại của chúng. Không hoặc chưa thể được gọi là triết học nếu những tư tưởng, quan điểm, quan niệm… nào đó không (hoặc chưa) đạt tới trình độ tồn tại trong cấu trúc của một hệ thống xác định. Thông thường các tư tưởng, trường phái hoặc nền triết học điển hình bao giờ cũng đạt tới trình độ của những hệ thống chặt chẽ ở mức độ nhất định trong logic vốn có của chúng…Người ta khó có thể gọi một quan niệm dân gian, một thành ngữ hoặc tục ngữ cụ thể nào đó... là triết học được, dù rằng thành ngữ hoặc tục ngữ đó cũng chứa đựng những tư tưởng không kém phần sâu sắc về mặt nhân sinh quan hoặc về mặt phương pháp luận và thế giới quan” [37, tr. 56 - 57]. Như vậy theo Hồ Sĩ Quý những tư tưởng chứa đựng trong các thành ngữ, tục ngữ hoặc những khái quát đơn lẻ tương tự như vậy chỉ là những triết lý chứ không phải là triết học. Vậy, triết lý là gì? Ông viết: “Mặc dù ở nước ta có một số người dịch philosophy là triết lý nhưng trong tiếng Việt, chúng ta đều biết triết lý và triết học là các khái niệm khác nhau, dùng để biểu đạt, phản ánh những đối tượng khác nhau. Nếu như trong đời sống xã hội thuật ngữ triết học chỉ được sử dụng như một danh 9 từ và đôi khi được sử dụng như một tính từ, thì triết lý thường xuyên được sử dụng với cả ba tư cách danh từ, tính từ và động từ. Về đại thể, triết lý có thể và nên được hiểu là những tư tưởng, quan điểm hay quan niệm… mang tính khái quát cao; được phản ánh một cách cô đúc dưới dạng các mệnh đề hoặc các phán đoán thường là trau chuốt về mặt ngôn ngữ; và được sử dụng trong đời sống xã hội với tính cách là những định hướng cho hoạt động của con người về mặt thế giới quan, phương pháp luận hoặc nhân sinh quan” [37, tr. 57]. Theo ông, bàn luận về giá trị của triết lý nói chung, triết lý dân gian nói riêng, người ta dễ dàng nhận ra điểm hạn chế của triết lý trong so sánh với triết học: “Nếu có thể đem so sánh với triết học thì triết lý luôn ở trình độ thấp hơn về tính hệ thống, độ toàn vẹn và khả năng nhất quán trong việc giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa tồn tại và tư duy. Nói một cách khác, nếu không phải là tất cả thì cũng là trong đa số các trường hợp, triết lý thường thiếu chặt chẽ hơn, phiến diện hơn và có khả năng chứa đựng mâu thuẫn so với triết học” [37, tr. 57]. 1.1.2. Những quan niệm cơ bản về Triết lý nhân sinh và Triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Triết lý nhân sinh là quan niệm chung và sâu sắc nhất của con người về cuộc sống của con người. Triết lý nhân sinh được đúc kết từ thực tiễn nên thường có tính đúng đắn, phù hợp. Triết lý nhân sinh nhìn nhận con người là một hiện hữu, chấp nhận đời sống của con người là một thực tại sinh tồn. Triết lý nhân sinh tự vấn con người sống để làm gì? Đời sống con người có giá trị và có ý nghĩa gì? Đời sống có đáng sống hay không? Tự giải thoát ra khỏi cuộc đời hay dấn thân vào cuộc đời, đó là hai thái độ căn bản của con người trước đời sống. Khác với các loài vật khác trên địa cầu, mỗi một con người đều có quan niệm của mình về cuộc sống. Trong đời thường, đó là nhân sinh quan tự phát, các nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy nâng lên thành lý luận, tạo ra nhân sinh quan tự giác mang tính triết học. Nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội của con người, nội dung của nó biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hoài bão của con 10 người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể…Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ rõ hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua đó mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, nhiệm vụ của mỗi con người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín muồi, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, mang lại một xã hội thật sự tốt đẹp, tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hoàn thiện năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Triết lý nhân sinh có sức mạnh định hướng cho cách đối nhân xử thế, cho hành động hay lối sống của một cá nhân hay một cộng đồng. Chính vì vậy, hình thành những triết lý nhân sinh đúng đắn, phù hợp là mục tiêu hàng đầu của giáo dục ở mọi quốc gia. Tóm lại, khi nói đến triết lý nhân sinh là nói đến những quan niệm về sinh mệnh của con người, cuộc sống của con người trong xã hội, lẽ sống và mục đích của con người. Vì vậy, triết lý nhân sinh trong ca dao, tục ngữ Việt Nam chính là triết lý, là những kinh nghiệm ông cha ta đã đúc kết được về sinh mệnh con người, về cuộc sống của con người, mục đích và lẽ sống của con người trong xã hội và về những ứng xử của con người trong mối quan hệ với tự nhiên và xã hội. 1.2. Một số vấn đề lý luận về ca dao, tục ngữ 1.2.1. Vị trí và vai trò của ca dao tục ngữ trong đời sống tinh thần xã hội Ca dao, tục ngữ là một trong những thể loại văn học dân gian ra đời từ rất sớm. Ca dao, tục ngữ thể hiện sự phát triển trong đời sống tinh thần của con người. Trong đời sống của người Việt Nam, ca dao, tục ngữ giữ một vị trí và vai trò rất quan trọng, là một nét văn hoá truyền thống đậm đà bản sắc dân tộc. Ca dao, tục ngữ, chứa đựng đầy đủ nhân sinh quan và vũ trụ quan, được đúc rút từ thực tiễn lao động và kinh nghiệm của con người, có tác dụng định hướng cho việc hình thành nhân cách, hành động và suy nghĩ của con người Việt Nam. Ca dao, tục ngữ là sản phẩm văn hóa tinh thần cần thiết với mỗi dân tộc, con người. Ca dao, tục ngữ hướng đến đối tượng trung tâm là con người, khám phá, 11 phát hiện những vẻ đẹp trong cuộc sống con người. Với người bình dân, tình và nghĩa luôn quyện chặt làm nên đời sống tinh thần phong phú và sâu sắc. Trong khi thổ lộ tâm tình - gắn với cuộc sống lao động, sản xuất, sinh hoạt, đấu tranh xã hội và quan hệ tình cảm, ca dao, tục ngữ luôn hướng về con người - nhân dân. Ca dao, tục ngữ phản ánh đầy đủ và chân thật về hiện thực cuộc sống và thế giới tâm hồn của người bình dân. Cao dao, tục ngữ đúc kết những kinh nghiệm sống, những quan niệm về nhân cách, nhân đức của con người. Lấy nguồn cảm hứng từ thực tế cuộc sống, ca dao, tục ngữ được sáng tạo nên, đó là lời ăn, tiếng nói của ông cha ta tích lũy từ ngàn đời. Đó là những câu nói đúc kết từ những kinh nghiệm sản xuất răn dạy con cháu, bao hàm những nội dung mang ý nghĩa triết lý dạy bảo rất sâu sa. Trong ca dao, tục ngữ thì tiếng chào không chỉ nói lên phép lịch sự của con người Việt Nam mà tiếng chào còn là cái cớ để những đôi trai gái làm quen với nhau, đó là những lời chào bắt duyên trong văn học dân gian: “Gặp nhau ăn một miếng trầu Mai ra đường cái gặp nhau ta chào” Ca dao, tục ngữ với cái đích là phục vụ nhân sinh. Con người luôn có