MỤC LỤC
MỞ ĐẦU...................................................................................................................2
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ HENRYK SIENKIEWICZ VÀ TÁC
PHẨM TRÊN SA NẠC VÀ TRONG RỪNG THẲM..............................................3
1.1 Vài nét về tác giả Henryk Sienkiewicz............................................................3
1.2 Tác phẩm Trên sa mạc và trong rừng thẳm......................................................4
CHƯƠNG 2 TÁC PHẨM TRÊN SA MẠC VÀ TRONG RỪNG THẲM DƯỚI
GÓC NHÌN NỘI DUNG...........................................................................................6
2.1 Khát vọng khám phá những vùng đất mới.......................................................6
2.2 Vẻ đẹp niềm tin tôn giáo..................................................................................8
2.3 Biểu hiện tình thương.....................................................................................10
2.4 Khát vọng tự do và chiến thắng mọi hiểm nguy............................................17
CHƯƠNG 3 TÁC PHẨM TRÊN SA MẠC VÀ TRONG RỪNG THẲM DƯỚI
GÓC NHÌN NGHỆ THUẬT...................................................................................24
3.1 Nghệ thuật xây dựng cốt truyện.....................................................................24
3.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật........................................................................28
KẾT LUẬN.............................................................................................................31
MỞ ĐẦU
Khát vọng sống cao đẹp cùng những hành trình khám phá thế giới mới luôn là
những đề tài hấp dẫn được nhiều nhà văn thể hiện. Song có lẽ thành công với thể
loại tiểu thuyết dành cho thiếu nhi phải kể đến tác phẩm “Trên sa mạc và trong
rừng thẳm” của nhà văn Ba Lan Henryk Sienkiewicz.
Đọc tác phẩm người đọc sẽ có cơ hội được bước vào không gian khám phá, phiêu
lưu trên vùng đất châu Phi. Với ngòi bút đầy hấp dẫn, nhà văn Henryk Sienkiewicz
đã thành công trong việc miêu tả một bức tranh sống động với những miền đất
mới, những không gian thiên nhiên kì thú khác nhau. Không chỉ vậy, nhà văn
người Ba Lan còn gửi gắm vào trang sách của mình một thứ tình cảm thật ấm áp và
tràn đầy hi vọng. Tuy chỉ là tiểu thuyết cho trẻ em với đề tài khá quen thuộc song
nhà văn đã thể hiện thành công một diện mạo mới của tinh thần phiêu lưu, của trí
tuệ thiếu nhi và những tình cảm tốt đẹp ở các em. Đi sâu vào việc phân tích tác
phẩm sẽ giúp người đọc thấy được bức tranh sống động của thiên nhiên hoang dã
châu Phi, những cuộc chiến tranh của tín đồ Hồi giáo và khả năng bất diệt của ý
chí con người vươn tới thực hiện những kì tích phi thường.
CHƯƠNG 1: VÀI NÉT VỀ TÁC GIẢ HENRYK SIENKIEWICZ VÀ TÁC
PHẨM TRÊN SA NẠC VÀ TRONG RỪNG THẲM
1.1 Vài nét về tác giả Henryk Sienkiewicz
Henryk Sienkiewicz sinh ra trong một gia đình quý tộc giàu lòng yêu nước. Đến
tuổi đi học, do ảnh hưởng của các biến động trong nền kinh tế, gia đình chuyển về
Warszawa. Học xong trung học, năm 1870 ông vào học Đại học Warszawa, lúc đầu
học luật và y khoa, sau chuyển sang văn và sử. H. Sienkiewicz là cộng tác viên
thường xuyên của các báo Przegląd Tygodniowy, Gazeta Polska, Niwa, Słowo và
bắt đầu gây được sự chú ý với tiểu thuyết Namarne (Phí hoài, 1871), các truyện
ngắn Stary sługa (Người đầy tớ già, 1875), Hania (1876), đồng thời ông cũng trở
thành một nhà báo được thừa nhận tài năng. Năm 1876, tờ Gazeta Polska cấp tiền
cho Sienkiewicz đi Mỹ với điều kiện đổi lại là ông phải viết một loạt bài về Hoa
Kỳ. Các truyện Người gác đèn biển (Latarnik), Ở xứ vàng (W krainie
złota), Những nhầm lẫn khôi hài (Komedia z pomyłek)… ông viết trong thời kỳ
này. Từ 1878 ông trở về châu Âu, đi nhiều nước, viết báo, viết văn và diễn thuyết.
Năm 1888 ông in tiểu thuyết Ta trzecia (Nàng thứ ba). Năm 1879, Sienkiewicz trở
thành chủ bút một tờ nhật báo mới ở Ba Lan. Ba lần lấy vợ; vợ đầu có hai con
nhưng chết sớm. Sau khi về Ba Lan, Sienkiewicz bắt đầu sáng tác những tác phẩm
dài hơi và nổi tiếng với bộ ba tiểu thuyết Potop (Trận hồng thủy – 1884 1886), Pan Wołodyjowski (Ngài Wolodyjowski – 1887 - 1888), Ogniem i
mieczem(Bằng lửa và gươm – 1883 - 1884) - viết về các sự kiện diễn ra hồi thế kỉ
17, trong thời gian chiến tranh giữa người Ba Lan với người Kozak, người Thụy
Điển và người Thổ Nhĩ Kỳ. Trong các năm 1897 – 1899 ông viết tiểu
thuyết Krzyżacy (Hiệp sĩ Thập tự)… Sau đó Sienkiewicz viết hai tiểu thuyết về
cuộc sống hiện đại là Bez dogmatu (Không có giáo điều) và Rodzina
Połanieckich (Gia đình Polanieckich), còn vào những năm 1895-1896 ông viết
tiểu thuyết Quo vadis kể về các cuộc khủng bố tàn bạo tín đồ thiên chúa giáo thời
Nêrô bạo chúa cổ La Mã, và với thiên tiểu thuyết nổi tiếng này năm 1905 ông đã
được tặng Giải thưởng Nobel văn học. H. Sienkiewicz cũng rất thành công trong
lĩnh vực viết truyện cho thanh thiếu niên mà cuốn Trên sa mạc và trong rừng
thẳm là đỉnh cao của thành công này. Trong sự nghiệp văn chương của H.
Sienkiewicz, thành công lớn nhất và cũng là đóng góp lớn nhất đối với nền văn học
Ba Lan và thế giới là các tiểu thuyết lịch sử, trong đó ông đề cao lòng nghĩa hiệp,
tinh thần hy sinh vì độc lập tự do, giữ gìn giá trị và bản sắc dân tộc. Thông qua các
tác phẩm văn học, báo chí và hoạt động xã hội của mình, H. Sienkiewicz đã thức
tỉnh ý thức và lòng tự hào dân tộc, giáo dục tình yêu Tổ quốc.
Cho tới nay Henryk Sienkiewicz là nhà văn vô địch Ba Lan về số lần cũng như số
lượng sách được tái bản ở trong và ngoài nước. Các tác phẩm của ông đã được dịch
ra trên 50 thứ tiếng khác nhau trên thế giới. Chỉ riêng trong thời gian từ năm 1945
đến 1961 các tác phẩm của H. Sienkiewicz đã 313 lần được dịch ra các thứ tiếng
nước ngoài, nhiều tác phẩm được đưa lên sân khấu và màn ảnh, đưa vào giảng dạy
trong nhà trường, là đối tượng của nhiều công trình nghiên cứu. Năm 1913 lần đầu
tiên Quo vadis được dựng thành phim ở Italia và từ đó đến nay đã trên chục lần bộ
tiểu thuyết này được chuyển thể, đưa lên màn ảnh. Đầu năm 1999 ngành điện ảnh
Ba lan đã hoàn thành bộ phim Bằng lửa và gươm, dựa trên bộ tiểu thuyết cùng tên
của ông. Đây là bộ phim hoành tráng, công phu và tốn kém nhất trong lịch sử điện
ảnh Ba Lan cho đến thời điểm đó. Như vậy, tiểu thuyết lịch sử bộ ba của H.
Sienkiewicz, gồm : Bằng lửa và gươm, Trận hồng thủy, và Ngài Wołodyjowski, đã
được đưa lên mà ảnh, trọn bộ cả ba quyển.
Khi chiến tranh Thế giới lần thứ nhất nổ ra, H. Sienkiewicz rời quê sang sống ở
nước Thụy Sĩ trung lập, làm việc trong tổ chức Hồng thập tự Ba Lan. Henryk
Sienkiewicz qua đời ngày 15 tháng 11 năm 1916 tại Vevey, Thụy Sĩ. Năm 1924 thi
hài ông đã được đưa về lưu giữ tại nhà thờ Thánh Jan ở thủ đô Warszawa.
1.2 Tác phẩm Trên sa mạc và trong rừng thẳm
Tác phẩm Trên sa mạc và trong rừng thẳm kể về câu chuyện của cậu bé Xtas và cô
bé Nen. Chuyện bắt đầu khi các em bị lừa bắt cóc đến chỗ Ma-hơ-đi chiếm đóng
nhằm làm con tin để trao đổi mụ Phát-ma. Tuy nhiên, khi đến diện kiến Ma-hơ-đi,
Stax đã tỏ vẻ chống đối nên bị Ma-hơ –đi gửi đến Pha-sô-đa. Trên chuyến đi đến
Pha-sô-đa cùng gã I-ddrix và Ghe-bơ-rơ, Xtas và Nen đã vượt qua ba khó khăn,
gian khổ. Vì căm ghét trước sự áp bức ác độc của những kẻ tháp tùng nên Xtas đã
bắn chết bọn chúng và tiếp tục lên đường cùng Cali và Mê-a. Trên chuyến bị sốt
hành trình đầy gian khổ và khó khăn thì nhờ sự tài giỏi và gan dạ cảu Stax đã dũng
cảm vượt qua để tiếp tục vượt qua các hoang mạc, rừng thẳm. Đến lúc hết thuốc kí
sinh và Nen bị sốt rét thì Stax đã gặp được ông Lin-đe. Nhờ ông mà Nen đã khỏi
bệnh và mạnh khỏe để tiếp tục lên đường. Ông Lin-đe đã cho Xtas những vật dụng
mà ông mang theo trên chuyến thám hiểm của mình trước khi ông qua đời. Chính
vì vậy mà Xtas có đủ thuốc và đạn để cứu con voi King và tiếp tục chuyến hành
trình của mình. Vượt qua bao nhiêu đoạn đường dài trên sa mạc và rừng thẳm với
khó khăn , nguy hiểm. Tới khi đến sa mạc thì cả đoàn không còn giọt nước để uống
vì bị hai tên nô lệ rạch túi nước để trả thù. Tưởng chừng như sẽ chết nhưng cuối
cùng Stax đã gặp được đại úy Glen và bác sĩ Cle-ry và học đã được cứu sống. Sau
đó, nhờ sự giúp đỡ của đại úy Glen và bác sĩ Cle-ry nên Xtas và Nen đã được đoàn
tụ với hai người cha thân yêu của mình. Như lời người dịch cũng đã nói: “Và trong
suốt gần một thế kỷ qua, nhiều thanh niên đã ngưỡng mộ và học tập Xtas, yêu mến
và tri kỷ với Nen, vui cười với sự láu lỉnh của Cali. Tác phẩm đã gợi lên khát vọng
sống cao đẹp, khát vọng đi tới những chân trời xa, khát vọng thực hiện những kỳ
tích phi thường, vượt mọi hiểm nguy, chiến thắng mọi bất công tàn ác”
CHƯƠNG 2 TÁC PHẨM TRÊN SA MẠC VÀ TRONG RỪNG THẲM
DƯỚI GÓC NHÌN NỘI DUNG
2.1 Khát vọng khám phá những vùng đất mới
Mở đầu tiểu thuyết “Trên sa mạc và trong rừng thẳm”, Xtas và Nen xuất hiện với
một tâm hồn thích thú phiêu lưu và mạo hiểm. Chuyến hành trình khám phá của
Xtas và Nen bắt đầu với chuyến tàu hỏa đi từ Idơmaila tới Cairo và sau dừng ở
Mêđinét để gặp hai người cha thân yêu của mình.Từ cửa sổ toa tàu, bọn trẻ đã có
thể nhìn thấy phong cảnh thiên nhiên mới lạ và “những con lạc đà thồ nặng hàng đi
thành một dãy dài, con nọ nối con kia, đi trên con đường cát”. Với kiến thức địa lý
của cậu thiếu niên “vừa hết tuổi mười bốn”, hành trình đến với “xứ sở hoa hồng”
Mêđinét trở nên thú vị hơn hẳn. Xtas đã kịp giới thiệu cho Nen những địa điểm mà
bọn trẻ nhìn thấy như hồ Timxa, thung lũng Vadi Tumilat, hay con đường trải dài
phía bắc đi qua một sa mạc mênh mông nơi tồn tại của đất nước Gôsen cổ xưa.
Đến Mêđinét, Xtas và Nen có cơ hội được khám phá một khí hậu đặc biệt với mùa
đông dễ chịu, và từ tháng mười một trở đi lại chính là mùa cây cối phát triển nhanh
nhất. Những thứ thực vật phương nam lạ lẫm tạo nên một rừng cây bạc ngàn bao
trùm lên các ốc đảo xinh đẹp. Vào những ngày tiếp theo sau lễ Giáng sinh, Nen và
Xtas đã được cha cho đi tham quan các di tích của thành phố cổ đại
Crôcôđilôpôlix, kim tự tháp Hanarơ, các mê cung và chuyến đi dài nhất là đến hồ
Carôun bằng lạc đà. Hành trình tham quan và khám phá vùng đất Mêđinét có lẽ là
chuyến hành trình đẹp đẽ nhất của Xtas và Nen khi được gắn bó với những người
thân yêu của mình. Chuyến hành trình này đã đem đến cho Nen và Xtas những tươi
đẹp trong tâm hồn và những không gian mới lạ hấp dẫn.
Một chuyến hành trình gian truân và đầy nguy hiểm đang chờ đợi cả Xtas và Nen
khi cả hai bị rơi vào tay của bọn bắt cóc Khamix và hai gã người Xuđan là Idrix và
Ghebơrơ. Xtas và Nen trở thành hai món hàng trao đổi đầy giá trị để cứu lấy bà
Phátma và những đứa con của mụ đang bị giam cầm ở Port Xaiđơ.
Trong chuyến đi đến Kháctum, thành Omđuman. Với mong muốn sẽ nhận được
phần ban thưởng hậu hĩnh từ việc đem được hai tín vật trao đổi quan trọng là Xtas
và Nen đến với ngài Xmainơ, bọn người Xuđan đã bắt hai đứa trẻ vật vã với một
chuyến đi đầy mệt nhọc. Để tăng tốc đến với thành Kháctum, Iđrix đã thúc cho
đoàn lạc đà chạy nhanh hơn khiến cho cả Nen, Xtas và bà Đina bị sốc. Hành trình
đó vô tình đưa bọn trẻ đến với những vùng đất lạ mà Xtas chỉ mới có dịp đọc qua
trong sách địa lý. Trên sa mạc, có lúc đoàn người trông thấy những ảo ảnh về đêm.
Nơi vùng cát bằng phẳng trải rộng mênh mông xuất hiện những trận gió lốc kinh
khủng đã quật ngã lũ lạc đà, những tiếng sấm điếc tai dữ dằn như một cơn thịnh nộ,
và cuối cùng là một cơn mưa như trút nước. Tất cả như tạo nên một không gian
đầy xáo động với những tiếng thở dài thườn thượt, những nỗi niềm lo lắng “em
đang sợ - sợ những con người ấy, sợ sa mạc, sợ những gì mà em và Nen có thể sẽ
phải gặp”. Ảo ảnh ở sa mạc là một thứ đáng sợ, nhất là đối với những tâm hồn
đang khao khát tự do, mong muốn trở về với mảnh đất thân yêu. Một vùng đất mới
xuất hiện sau chuyến đi mười tám giờ liền mà cả Xtas và Nen đều nghĩ đó là
Mêđinét. “Những khóm cọ thanh tao cùng những cây hồ tiêu, những cánh đồng
quýt, những ngôi nhà màu trắng và một thánh đường nhỏ với cái tháp cao vút”, tất
cả như dựng lên một bức tranh về Mêđinét sống động và rõ nét hơn bao giờ hết.
Không gian đánh lừa thị giác này đã khiến cho hai đứa trẻ sung sướng trong chốc
lát nhưng rồi lại hụt hẫng tột cùng. Trước khi đến với Kháctum cả đoàn đã vượt
qua Vađi Hanpha, đồi núi Ghêdire và tiến vào vùng đất không còn giống gì với sa
mạc. Ở đây, họ đã được nhìn thấy một thảo nguyên mênh mông, khám phá loài
thực vật nổi tiếng của xứ Xuđan và thấm cái lạnh thấu xương của mảnh đất này.
Kháctum mang đến một không gian chết chóc và đau khổ bởi bệnh tật. Những xác
khô chồng chéo, những căn lều bệnh tật và những người sống vật vờ vì đói càng
thể hiện rõ nét sự thê lương và đau khổ bởi các cuộc chiến. Vượt dòng sông đến
với thành Omđuman, thoát khỏi không khí ô uế của vùng đất xác khô Kháctum,
đoàn người đến với dinh cơ của Manđơhi. Không khí ở Omđuman khác hẳn so với
Kháctum, nơi đây được miêu tả với những ngôi nhà được xây nhiều tầng, quảng
trường muđira rộng lớn, có cả nhà thờ, bệnh viện, kho quân giới, những trại lính
lớn, các khu vườn lớn và nhỏ với đủ mọi loại cây cỏ tuyệt vời của vùng nhiệt đới.
Omđuman có lẽ là thành phố duy nhất tạo nên ấn tượng cho Xtas về sự hùng mạnh
của quân đội Manđơhi. Ở thành Omđuman để có được thức ăn cho Nen, Xtas đã
phải đi ăn xin và đi làm thuê. Với những món hàng giá cao do sự thiếu thốn lương
thực sau cuộc chiến tranh, cuộc sống của những người nghèo nơi đây đang dần lụi
tàn đi. Cùng sự giúp đỡ của ông Hatim, hai đứa trẻ Xtas và Nen đã nhận được sự
ủy quyền bảo toàn sinh mạng cho đến khi được diện kiến Xamainơ. Xtas và Nen
đã trải qua chuỗi ngày liên tiếp trên sa mạc, nơi mà các em phải sống với một môi
trường khắc nghiệt và tàn khốc.
Phasôđa là vùng đất của chết chóc bởi căn bệnh sốt rét, bệnh đậu màu và cái đói.
Để trừng phạt Xtas, Manđơhi đã buộc đoàn người đưa hai đứa trẻ đến Phasôđa để
giao cho Xmainơ. Hành trình này gắn liền với con đường Xtas giành lại tự do cho
chính mình, Nen, Ca-li và Mê-a. Xtas đã giết chết Ghebơrơ, Khamix, bọn Bêđuin
và sư tử bằng khẩu súng trong tay. Từ đây là hành trình do chính Xtas chỉ huy cùng
với người bạn đồng hành là Nen, chú chó Xaba và Ca-li, Mê-a. Chuyến hành trình
sau khi rời khỏi Phasôđa đưa bốn con người đến với những vùng đất hoang vu
không bóng người mà ông Linđe nhận định rằng: đó là vùng mà các nhà thám hiểm
cũng như các nhà địa lý hoàn toàn chưa biết tới. Ở nơi đây, bọn trẻ đã được “thực
hành” những phương pháp để đối phó với dã thú, tìm kiếm thức ăn cho cả đoàn và
bảo vệ lẫn nhau. Vùng đất này còn là nơi nảy sinh tình bạn tốt đẹp với chú voi
King. Xtas, Nen và những người bạn của mình đã phải sống chung với những trận
mưa Phi kinh hoàng, đối diện với những loài vật nguy hiểm như ong dại, ruồi tsetse,… Nhưng ở đó vẫn còn những cảnh sắc thiên nhiên thú vị và hấp dẫn cùng
những loài chim xinh đẹp như: chim dồng dộc – giống chim màu vàng có cặp cánh
đen, cò – giống hệt như cò châu Âu, chim hồng hạc, bồ các, sễu hay loài vịt to lông
màu nâu tía,… Rời khỏi “Cra-cốp”, cả Nen và Xtas đều cảm giác thấy sự chia ly
sau nhiều ngày gắn bó với nơi đây. Con đường đoàn tụ với người cha của mình
buộc những đứa trẻ phải bước tiếp. Hành trình đó đã đưa Xtas, Nen khám phá
những vùng đất xa lạ của những bộ tộc Xamburu, Vahima. Và may mắn hơn cả,
những cánh diều được thả từ núi Caramôiô đã đến được với hai người cha, giúp
Xtas và Nen được đoàn tụ cùng gia đình.
2.2 Vẻ đẹp niềm tin tôn giáo
Theo chân chặng đường bị bắt cóc và trốn thoát của Xtas và Nen trên sa mạc
và trong rừng thẳm, không chỉ cảm động bởi tình thương tồn tại trong con người,
ngạc nhiên trước sức mạnh và trí tuệ của một đứa trẻ chỉ mới 14 tuổi mà còn vô
cùng thành kính trước niềm tin của con người vào thế giới tâm linh, tôn giáo.
Chính niềm tin vào tôn giáo đã một phần giúp hai đứa trẻ có thể bảo vệ chính mình
và trở về với gia đình ở cuối tác phẩm.
Xtas và Nen trong chuyến hành trình của mình, với một niềm tin mãnh liệt
vào đạo Thiên Chúa đã có thể thuần phục được cả con người và động vật. Nen là
cô bé 8 tuổi, có vẻ đẹp trong sáng, thánh thiện, vẻ đẹp toát ra từ đôi mắt, thần thái
và trên hết là từ tâm hồn yêu thương bao la của em. Những người lần đầu tiên gặp
cô bé đều rất yêu và mến vẻ đẹp của em. Vẻ đẹp đó còn làm cho những thổ dân da
đen hết sức ngỡ ngàng và phải cúi đầu khi em bước qua. Khi em đến vùng đất nào,
mọi người đều chăm sóc và chia sẻ cho em rất nhiều thức ăn, đồ uống. Ngoài Xtas
thì Cali là người sung bái Nen nhất. Em gọi cô bé là Mzimu Tốt hết sức linh
thiêng. Em chăm sóc, lo lắng cho cô chủ, cúc cung tận tụy đi theo cô chủ mặc dù
em đã được làm Vua của một tộc người. Đi đến vùng đất nào em cũng dõng dạc
nói về những điều đẹp đẽ mà Nen đã làm trong hành trình với một niềm tin rằng,
nếu không phải là Nell thì không ai có thể làm được điều đó. Em còn được cô chủ
dạy cho những bài học, những đức tính thiên lương của đạo Thiên Chúa và từ đó
Cali có ý thức dạy lại cho những người trong tộc mình những gì em được học, để
họ được khai sáng như em.
Vẻ đẹp mà Nell có, được dạy dỗ và học tập từ giáo lý tôn giáo, đã giúp Nen
có thể thuần phục được con Voi mà đoàn gặp phải trong hành trình. Voi là loài
động vật không sợ cả cọp, báo nhưng đứng trước cô gái bé nhỏ Nen, chú Voi to lớn
vẫn ra sức nũng nịu, yêu thương, dùng vòi để nhấc cô bé lên, nghe theo lời cô bé,
chở cô bé trong chuyến hành trình gian nan phía trước, bảo vệ cho đoàn người khỏi
những hiểm nguy nơi rừng rậm và sa mạc. Chính bản thân Nen đã toát lên vẻ đẹp
tâm linh để có thể khuất phục được tất cả trái tim, tấm lòng của con người cũng
như động vật tự nhiên.
Với một niềm tin mãnh liệt vào tôn giáo, tâm linh con người đã có thêm chỗ
dựa, sức mạnh chiến đấu chống lại những khó khăn, hoạn nạn. Đối với bọn bắt cóc
Xtas và Nen đã có lần chúng sợ, chúng dao động trước những lời nói của Xtas về
những điều trong giáo lý Thiên Chúa, bởi đó là hiện thân của cái hay, cái tốt, cái
đẹp. Nhưng với chúng, có lẽ, cũng chính niềm tin vào đạo của mình đã giúp chúng
cố gắng vượt qua sa mạc tưởng chừng như không thể vượt nỗi, giúp chúng đến
được nơi chúng muốn đến. Chính Xtas đã từng nghĩ rằng, lí do quân đội thực dân
không thể thắng nỗi những bộ tộc chỉ có sức người và vũ khí thô sơ chính là sức
mạnh trong niềm tin mãnh liệt của con người. Mọi thứ có thể mất đi và biến đối
nhưng niềm tin con người dành cho tâm linh là không gì có thể khuất phục.
Với những tộc người còn mông muội, có thể gây nguy hiểm đến tính mạng
của đoàn Xtas và Nen, thì chính vẻ đẹp tâm linh mà Nell có được, chính niềm tin
không mù quáng của Xtas, chính sự tin tưởng vào tâm linh và bản tính hiền lành,
nhút nhát của những tộc người da đen đã giúp các em không chỉ thuần phục được
sự hoang dại của con người mà còn khai sáng cho họ, giúp họ nhận ra được đâu
mới niềm tin chân chính và chính họ đã không những không gây hại cho các em
mà còn cúng nạp các lễ vật hỗ trợ các em lên đường “khắp nơi người ta bày tỏ lòng
thành kính và thần phục đối với Mzimu Tốt dưới dạng gà mái, trứng và mật ong”.
Cũng chính sức mạnh niềm tin nơi em đặt vào đạo Thiên chúa đã khiến Xtas
có thể mặc kệ cái chết của bản thân và của Nen chứ không chịu cải đạo, dù chỉ là
cải đạo ngoài mặt. Em nói không hề run sợ và nhìn thẳng mặt Mahơđi: “Thưa tiên
tri – tôi không biết thứ khoa học của Người, nên nếu tôi có thừa nhận nó thì chẳng
qua cũng chỉ là sợ hãi, như một thằng hèn, như một người tồi tệ mà thôi […] Tôi là
tín đồ Thiên Chúa giáo như cha tôi”.
Hơn thế, những điều được học và niềm tin vào sự thánh thiện của đạo Thiên
Chúa mà Xtas và Nen được học từ nhỏ đã giúp hai đứa trẻ chỉ mới 14 và 8 tuổi đã
có thể nhận thức được nhiều vấn đề chiều sâu của cuộc sống. Xtas nhận thức được
rằng chính việc học tập một tôn giáo thánh thiện, tốt đẹp sẽ giúp con người sống
tốt đẹp, không mù quáng. Vì vậy em cho rằng một trong những công việc của hai
đứa là khai sáng, giáo dục và rửa tội cho Cali và Mea là những người ngoại đạo,
Nasibu theo đạo Hồi.
Ông Linde, trước khi chết, đã nhờ Xtas một việc hết sức thiêng liêng, em đã
Stas òa khóc nức nở khi ông nói và hai giọt lệ lăn trên má ông, múc nước vào một
cái bình, dừng lại bên từng người đáng thương đang ngủ trong đoàn của ông, vẩy
nước và nói “Ta rửa tội cho ngươi, nhân danh Cha, và Con, và Đức Chúa Thánh
thần!”. Xtas đã thực hiện rất chân thành và em đợi đến khi người cuối cùng trong
đoàn của ông Linde đi về cõi vĩnh hằng trước nghi thức rửa tội em mới rời khỏi
khu vực ấy. Cuộc gặp gỡ với người Châu Âu đầu tiên, người mang trong mình một
niềm tin tôn giáo giống Stas trong chuyến hành trình gian nan ấy đã giúp em nhận
ra sức mạnh kì diệu của tình thương, của niềm tin vĩnh hằng vào sự sống, vào đạo
lý mà mình hằng theo đuổi. Không chỉ người sống cần đến một chỗ dựa tinh thần,
cả người chết cũng cần nó để rũ bỏ mọi tội lỗi và có thể đến được cõi trời.
2.3 Biểu hiện tình thương
Đọc Trên sa mạc và trong rừng thẳm chắc hẳn chúng ta sẽ đọng lại rất nhiều
điều thú vị mà nó mang lại mà ở đó không thể không kể đến những chi tiết tạo nên
những biến chuyển trong từng giai đoạn của cuộc hành trình dài và đầy nguy hiểm
của Xtas và Nen. Nó là cuộc hành trình mà Xtas và Nen phải trải qua với mong
muốn duy nhất là đoàn tụ với gia đình với hai người cha của hai em. Ý nghĩa mà
tiểu thuyết mang lại không thể không kể đến tình thương gia đình cụ thể là tình cha
con của Xtas và Nen đối với hai người cha tuyệt vời của hai em. Mở đầu thiên tiểu
thuyết là hình ảnh một đại gia đình hiện lên với những gì tuyệt vời nhất. Hai người
cha, ông Roolixon cha của Nen- một giám đốc của công ty đào Xuê. Và ông
Tarcốpxki là cha của Xtas - một kỹ sư trưởng của công ty này. Ở họ hiện lên với
những dức tính tuyệt vời của những người cha mẫu mực hết lòng thương yêu
những đứa con của mình, luôn dành tình yêu thương sự quan tâm đến với con mình
mặc dù công việc của họ phải luân chuyển nhiều và ít thời gian ở bên con cái
nhưng họ luôn nhớ và tìm mọi cách để gần gũi con mình. Bởi lẽ điểm tương đồng
của hai ông bố đều góa vợ nên hai gia đình kết thân với nhau và thường xuyên có
những buổi gặp mặt thân mật. Sau khi kết thúc công việc phút nghỉ ngơi thú vị
nhât đối với họ là được trò chyện về bọn trẻ, về giáo dục và tương lai của chúng.
Và điều đặc biệt “ Ông Roolixon yêu Xtas như con đẻ, còn ông Tarcopxki thì sẵn
sàng nhảy vào lữa và lao xuống nước vì cô bé Nen”. Riêng Stax với tính cách cũng
như nh
Tình cảm của hai ông bố dành cho con mình hết lòng yêu thương và có cách
giáo dục rất tâm lý và hiểu trẻ. Ông Tarcopxki cho Xtas “ chui rúc” ở khắp mọi nơi
và hễ rảnh rỗi một chút ngoài giờ học là lại lần ra bờ nước”. Người cha không ngăn
cản con mình khám phá mọi thứ không sợ con mình bị nguy hiểm bởi mọi thứ
xung quanh mà thay vào đó ông hiểu rẳng “việc chèo thuyền, cưỡi ngưạ và sự tiếp
xúc thường xuyên với không hí trong lành sẽ củng cố thêm sức khỏe của đứa trẻ,
đồng thời phát triển tính tháo vát của nó. Chính vì thế mà Xtas to khỏe hơn các bạn
cùng trang lứa và nếu em có lâm vào một chuyện nuy hiểm nào đó thì chắc hẳn thì
cậu bé có thể hăng hái hơn là khiếp sợ. Em am hiểu cũng như khám phá được rất
nhiều điều thú vị xung quanh từ việc em thường xuyên tới chổ làm việc của cha
mình. Những sự trải nghiệm cũng như những hiểu biết của mình đã giúp em vượt
qua một chặng đường tưởng chừng như không thể của mình.
Đối với người bố Roolinxon thì rất mực quan tâm Nen- cô con gái nhỏ của
ông. Trong chuyến đi trong kỳ nghỉ lễ dài của hai em khi ở Meedinet đã lột tả
những phẩm chất của hai ông bố dành cho hai đứa con của mình. Những chi tiết
thể hiện sự quan tâm của ông bố dành cho con mình được tái hiện qua từng hành
động của nhân vật rất đặc biệt: “ Ông Rolinxon sợ rằng việc sống một thời gian dài
trong lều sẽ có hại cho sức khỏe của Nen. Hay là lúc ông lo lắng cho con và không
cho con mình đi vào ban đêm. Và lúc đi dạo, hai ông bố bàn công chuyện nhưng
vẫn nhớ con và nói “ thời tiết thật đẹp, nhưng hơi lạnh- Ông Rolinxon cất tiếng :
không hiểu Nen có mang theo quần áo hay không.
Trong lúc chờ đợi tàu đến đợi để những đứa con , nhưng không thấy hai ông
bố bắt đầu lo lắng, gọi điện cho con và cả đêm không ngủ. cho đến khi phát hiện
hai con mình mất tích hai ông bố bắt đầu cuốn cuồn. Ông Rolinxon đứng ngồi
không yên. Ông cứ gọi tên con: Nen, Nen ơi! . Và cho đến lúc cảnh tái ngộ của đại
gia đình đó là những hình ảnh hạnh phúc nhất, đó là niềm vui, niềm an ủi sau
những ngày xa cách của nhữn ông bố và những đứa con của mình. Hình ảnh khi
nghe Nen kể về cuộc hành trình của mình hai ông bố xúc động, ông Rolinxon
không cầm được nước mắt, chốc chốc lại ghì chặt cô con gái yêu vào tim, còn ông
Tarcopxki không thể ngồi yên chổ vì tự hào và sung sướng, vì đứa con Xtas của
mình thông minh và dũng cảm biết nhường nào đã bảo vệ cô bé.
Đó là tình cảm của những ông bố dành cho những đứa con của mình còn
tình cảm của hai người con đối với bố cũng vô vàng những điều tốt đẹp. Những cử
chỉ yêu thương của Nen đối với bố mình, những điều thầm thần tượng cũng như
hết mực quan tâm của Xtas đối với bố cũng đặc biệt không kém. Đó là lúc khi nhận
được món quà của bố tặng cho Nen là chú chó Xaba em trân quý và dành cho nó
những tình cảm đặc biệt. Chính chú chó dáng yêu mà bố Nen tặng cho em đã trở
thành người bạn đồng hành của em, giúp đỡ em trong những lúc tưởng chừng khó
khăn nhất. Còn đối với Xtas thì em luôn yêu thương và kính trọng người cha mình
hết mực. Lúc trở về đoàn tụ với cha mình Xtas kể về những điều trải qua với mình
và Nen. Nhưng khi em kể tới việc em đã bắn chết Gebhi cùng đồng bọn của hắn,
em nghẹn lời và lo lắng nhìn sang cha, nhưng ông Tarcoxiki nhíu mày, suy nghĩ
một lát rồi nói nghiêm trang: “ hãy nghe này Xtas con được mang cái chết đến cho
bất kỳ ai, nhưng nếu có kẻ nào đe dọa tổ quốc của con, đe dọa sự sống của mẹ con,
chị em con hoặc sự sống của người phụ nữ mà người ta ủy thác cho con phải chăm
lo, thì con chớ có hỏi gì thêm mà hãy hăng hái vào đầu nó cũng đừng băn khoăn về
điều đó làm gì”. Cảm thức được sự thấu hiểu, sự ủng hộ của cha dành cho con như
nguồn động lực cho Xtas lúc này.
Nói về tình cảm gia đình chúng ta không thể không kể đến tình cảm sự yêu
thương của Xtas đối với Nen cũng như Nen đối với Stax. Tuy hai em không cùng
chung máu mũ ruột thịt nhưng cả hai đối với nhau như những người anh người em
của mình. Hai em luôn có sự quan tâm và yêu thương nhau. Nhất là đối với Xtas
em đã là người anh tuyệt vời khi đã hoàn thành tốt nhiệm vụ bảo vệ Nen của hai
ông bố. Cậu bé đã làm rất nhiều thứ đối đầu với vô vàng những khó khó khăn mấu
chốt lại chỉ tìm cách bảo vệ Nen và đưa em trở về. Cậu đã đấu tranh tư tưởng, suy
nghĩ tìm mọi cách rất nhiều những ý định nảy ra để có thể làm gì tốt nhất cho cô
bé. Cậu ân cần chăm sóc, quan tâm lo lắng, nhất là lúc Nen bị sốt rét em đã tất bật
chăm sóc Nen. Đến lúc trở về Nen đã kể về chuyến đi cho hai ông bố nghe thì
trong lời thuật lại của đứa trẻ ấy cũng có thấy được rằng, nếu như không có sự can
đảm và nghị lực của cậu bé thì cô bé đã chết không phải chỉ một lần mà hàng nghìn
lần, vô phương cứu chữa.
Đọc tác phẩm đọng lại cho chúng ta vô vàng những điều tốt đẹp nó chan
chứa những thứ tình cảm đặc biệt trong đó tình thương gia đình, tình thương con
người luôn đọng lại cho ta những điều tốt đẹp nhất khiến ta phải suy nghĩ, phải
nhìn về nó như một chân lý đó là- tình thương gia đình luôn là động lực để chúng
ta sống tốt, vượt qua mọi khó khăn thử thách của cuộc sống là nguồn động lực
sống trường tồn không những riêng Nen và Xtas mà là tất cả của chúng ta. “Ở Ai
Cập không một ai có thể là nô lệ cả”-đó là câu khẳng định của ông Rawlinson-một
trong các giám đốc của công ty kênh đào Xue khi nói với mụ Fatma. Với những
người giúp việc trong nhà, ông gọi họ là gia nhân. Bởi lẽ trong trái tim ông cũng
có lòng thương người, với ông không ai phải là nô lệ cả. Và cái tư tưởng ấy cũng
thấm nhuần trong tâm hồn hai đứa trẻ.
Quả vậy, tình thương người đối với Xtas và Nen là vô bờ bến, đặc biệt là tình
thương dành cho hai nô lệ nhỏ tuổi Mea và Cali. Mới những ngày đầu gắn bó với
Cali và Mea, hai đứa trẻ đã thấy thương cho thân phận của kẻ nô lệ. Bởi chúng gắn
bó với nhau không phải trong cái cảnh vui vẻ chơi đùa, mà trong cái cảnh bị đày
đọa, đau khổ. Trước những đòn roi giáng xuống Cali, Nen lại thầm khóc cho cậu
bé bất hạnh, Xtas cũng lắm lần phẫn nộ trong lòng và đứng ra bảo vệ nó, nhưng lại
đành im lặng, vì cậu biết điều ấy lại khiến cho Ghe-bơ-rơ phấn khích hơn mà thôi.
Xtas hiểu được, chỉ vì không còn trút giận lên em và Nen nữa, nên Ghe-bơ-rơ lại
càng đày đọa cậu bé Cali, nên chỉ cần Xtas can thiệp, Cali lại phải chịu khổ nhiều
hơn. Vốn rất sợ phải đến gặp của Xmai-nơ, nhưng Nen lại mong đến chỗ ông ta
thật nhanh, vì theo cố bé thì “bởi vì là có thể ở cạnh Xmai-nơ thì Ghe-bơ-rơ sẽ
không dám đánh thằng Cali tội nghiệp tàn tạ thế kia đâu”. Thế nhưng trái tim đầy
thương cảm của cô bé lại thổn thức, nước mắt lại rơi đến đôi má đã gầy tọp đi khi
Xtas nói rằng tất cả bọn họ đầu không thương tiếc gì đối với những kẻ nô lệ. Cả hai
em cùng buồn, cùng đau xót thay cho những đòn roi mà Cali phải gánh chịu. Đỉnh
điểm là khi đoàn người gặp sư tử, gã Ghe-bơ-rơ đã có ý định đâm chết Cali và ném
xác xuống cho sư tử, hòng thoát thân. Nhưng chính lúc ấy, Xtas đã nhanh chóng
túm lấy tay áo hắn, bởi với Xtas đó là hành động hết sức độc ác, dã man và vô
nhân tính. Xtas mạnh miệng chửi Ghe-bơ-rơ là “thằng khốn nạn”. Lòng dũng cảm
của em cộng với tình thương đã giúp em can đảm hơn. Em giằng co với gã, ngăn
gã giết chết Cali, một phần em cũng sợ sau Cali sẽ là tính mạng của em và Nen bị
đe dọa. Ở Xtas, em khao khát tự do và tất nhiên em cũng thấu được cái khao khát
tự do ấy trong những con người mang thân phận nô lệ như Cali và Mea. Xtas đã
đòi lấy súng để giết hổ, rồi sau đó, em giết luôn cả lũ người của Ghe-bơ-rơ. Stas đã
mạnh dạn không màng nguy hiểm không những cứu lấy mạng sống của em và
Nen, mà còn cứu mạng cả Cali và Mea nữa, hơn thế nữa, hành động đó đã giải
thoát em khỏi sự áp bức của bọn người độc ác, giải thoát cho Cali và Mea thoát
khỏi ách nô lệ. Em đã tìm lại được tự do cho chính mình, mặc dù không phải là sự
tự do tuyệt đối. Chi tiết em giết sư tử rồi chĩa súng vào Ghe-bơ-rơ và bắn hạ gã là
chi tiết đánh dấu một sự thay đổi lớn trong cuộc hành trình của các em, các em tự
làm chủ hành trình của mình, và trong hành trình tiếp theo này, bên cạnh những
khó khăn nguy hiểm gặp phải cũng có không ít những điều lí thú. Và ở hành trình
tiến sâu vào rừng thẳm ấy, Cali và Mea vẫn đi theo nguyện làm nô lệ cho Stas và
Nell, nhưng với cái lòng nhân hậu của mình, hai em chưa bao giờ xem đó là những
kẻ nô lệ, về sau Stas còn cưu mang thêm Nasibu-người nô lệ của ông Ninđe. . Mặc
dù Cali vẫn luôn tự nhìn nhận mình là thân phận nô lệ, thế nhưng là một nô lệ vui
vẻ, sung sướng, là nô lệ của “ông lớn” và “Mdi-mu tốt”, Cali không còn lo sợ vì bị
đánh đạp mà ngược lại còn sung sướng vì luôn được ăn uống no bụng. Những đứa
trẻ đi với nhau, sống với nhau như những người bạn, trong những lúc dọn dẹp hay
kiếm củi hay dựng lều, Xtas không bao giờ để Cali làm một mình, mà luôn “cùng
nhau” làm mọi việc. Vì trong mắt Stas đó là một người đồng hành chứ không phải
là một kẻ nô lệ. Có một lần, khi gặp trận bão lớn, Cali là người đầu tiên nghĩ cách
và tìm thấy một thân cây lớn cho cả đám trú ngụ. Cali cũng là người đầu tiên leo
lên cây làm nhiệm vụ thăm dò cũng như để kéo cô bé Nen lên trước, sau Nen
không phải là Xtas mà là Mea, vì với thuyền trưởng Xtas thì em là người cuối cùng
chịu rời khỏi con tàu đắm”. Xtas luôn nghĩ cho mọi người trước, và mình luôn là
người sau cùng. Trong suốt cuộc hành trình, Xtas và Cali đều tương trợ cho nhau,
giúp nhau trong mọi lúc, không phân biệt thân phận. Ngược lại trước tình yêu
thương mà Xtas và Nen dành cho mình, Cali và Mea cũng rất thương yêu và quý
mến hai đứa trẻ. Những lúc Nen ốm nặng, không chỉ có Xtas lo lắng mà Cali và
Mea cũng không ít lần thức khuya để coi sóc, để canh chừng cô chủ nhỏ. Dù biết
khi giúp Cali tìm được bộ lạc của mình thì Cali sẽ không còn đi theo giúp mình
nữa, mình sẽ gặp rất nhiều khó khăn nhưng biết rõ mình cũng đang rất háo hức và
khao khát tụ họp với gia đình, nên việc giúp Cali tìm được gia đình mình là việc
nên và cần phải làm của Xtas. Không chỉ giúp Cali tìm được gia đình, Xtas và Nen
còn giúp cả bộ lạc của cậu bé da đen giành chiến thắng trong cuộc chiến. Đến giây
phút cuối, tưởng như là sẽ xa nhau mãi mãi, nhưng Cali vẫn muốn được đi theo để
giúp đỡ và phục vụ “ông lớn” của mình, Nen thì khóc lóc đòi cho Cali theo cho
bằng được. Lại một chặng đường dài trên sa mạc nữa, họ cũng chia cho nhau
những giọt nước cuối cùng, cùng nhau trải qua những giây phút tưởng chừng như
là cận kề cái chết.
Như vậy, với trái tim đầy nhân hậu của mình, Xtas và Nen đều xót thương và
dành tình yêu sâu sắc cho những kẻ mang thân phận nô lệ như Cali và Mea. Các
em đã dùng tình thương, dùng cả trái tim của mình để đối đãi với hai đứa trẻ da
đen tội nghiệp, và vì cho đi là tình yêu nên cuối cùng những thứ những đứa trẻ
nhận lại được cũng là tình yêu chân thành.
Biểu hiện tình yêu thiên nhiên cao đẹp trong tác phẩm là một điều không thể thiếu
trong con người con Xtas và Nen. “Trẻ sẽ thông minh hơn, học tốt hơn, khỏe
mạnh và hạnh phúc hơn khi có nhiều cơ hội tự do hòa mình với tự nhiên”, bởi đây
chính là nơi nuôi dưỡng nhiều tình cảm mà không ở đâu có được. Chính điều này
đã khiến các nhà văn khi viết văn học dành cho thiếu nhi luôn đề cập đến thiên
nhiên. Tác phẩm Trên sa mạc và trong rừng thằm ngay từ nhan đề đã phần nào mô
tả được không gian xuất hiện, một nơi hoàn toàn phù hợp với lứa tuổi thiếu nhi. Và
nhà văn Ba Lan đã làm điều đó thật sự xuất sắc khi dụng công xây dựng một tình
cảm rất đẹp xuyên suốt tác phẩm tình cảm yêu thương và gắn bó với thiên nhiên.
Đầu tiên, chúng ta có thể thấy Xtas rất am hiểu về thiên nhiên của châu Phi. Điều
này chứng tỏ cậu bé đã học môn Địa lý một cách nghiêm túc, đến mức ngay lần
đầu tiên thực hành cậu đã áp dụng rất thành thục. Việc cậu bé 14 tuổi này phân tích
các hướng gió hay tập tính của động vật châu Phi như một nhà khoa học vô cùng
chính xác phần nào khẳng định tình yêu thiên nhiên của cậu bé. Không chỉ vậy,
những người nô lệ của châu Phi như Cali, Idris cũng nắm rõ thiên nhiên như một
bản năng sinh tồn. Họ hiểu và biết cách sống nương vào thiên nhiên một cách
thuần thục nhất. Châu Phi luôn là một mảnh đất đáng sợ nhưng hai đứa trẻ nhỏ bé
của chúng ta đã sống sót ở đó với những khắc nghiệt nhất. Có lẽ vì có sự nương tựa
vào thiên nhiên. Đó là những hang đá, là thân cây bao báp rộng lớn mà bọn trẻ gọi
là Cracow, hay những cơn mưa cung cấp nguồn nước cần thiết, là các loài động vật
ăn cỏ mà chúng “thưởng thức” suốt cuộc hành trình của mình. Chính những sự
hiểu biết đó đã giúp các nhà bộ hành trẻ của chúng ta sống sót đến ngày đoàn tụ.
Không chỉ vậy, mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên cũng được tác giả đề
cập thường xuyên. Độc đáo nhất có lẽ là cảnh tượng và tình cảm của Xtas, Nen
dành cho con voi khổng lồ tên King. Ngay cả hành động Xtas muốn bắn con King
khi thấy nó bị mắc kẹt giữa hai khe đá không phải vì muốn giết nó để an toàn mà
chỉ là giúp nó kết thúc nhanh chóng cuộc sống đau đơn dằn vặt từng ngày. Rồi ánh
mắt hành động của Nen liên tục cầu xin Xtas cứu sống chú voi đáng thương đó:
“Em không muốn, không cho giết nó, em sẽ lên cơn sốt ngay lập tức nếu anh giết
nó”. Để rồi hằng ngày bốn con người nhỏ bé đó liên tục cung cấp một nguồn thức
ăn khổng lồ cho chú voi. Và chuỗi sự kiện liên tiếp xảy ra vô cùng bất ngờ như
việc Nell dám chui qua khe hở và vào chơi với “con vật to như một tòa nhà”, hay
như cả bọn quyết định phá tảng đá giải cứu cho King. Tất cả đều nhắc nhớ đến tình
cảm mà chúng dành cho thiên nhiên rộng lớn đó. Có nhiều lúc chúng ta sẽ cảm
thấy tác giả dường như đang mâu thuẫn khi có lúc lại miêu tả bọn trẻ vô cùng thân
thiện với các con vật, có khi lại dám sẵn sàng giết chết rất nhiều loài vật khác. Điều
này có thể lý giải dễ dàng khi cả bọn bị cái đói đe dọa buộc phải tìm kiếm nguồn
thức ăn, nếu để ý sẽ thấy Xtas thừa sức giết nhiều hơn số linh dương hay ngựa vằn
xuất hiện, nhưng em chỉ giết đủ với số lượng cần thiết. Không chỉ vậy, đoạn văn
miêu tả chi tiết việc Xtas bắn con mèo rừng Wobo thực sự rất đắt giá vì tác giả đã
nâng tầm của loài vật “có thể nhảy qua hàng rào cả ban ngày để giết người” lên
ngang tầm với Xtas và đó là một cuộc chiến đấu thực sự. Điều này lại một lần nữa
xuất hiện trong tác phẩm thiếu nhi Lão già mê đọc truyện tình của nhà văn Luis
Sepúlveda người Chile. Trong tiểu thuyết này, nhà văn Chile như cùng một quan
điểm với người đồng nghiệp xa xôi tận Ba Lan khi nâng cấp nhân vật con mèo
rừng trở thành một chiến binh và cuộc chiến đấu với con người chính là sự gắn kết
và hòa hợp đến cao độ giữa thiên nhiên và con người. Chiến thắng thiên nhiên
nhưng không phải để tàn phá, đó chỉ là sự chinh phục.
Bên cạnh đó, xuyên suốt tác phẩm người đọc luôn cảm nhận thấy tình cảm mà tác
giả đã ưu ái cho thiên nhiên nơi đây thông qua việc miêu tả một bức tranh hoang sơ
và tuyệt đẹp. Những loài động vật vừa hoang dã nhưng cũng đáng yêu, thực vật đa
dạng phong phú kết hợp với rất rất nhiều tính từ mĩ lệ mà tác giả sử dụng. Nếu chỉ
bằng một ngòi bút tài năng mà thiếu đi tình yêu thiên nhiên, Henryk khó có thể viết
nên những câu văn đặc sắc đến thế.
2.4 Khát vọng tự do và chiến thắng mọi hiểm nguy
“Trên xa mạc và trong rừng thẳm” vẽ nên cảnh tượng về những vùng xa mạc
hoang vu không một bóng người, sự đói khổ chết chóc tại vùng phiến loạn, hay
đơn giản chỉ là một khoảng khắc nhỏ nhoi trong khu rừng Phi Châu; từng cảnh
từng cảnh cứ hiện ra như một bức tranh đa sắc, đa chiều.
Và nổi bật trong cái cảnh tượng ấy, cái không gian ấy là một cậu bé gan
trường Xtas – một cậu bé vô cùng thông minh và dũng cảm, cậu có thể đương đầu
với mọi khó khăn, cậu có thể đầy sáng suốt mà suy tính cho cuộc hành trình tưởng
như không thể với một đứa bé 14 tuổi: thoát khỏi tay bọn phiến loạn, rồi xuyên qua
“lục địa đen” vốn chưa được khám phá hết vào thời đó, đối mặt với những bộ lạc
Châu Phi đầy man rợ. Một khía cạnh cũng đáng để chúng ta quan tâm khi đồng
hành cùng cuộc mạo hiểm của Xtas qua những trang văn của Henryk, đó chính là
khát vọng tự do ở Xtas – khát vọng thoát khỏi bọn phiến loạn – một khát vọng tự
do vươn tới những chân trời mới.
Mở đầu tác phẩm, khi chưa có bất kì biến cố gì xảy ra, khi còn sống trong
đầy đủ, thì Stas cũng đã có một khao khát được khám phá, được tự do tìm tòi và
đặt chân tới những nơi mới lạ: “Em lùng sục khắp nơi mọi chốn, tại bất cứ nơi nào
đặt chân tới, và dần dần tiến hành những chuyến đi dài dọc theo bờ kênh, đi thuyền
trên hồ Men-da-lê và nhiều lần bơi thuyền ra khá xa. Em đã từng vượt sang phía bờ
Ả Rập, và nhảy đại lên lung một con ngựa của ai đó, hoặc nếu thiếu ngựa thì lạc đà
hay thậm chí cả lừa cũng được, đóng vai một tay kị sĩ dũng cảm của sa mạc. Tóm
lại, nói như ông Ta-rơ-cốp-xki, em ‘chui rúc’ khắp mọi nơi, và hễ rảnh rỗi một chút
ngoài giờ học là lại lần ngay ra bờ nước”.
Nhưng có lẽ cái khát vọng tự do của Xtas được thể hiện một cách chân thực
nhất, rõ rang nhất là xuyên suốt hành trình tự giải thoát khỏi bọn phiến loạn. Chi
tiết “thả găng tay” đã bắt đầu cái hành trình tìm kiếm sự tự do, tìm cách giải thoát.
Dù mới chỉ là một cậu bé 14 tuổi nhưng khi phát hiện mình và bé Nen bị bắt cóc
đến Ma-hơ-đi nộp cho Xmai-nơ, Xtas đã bình tĩnh, không sợ sệt, cậu đã sáng suốt
khi đề nghị Nen thả găng tay xuống để làm dấu đường mình đã đi qua, hi vọng sẽ
được mọi người tìm thấy và cứu thoát: “ Em đừng sợ nhé, Nen…Em thấy đấy…có
thể chúng ta sẽ không gặp ba em lẫn ba anh đâu…có thể là bọn người đáng ghét
này đã bắt cóc chúng mình. Nhưng em đừng sợ…Bởi vì nếu đúng như thế, thì sẽ
có người đuổi theo chúng ta. Họ sẽ đuổi kịp và chắc chắn sẽ đoạt lại chúng mình.
Chính vì thế anh mới bảo em thả găng tay, để cho những người đuổi bắt tìm thấy
dấu vết. Hiện giờ chúng mình chưa thể làm được điều gì hơn, nhưng sau này anh
sẽ nghĩ ra cách gì đó… Chắc chắn là anh sẽ nghĩ ra được cách gì đó, chỉ cần em
đừng sợ và hãy tin ở anh…”
Phải đối mặt với sự quản lí, gắt gao của bọn bắt cóc, khát vọng tự do của
Xtas luôn sôi sục, Xtas luôn ngấm ngầm suy tính mọi chuyện, cậu bé luôn nghĩ
cách làm thế nào để thoát khỏi bọn chúng, để được tự do: Xtas dùng những lời lẽ
đã tính toán sẵn trong đầu nói với I-rix hòng dụ dỗ hắn đưa hai đứa trẻ trở về và sẽ
nhận tiền cha của cô bé Nen mà không phải chịu bất kì hình phạt nào: “ Tôi biết
rằng các người muốn mang chúng tôi đến Ma-hơ-đi và nộp cho Xmai-nơ. Song nếu
như các ông làm chuyện đó vì tiền, thì ông hãy nhớ rằng, cha của cô bé bé bỏng
này còn giàu hơn tất cả những người Xu-đan gộp lại…Tôi thay mặt hai vị kĩ sư
hứa với ông rằng mọi việc sẽ diễn ra đúng như lời tôi nói”. Kế hoạch này thất bại,
cậu bé lại lên một kế hoạch khác – cướp lại súng đã bị bọn Xu-đan giành lấy để
giết những tên bắt cóc hay là giết lạc đà, “ Bọn Xu-đan và Bê-đu-in khi tỉnh dậy
mà không thấy mình sẽ lập tức lao ra khỏi hang, khi ấy, bằng hai phát đạn, ta sẽ hạ
ngay hai tên đầu tiên, và trước khi hai tên sau kịp chạy tới thì khẩu sung đã lại
được nạp đạn rồi. Chỉ còn lại mỗi mình Kha-mix thôi, với tên này thì ta đối phó dễ
dàng rồi”. Cậu bé biết sẽ rất khó khăn và nguy hiểm nhưng cái khát vọng tự do
luôn thôi thúc Stas suy tính, tìm cách thoát thân. Mặc dù dũng cảm là vậy, thông
minh là vậy, nhưng suy cho cùng Stas cũng chỉ là một cậu bé 14 tuổi, từ nhỏ đến
lớn sống trong sự bảo bọc của cha, còn những cảnh tượng gai góc này, cảnh bắt cóc
hay việc tìm cách thoát khỏi hiểm nguy, em chỉ nghe qua hay là chỉ hình dung qua
những trang sách mà thôi: “ Tim em bắt đầu đập mạnh. Giá mà cầm được khẩu
súng và hộp đạn, thì em sẽ có thể làm chủ tình thế. Khi ấy, chỉ cần khẽ khàng
chuồn ra khỏi hang, ẩn kín chừng vài chục bước chân cách cửa hang, giữa các khe
đá, và từ đó kiểm soát lối ra…Nghĩ tới đây em hình dung thấy bốn thây người nằm
trong máu và nỗi kinh hoàng cùng sự khiếp hãi bóp chặt lấy lồng ngực.”
Mặt khác, là một tín đồ của Thiên Chúa giáo, Xtas luôn cầu sự che chở của
Đức Mẹ linh thiêng, mong Mẹ giúp chúng thoát khỏi cuộc áp giải đến Ma-hơ-đi:
“Hỡi Đức Mẹ thiêng liêng của Chúa, chúng con sẽ trốn thoát dưới sự che chở của
Mẹ…?”
Mặc dù mọi kế hoạch mà Xtas suy tính kĩ càng đều thất bại, tuy có lúc “cái
nghi lực mà em thường có giờ đây tạm thời nhường chỗ cho một sự cam chịu thuận
theo số mệnh và sự hãi hùng khi nghĩ tới tương lai” nhưng khi nhớ lại những gì đã
phải chịu đựng, nghĩ tới bọn phản bội và tàn ác…đấm đá em, tim em sôi sục căm
phẫn và cay cú…bị bọn chúng làm nhục thì Xtas lại càng quyết tâm, lại càng khao
khát tự do hơn bao giờ hết, “cậu bé không chịu buông xuôi tay bất lực tuân theo
mọi sự rủi may, vì trong tâm hông non trẻ này tàng trữ một nghị lực đáng kinh
ngạc, do những thất bại vừa rồi hun đúc thêm lên”. Xtas tự nhủ với bản thân rằng
tất cả mọi chuyện mình định làm đều kết thúc bằng việc mình bị chúng nó đánh.
Nhưng cho dù ngày ngày chúng nó có quật mình bằng roi, thậm chí chúng có giết
mình đi nữa, mình sẽ không ngừng tìm cách cứu Nen và bản thân ra khỏi tay lũ
khốn nạn này” hay nhiều lần trên đường đi và tại những chỗ dừng chân tạm nghỉ,
Xtas thì thầm vào tai bé Nen rằng ở vùng sông Nin trắng cũng vẫn có thể chạy trốn
và rằng em hoàn toàn không từ bỏ ý định này.
Khi hận thù lên đến đỉnh điểm thì cái khát vọng tự do ở Xtas càng dâng cao
và sôi sục, “và bỗng nhiên em cảm thấy mũi và gò má lại lạnh toát đi, nhưng là
một thứ lạnh khác hẳn, cái lạnh không phải nảy sinh từ nỗi sợ hãi mà từ một quyết
định kinh khủng không gì lay chuyển nổi, với quyết định ấy trái tim trong lồng
ngực em hiện thời như biến thành sắt thép”, cậu bé chĩa thẳng cái nhìn vào Ghebơ-rơ, cậu bé bắt đầu buông những lời nói đe dọa, lạnh lùng. Lúc này, Xtas đã
không còn là một cậu bé 14 tuổi nữa, mà là một anh hùng đang chiến đấu vì tự do,
vì khát khao được giải thoát cho Nen và cho chính cậu :“Ôi, đủ rồi! –Cậu rít qua
hai hàm rang nghiến chặt. –Mày đã vượt quá mức rồi! Mày sẽ không bao giờ giết
nổi Nen, không bao giờ giết thêm một ai nữa!
Phải! Đây là bọn khốn nạn, bọn đao phủ, lũ giết người, còn Nen thì đang nằm
trong tay chúng!...
Mày sẽ không thể giết được Nen nữa đâu. – Em nhắc lại. Em tiến lại phía bọn
chúng-đứng lại-và đột nhiên, nhanh như chớp, nâng sung lên ngang mặt. Hai phát
sung nối nhau vang động khe núi….
Em lặp lại trong lòng: “Ta đã giết chết Ghe-bơ-rơ và Kha-mix, ta đã giết bọn Bêđu-in, đã giết con sư tử và đã được tự do…Em cảm giác rằng cả hai đã được tự
do…”
Cuộc chạy trốn của bọn bắt cóc của Xtas Tarocopxki và cô bé Nen Rawlinson đã
phải trải qua không biết bao nhiêu là gian nan, hiểm nguy. Nhờ vào trí thông minh
và sự dũng cảm của Xtas hai em đã trốn thoát từ kênh đào Suez qua sa mạc Sahara
nắng cháy, rồi xuyên qua rừng già sâu thẳm Đông Phi cho đến lúc các em được
đoàn người Anh tìm thấy. Nhờ khát vọng sống, khát vọng được tự do các em đã
vượt qua những thử thách, thực hiện những kì tích.
Xtas và cô bé Nen đã phải trải qua những tháng ngày hết sức khốc liệt trên sa mạc
khi bị bọn người Sudan bắt cóc. Các em được đưa đi tìm ngài Smain. Bọn người
đưa các em đi trên lưng lạc đà. Khi gã Gebhr dùng chiếc roi da kinh khủng kiểu Ả
Rập - cái roi thậm chí có thể cứa đứt cả lạc đà, để đánh lên người của Nen dù cho
cô bé đã được bà nhũ mẫu bọc trong cái chăn dày cũng phải thét lên đau đớn. Ngay
lúc ấy Xtas đã nhảy tới húc đầu vào ngực hắn, rồi chộp lấy cổ hắn, nhưng gã đã gỡ
được cổ tay của cậu bé và ấn cậu xuống và quật roi vào lưng cậu. Hai đứa bé còn
quá nhỏ nhưng phải gánh chịu những đòi roi hết sức khủng khiếp. Nhưng không vì
thế mà Xtas gục ngã, cậu bé đã nói với Nen rằng: “ Không phải vì hắn đánh anh,
mà vì hắn đã quật em, anh thề sẽ không tha cho hắn”. Xtas là một cậu bé hết sức
thông minh, gan dạ. Khi bọn Bedouin thúc lạc đà đi không kịp trong lúc Nen vì
quá mệt mỏi mà ngủ thiếp đi thì em đã để ý thấy chúng đi vào sâu trong sa mạc.
Em luôn tỉnh táo để quan sát mọi thứ, hi vọng vào một điều gì đó dù là nhỏ nhoi.
Cậu luôn ấp ủ một ý chí là bảo vệ cho Nen, bằng việc khi bọn họ gặp phải những
con lốc dữ dội ấy thì cậu bé dù hơi thở nghẹt trong lồng ngực, cát khiến em mờ cả
mắt. Nhưng chỉ cần nghe thấy tiếng khóc của Nen là em quết định chạy sang động
viên cô bé. Cậu bé vẫn luôn suy nghĩ và quyết định sẽ thực hiện một hành động phi
thường nào đó để giải thoát cho cô bé khỏi cảnh đày đọa. Xtas đã hết lần này đến
lần khác tìm mọi cách để bỏ trốn khỏi bọn bắt cóc. Dù việc trốn thoát có lúc đã tắt
ngấm. Nhưng tia hi vọng dù là mỏng manh vấn luôn bừng lên trong em, nó cứ âm ỉ
mãi trong lòng em. Lúc bọn Ả Rập quá mệt mỏi vì chiến đấu với cơn bão táp đã đi
ngủ say. Xtas đã thức giấc, bắt đầu quan sát xung quanh. Rồi chợt em nhìn thấy
khẩu súng em được tặng trong Giáng sinh, cái hộp đựng đạn nằm giữa em và
Chamis. Em đã bắt đầu đấu tranh tư tưởng, uốn mình như một con nhện phía trên
- Xem thêm -