hoài bão vươn tới cái hay, cái đẹp, cái thanh tao của cuộc sống là chân, thiện, mỹ, mang tính nhân văn sâu sắc nói lên công nuôi dưỡng, sinh thành như trời bể của cha mẹ: “Công cha như núi Thái Sơn, Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra Một lòng thờ mẹ, kính cha Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con”. Những câu ca dao, tục ngữ trên không chỉ nói về công đức sinh thành, giáo dưỡng của cha mẹ mà còn khuyên nhủ, răn dạy mọi người phải ăn ở sao cho đúng đạo làm con. Âu đó cũng là triết lý, quan điểm sống của mỗi con người chúng ta. Hoặc đó cũng có thể là những câu nói khuyên răn về quan hệ giữa anh em, bạn bè. “Anh em như chân, như tay Như chim liền cánh, như cây liền cành” 12 Hoặc là những câu ngợi ca tình yêu lao động, trân trọng những giá trị của sự lao động: “Ai ơi bưng bát cơm đầy Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần” Ca dao, tục ngữ gắn với quan niệm về con người của người bình dân, thể hiện ý thức và tình cảm của người bình dân, gắn với một quan niệm khoẻ khoắn, lành mạnh, trong sáng của chính người lao động, thể hiện triết lý coi trọng tình nghĩa hơn của cải. Là quá trình tự nhận thức bản thân của người bình dân trong hoàn cảnh cuộc sống vất vả, chịu đựng nhiều nỗi bất bình, tủi nhục, đắng cay vẫn giữ được bản chất tốt đẹp, tình nghĩa đậm đà. Ca dao, tục ngữ thể hiện tinh thần đoàn kết, gắn bó, thể hện sức mạnh tập thể. Trước hết, người xưa hiểu rằng gia đình là cái nôi, là đơn vị nhỏ nhất mà họ phải thương yêu gắn bó: “Anh em như thể tay chân Rách lành đùm bọc dở hay đỡ đần”, Họ cũng hiểu rằng: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Cách nói phóng đại ấy là sự thể hiện cô đọng, súc tích nhất, hình ảnh nhất của mối quan hệ gia đình. Điều kỳ diệu để họ vượt qua khó khăn gian khổ là cơ sở tiến tới tình cảm gắn bó, hợp quần với xóm làng, là cơ sở của sức mạnh “tát bể Đông” dời non lấp biển mà con người có thể làm được một khi có tinh thần đoàn kết. Người xưa sớm ý thức được rằng: “Một cây làm chẳng nên non Ba cây chụm lại nên hòn núi cao” Ca dao, tục ngữ giáo dục đạo lý làm người. Vẻ đẹp con người trong các quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội: nền tảng xã hội là bất công, những xung đột giữa các giai cấp đối kháng - kẻ thống trị và người bị trị. Vì vậy, ca dao, tục ngữ là sự dồn nén của tinh thần đấu tranh, sức phản kháng mạnh mẽ của người bình dân. Sức sống con người bộc lộ ở nét cứng cỏi trong nhân cách, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn tìm cách vượt lên những áp lực, định kiến xã hội, chiến thắng số phận, 13 tin tưởng tương lai và đứng về phía lẽ phải. Chất nhân văn bộc lộ rõ nhất trong lao động sản xuất và đấu tranh xã hội: cần cù, bền bỉ, nhẫn nại, luôn ý thức rõ giá trị của chính mình. Đó là tầm vóc vĩ đại của nhửng con người bình thường. Không những thế, vẻ đẹp nhân văn còn bộc lộ trong những quan hệ riêng tư, gắn kết con người với con người, đi sâu vào đời sống tình cảm của con nguời. Vẻ đẹp ấy hiện lên đằm thắm, nồng hậu, trọn vẹn cả hai mặt nghĩa và tình. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài, quan niệm đạo lý thủy chung được đề cao trong những mối quan hệ gia đình, tình làng nghĩa xóm… giữa những người cùng chung cảnh ngộ. Sự tồn tại của ca dao, tục ngữ trong đời sống sinh hoạt hằng ngày còn thể hiện ở những hoạt động giáo dục tư tưởng, tình cảm, lối sống, đạo đức. Trong đời sống hằng ngày vẫn dễ dàng bắt gặp việc sử dụng ca dao, tục ngữ trong lời nói để răn dạy những bài học trong cuộc sống. Cha mẹ răn dạy con cái, người lớn tuổi răn dạy người nhỏ tuổi, hoặc là nhắc nhở chính bản thân mình, những quá trình ấy đều có thể sử dụng ca dao để tác động vào tư tưởng, tình cảm của người nghe. Bên cạnh đó, ca dao, tục ngữ còn chất chứa những bài học sâu sắc về cuộc sống, về các mối quan hệ xã hội. Ca dao dạy ta lòng kiên trì, nhẫn nại, khắc phục khó khăn: “Chớ than phận khó ai ơi Còn da lông mọc còn trồi nảy cây”. Dạy con người về đức tính khiêm tốn, nhẫn nhịn: “Tới đây lạ xứ quê người Trăm bề nhẫn nhịn đừng cười tôi quê” Tất cả những bài học đó, những tư tưởng tình cảm đó, trong cuộc sống hôm nay vẫn luôn là những bài học sâu sắc, đáng giá. Điều đó chứng tỏ vai trò cũng như tầm quan trọng của sự tồn tại của ca dao, tục ngữ trong lời ăn tiếng nói, trong công việc giáo dục tư tưởng, tình cảm, đạo đức, lối sông hằng ngày. Có thể nói, ca dao, tục ngữ góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện nhân cách con người, rèn luyện, bồi đắp những tư tưởng đẹp, tình cảm đẹp. 14 Ca dao, tục ngữ nuôi dưỡng tình yêu quê hương, đất nước. Trong mỗi chúng ta ai cũng có một miền quê, quê hương là cánh đồng lúa thơm ngát, luỹ tre xanh trải dài dọc bờ đê, là những hình ảnh thân thương nhất đối với cuộc sống mỗi con người. Hai tiếng quê hương nghe gần gũi và thân thương, đó là nơi chôn nhau cắt rốn, nơi đã nuôi dưỡng ta trưởng thành. Tiếp đến là vẻ đẹp con người trong các quan hệ cộng đồng, quan hệ xã hội: nền tảng xã hội là bất công, những xung đột giữa các giai cấp đối kháng - kẻ thống trị và người bị trị. Vì vậy, ca dao, tục ngữ đã thể hiện được ý chí kiên cường, sức phản kháng mạnh mẽ của người bình dân. Sức sống con người bộc lộ ở nét cứng cỏi trong nhân cách, không chịu khuất phục trước hoàn cảnh, luôn tìm cách vượt lên những áp lực, định kiến xã hội, chiến thắng số phận, tin tưởng tương lai và đứng về phía lẽ phải. Chất nhân văn bộc lộ rõ nhất trong lao động sản xuất và đấu tranh xã hội: cần cù, bền bỉ, nhẫn nại, luôn ý thức rõ giá trị của chính mình. Đó là tầm vóc vĩ đại của nhửng con người bình thường. Không những thế, vẻ đẹp nhân văn còn bộc lộ trong những quan hệ riêng tư, gắn kết con người với con người, đi sâu vào đời sống tình cảm của con nguời. Vẻ đẹp ấy hiện lên đằm thắm, nồng hậu, trọn vẹn cả hai mặt nghĩa và tình. Tinh thần trọng nghĩa khinh tài, quan niệm đạo lý thủy chung được đề cao trong những mối quan hệ gia đình, tình làng nghĩa xóm… giữa những người cùng chung cảnh ngộ. Ca dao, tục ngữ là nguồn cảm xúc vô tận và lai láng của người Việt trong cuộc sống và cả trong sáng tác. Ca dao, tục ngữ đã thể hiện được cái đẹp của hồn quê, của tình người. Tự nhiên như không, ca dao thành câu hát ru, thành khúc dân ca. Ca dao ru con trẻ vào giấc ngủ “Con cò bay lả bay la”. Ca dao tình tự gái trai nên vợ nên chồng thuận hòa “tát bể đông cũng cạn”. Ca dao, tục ngữ chuyển tải mọi cung bậc, cảm xúc, sắc thái tâm hồn con người Việt như nềm vui, nỗi buồn, sự yêu thương, hờn giận, tiếng cười lạc quan yêu đời, vượt qua cảnh nhèo mà trào lộng đầy hồn nhiên, hóm hỉnh. 15
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan