Giáo án đoạn trích trao duyên
Tuần: 29
Ngày soạn: 27/10/2017
Tiết: 82
Ngày dạy: …/…/2017
Văn bản:
TRAO DUYÊN
(Trích Truyện Kiều)
Nguyễn Du
(Tiết 1)
A. KIẾN THỨC CẦN ĐẠT
1. Kiến thức
- Hiểu được tình yêu sâu nặng và bi kịch tình yêu qua đoạn trích “Trao
duyên”. Đối với Kiều, tình và hiếu thống nhất chặt chẽ.
- Nắm vững nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật qua đoạn trích.
2. Kỹ năng
- Rèn kĩ năng đọc hiểu một đoạn thơ trữ tình.
3. Thái độ
- Yêu thương và đồng cảm với bi kịch tình yêu của Thúy Kiều nói riêng và
người phụ nữ Việt Nam thời kỳ trung đại nói chung.
B. CHUẨN BỊ BÀI HỌC
1. Giáo viên
1.1. Phương pháp dạy học: đọc diễn cảm, gợi mở, nêu vấn đề,
phân tích, bình giảng, so sánh, thảo luận nhóm,…
1.2. Phương tiện tổ chức: giáo án, SGK, SGV, powepoint,…
2. Học sinh: SGK, tập bài soạn.
C. TỔ CHỨC DẠY HỌC
1. Kiểm tra bài cũ
2. Bài mới
Hoạt động của GV và HS
Dẫn nhập:
Có người từng ví thơ văn Nguyễn Du
sừng sững như một kim tự tháp giữa
non nước này. Ba mặt của Kim Tự
Tháp mang một sắc vẻ khác nhau,
“mặt chính diện óng ánh sắc màu
Truyện Kiều, Văn chiêu hồn “Lời lời
châu ngọc, hàng hàng gấm thêu”. Mặt
trái cấu trúc bằng một thứ vật liệu dân
dã với Thác lời trai phường Nón, với
1
Nội dung cần đạt
Văn tế sống hai cô gái Trường Lưu và
mặt phải kim tự tháp là lớp những men
ngọc, những khối đá hoa cương đã
được tạo, được khắc bằng Thanh Hiên
thi tập, Bắc hành tạo lục, Nam Trung
tạp ngâm”, nhưng mặt nào, vẻ nào
chăng nữa khi đọc tác phẩm của ông ta
nghe máu chảy ra từ ngòi bút thấm đẫm
trang giấy, nghe chát mặn dư vị của
những giọt nước mắt rót ra từ tâm hồn
của một con người có“con mắt trong
thấu sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả
nghìn đời” (Mộng Liên Đường chủ
nhân). Một trái tim nhạy cảm, một tấm
lòng đau đời, một tâm hồn tài hoa,
“Truyện Kiều” chính là tiếng kêu đứt
ruột, là khúc đoạn trường của mọi kiếp
người, đặc biệt là những số kiếp hồng
nhan bạc mệnh, những đóa phù
dung“sớm nở tối tàn”.
Hôm nay, cô trò chúng ta sẽ cùng tìm
hiểu một trích đoạn trong “Truyện
Kiều” có nhan đề là “Trao duyên” để
I. Tìm hiểu chung
cảm thấu được trái tim đa tình, một tấm
I.1. Vị trí đoạn trích
lòng đa mang kết hợp cùng với tài năng
- Đoạn trích từ câu 723- 756
nghệ thuật bậc thầy của Đại thi hào
thuộc phần II - “Gia biến và lưu
Nguyễn Du.
lạc”. Nói về việc Thúy Kiều nhờ
I. Tìm hiểu chung
Thúy Vân trả nghĩa cho Kim
I.1. Vị trí đoạn trích
Trọng.
GV: Em hãy cho biết vị trí đoạn trích
“Trao duyên” trong “Truyện Kiều”.
I.2. Nhan đề
HS trả lời.
- Nhan đề “Trao duyên” là do
người biên soạn đặt. Nhan đề
phù hợp với tình cảnh và tâm
trạng của Thúy Kiều.
I.2. Nhan đề
GV: Em có nhận xét gì về nhan đề
đoạn trích “Trao duyên”?
2
(Vì sao người biên soạn lại lấy nhan đề
là “Trao duyên” thay vì “Trao tình”,
“Gửi duyên”,…)
HS trả lời:
- Xét về hoàn cảnh riêng tư của Thúy
Kiều: Sau khi Thúy Kiều quyết định
bán mình chuộc cha và trong đêm
cuối cùng trước khi cưới Mã Giám
Sinh, Kiều vẫn canh cánh món nợ
tình yêu với Kim Trọng, chỉ còn một
cách là trao lại mối tình đầu dở dang
cho em gái – Thúy Vân để em thay
mình trả nghĩa cho chàng Kim.
Chuyện tình yêu vốn dĩ thiêng liêng,
cao đẹp cho nên ngôn ngữ truyền tải
nó cũng phải trang trọng, trau chuốt,
nhất là trong tình cảnh éo le của
Thúy Kiều.
- Xét về mặt ngôn ngữ:
“Trao” là một hành động đưa tận
tay cho người khác một vật gì đó
với một thái độ trân trọng, tin cậy.
(“Gửi” là hành động giao một vật gì đó
của mình cho người khác trông coi, bảo
quản: gửi trẻ, gửi tiền tiết kiệm,…)
Chữ “trao” phù hợp với tình cảnh
này vì nó không chỉ thể hiện mục
đích của Thúy Kiều (nhờ em nối
duyên, trả nghĩa chàng Kim thay
mình) mà còn thể hiện tình cảm trân
trọng, quí mến của Kiều với Thúy
Vân, Kim Trọng và đối với tình cảm
của chính nàng dành cho người yêu.
“Duyên” (danh từ) đó là phần do
trời định dành riêng cho mỗi người,
thường chỉ sự hòa hợp gắn bó về
tình cảm giữa con người với nhau.
3
(“Tình” là nói chung về tình cảm giữa
người với người có sự gắn bó mật thiết:
tình vợ chồng, tình mẫu tử, tình huynh
đệ,…)
Chữ “duyên” phù hợp hơn chữ
“tình” vì 2 lẽ. Thứ nhất, thời gian
gặp gỡ - thề nguyền – ly biệt của
Kim Trọng và Thúy Kiều rất ngắn
ngủi nên tình cảm giữa hai người dù
có đậm sâu nhưng vẫn chưa có sự
thân thiết và gần gũi nhiều, cả hai
đều rất giữ kẽ trong lời lẽ, cử chỉ.
Hơn nữa, tình cảm chỉ có thể trao
gửi cho hai người yêu nhau (Kim
Trọng và Thúy Kiều) chứ không
trao gửi cho người ngoài được. Chữ
“duyên” đặt trong hoàn cảnh này lại
hợp tình hợp lí hơn. Đối với duyên
I.3. Chủ đề
số (duyên gặp gỡ) thì người ta xem - Đoạn trích “Trao duyên” có chủ
nó như một sợi tơ, buộc vào được
đề là bi kịch tình yêu của Thuý
thì cũng cắt đứt được. Người ta hay
Kiều.
nói “Tình chị duyên em”, chứng tỏ
duyên không hẳn là do trời định mà
còn do người tạo. “Trao duyên” là
một nhan đề phù hợp với đoạn trích.
Ngày xưa, chuyện chị trao duyên
cho em hoặc là em nối duyên thay
chị cũng thường xảy ra (Cám thay
chị Tấm vào cung làm hoàng hậu
trong truyện cổ tích “Tấm Cám”)
I.3. Chủ đề
GV: Chủ đề của đoạn trích là gì?
HS trả lời.
GV: Em có nhận xét gì về chủ đề của
đoạn trích?
HS trả lời: Đề tài tình yêu với chủ đề bi
kịch tình yêu rất phổ biến trong văn học
4
thế giới và Việt Nam. Những câu
chuyện tình yêu ngang trái, đẫm nước
mắt của W.Shakespeare (Romeo và
Juliet, Othello, Hamlet,…), những vần
thơ chân phương vô vọng của A.Puskin
(Tôi yêu em,…), nỗi nhớ đau đáu, miên
man của người chinh phụ (Chinh phụ
ngâm khúc – Đoàn Thị Điểm), người
cung nữ (Cung oán ngâm – Nguyễn
Gia Thiều) hay tình yêu cách trở, chết
yểu trong tuyệt vọng của những nhà thơ
Mới (Hai sắc hoa tigôn – TTKH, Lỡ
bước sang ngang – Nguyễn Bính,…).
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du được
xem như tấn bi kịch đầy nước mắt của
người phụ nữ tài hoa bạc mệnh thời
trung đại, trong đó bi kịch tình yêu
được khắc họa sâu đậm nhất.
I.4. Bố cục đoạn trích
GV: Theo em, đoạn trích có thể chia
làm mấy phần và ý nghĩa của mỗi phần
là gì?
HS trả lời.
II.
Đọc – hiểu văn bản
II.1. Thúy Kiều giãi bày lí do,
tìm cách thuyết phục để
trao duyên cho Thúy Vân
(12 câu thơ đầu)
GV: Hoàn cảnh hiện tại của Thúy Kiều
5
I.4.
Bố cục đoạn trích: 3
phần
- Đoạn 1 (12 câu đầu: 723-734):
Thúy Kiều giãi bày lí do, tìm
cách thuyết phục để trao duyên
cho Thúy Vân.
- Đoạn 2 (15 câu tiếp theo: 735749): Thúy Kiều trao kỉ vâ ât và
dă nâ dò em.
- Đoạn 3 (8 câu cuối: 750-757):
Thúy Kiều hướng về tình yêu và
Kim Trọng.
II.
Đọc – hiểu văn bản
II.1. Thúy Kiều giãi bày lí
do, tìm cách thuyết
phục để trao duyên cho
Thúy Vân (12 câu thơ
đầu)
như thế nào?
HS trả lời: Sau khi Thúy Kiều quyết
định bán mình chuộc cha, Kiều không
còn là người tự do nữa mà phải lệ thuộc
vào người khác. Trong hoàn cảnh đó,
nàng không còn tư cách để ôm ấp, theo
đuổi tình yêu với Kim Trọng, nàng
buộc phải từ bỏ và trao duyên lại cho
em. Trước khi cuộc trao duyên diễn ra,
nàng một mình ngồi khóc trong khuê
phòng. Đêm khuya thanh vắng, chỉ
mình Thúy Kiều ngồi thao thức trước
ngọn đèn dầu leo loét. Buồn sầu càng
tăng thêm. Kiều không dám khóc lớn vì
sợ gia đình chưa bình tâm sau cơn tai
biến và vì những tủi hờn chỉ một mình
nàng hiểu:
“Một mình nàng, ngọn đèn khuya
Áo dầm giọt tủi, tóc se mái đầu”
Chợt Thúy Vân tỉnh giấc, ghé đến ân
cần hỏi han, Kiều nảy ra ý định trao
duyên cho em:
“Thúy Vân chợt tỉnh giấc xuân
Dưới đèn ghé đến ân cần hỏi han:
- Cơ trời dâu bể đa đoan
Một nhà để chị riêng oan một mình”
II.1.1.Kiều mở lời nhờ cậy Vân (2
câu thơ đầu)
GV: Trong hai câu thơ đầu ngôn ngữ
của Thúy Kiều có gì đặc biệt?
(Giải thích ý nghĩa của các từ “Cậy”,
“chịu”, “lạy”, “thưa” trong hai câu
thơ)
HS trả lời.
6
II.1.1.Kiều mở lời nhờ cậy
Vân (2 câu thơ đầu)
“Câyâ em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa”
- “Cậy”: nhờ giúp đỡ Thái độ
van nài, tin tưởng, thân mật.
- “chịu”: nhận lấy điều không
hay cho mình Bị nài ép, bắt
buộc, không nhận không được.
- “lạy”: hành động chắp tay, quì
gối, và cúi gập người để tỏ lòng
cung kính Thái độ trang nghiêm,
hê â trọng.
- “thưa”: trình bày với người trên
một cách lễ độ Sự kính cẩn,
trang trọng với bề trên hoă âc với
người mình hàm ơn.
GV: Tại sao Nguyễn Du lại dùng hai từ
“Cậy”, “chịu”, “lạy”, “thưa” trong
hoàn cảnh này?
HS trả lời: Các động từ này được sử
dụng trong những hoàn cảnh nhất định
và dựa trên những mối quan hệ mật
thiết, có trật tự tôn ti rõ ràng. Thông
thường, từ “Cậy” và “chịu” được dùng
nhiều trong giao tiếp giữa những người
có quan hệ gần gũi lâu dài, tin tưởng
lẫn nhau. Còn từ “lạy” và “thưa” thì
được dùng trong xưng hô với những
người có vai vế, tuổi tác lớn hơn mình
(những người cao tuổi trong gia đình, Các động từ này thể hiện thái độ
những người có chức sắc trong chính
thành kính, trân trọng, tin cậy
quyền, những người giàu có,…) với
của Thúy Kiều dành cho em gái.
thái độ lễ phép, thành kính, trang
nghiêm. Ví dụ: con cháu khi nói
chuyện với ông bà, cha mẹ thì phải
“thưa ông, thưa bà hoặc thưa cha,
thưa mẹ, cháu (con) đi học mới về!”,
nói chuyện với thầy cô là phải “thưa
thầy, thưa cô”, nói chuyện với người có
chức quyền thì phải “thưa ông, thưa
bà, thưa cụ, thưa quan,...”. Khi hành lễ
với bề trên thì phải “lạy” để bày tỏ sự
tôn kính, thành khẩn. Ngày xưa các vua
chúa muốn mời hiền tài ra giúp nước
thường mang lễ vật tới và bái (lạy)
người ta. Người bái là người trao lễ vật
7
và người được bái là người nhận mệnh.
Nay Thúy Kiều phải “Cậy”, “lạy”,
“thưa” để em “chịu” lời tỏ rõ Kiều
muốn trao một “sứ mạng thiêng liêng”
cho Vân. Việc “trao duyên” là một việc
hệ trọng chứ không phải chuyện đùa.
Vì thế nên Kiều vừa ép buộc em vừa
van xin, nài nỉ em “chịu lời”.
Các từ này thể hiện thái độ thành
kính, trân trọng, tin cậy của Kiều
dành cho Vân.
GV: Tại sao Nguyễn Du dùng từ
“Câ ây” mà không dùng từ “nhờ”, dùng
từ “chịu” mà không dùng từ “nhâ ân” ở
đây?
HS thảo luận nhóm:
Hình thức: thảo luận nhóm theo
phiếu cho sẵn, theo bàn.
Từ Nguyễn Du Từ có thể thay
sử dụng
thế
Thời gian: 2 phút.
GV nhận xét, bổ sung:
Từ Nguyễn Du sử Từ có thể
dụng
thay thế
“Câ ây” : thanh trắc “nhờ”:
tạo âm điê âu nă nâ g thanh
nề, gợi sự quằn bằng làm
quại, đau đớn, vâ ât giảm phần
vã trong nô âi tâm nào
cái
của Thúy Kiều.
quằn quại,
Nhờ vả, trông đau đớn,
nói
mong tin tưởng, khó
gửi gắm niềm hi của Kiều.
vọng thiết tha.
“Chịu”: bị bắt “nhâ ân”:
buô âc, nài ép, nể mà có phần
phải nhận, không nào
tự
nhận không được nguyê nâ .
8
mặc dù có thể bị
thua thiê ât.
Thể hiện tình thế
gấp rút của Thúy
Kiều, nàng vừa cầu
xin em, vừa ép
buộc em chấp nhâ ân
lời thỉnh cầu của
mình.
GV: Theo em, việc dùng những từ
“cậy”, “chịu”, “lạy”, “thưa” trong
hoàn cảnh này của Kiều có hợp lí hay
không? Vì sao?
HS trả lời:
- Xét về mặt tôn ti trật tự trong gia
đình thì việc dùng các từ này là
không hợp lí. Bởi Thúy Kiều là chị
của Thúy Vân, nên việc chị phải
“lạy” và “thưa” với em là điều
hiếm có trong xã hội phong kiến.
Hành động của Thúy Kiều đã vượt
qua những chuẩn mực đạo đức, lễ
nghi Nho giáo, nên không thể chấp
nhận.
- Nhưng xét trong hoàn cảnh cụ thể là
Kiều thì lại là hợp lí, hợp tình. Khi
Kiều quyết trao duyên cho em thì
nàng đã xem Vân như là người làm
ơn, ân nhân của đời mình. Bản thân
Kiều là người hàm ơn, chịu ơn nên
phải dùng những từ trang trọng,
kính cẩn để đối đáp với em. Hành
động “lạy”, “thưa” của Kiều là bày
tỏ tấm lòng biết ơn vô hạn trước sự
hy sinh to lớn và cao quý của Thúy
Vân.
Việc dùng những từ “cậy”, “chịu”,
“lạy”, “thưa” trong hoàn cảnh này
9
- Việc tác giả sử dụng những từ
ngữ này có dụng ý nghệ thuật rõ
ràng:
Khắc họa được tình cảnh éo le
và tâm trạng, tình cảm của Thúy
Kiều.
Tạo nên không khí trao duyên
thiêng liêng, trang trọng.
Ngôn từ được Nguyễn Du được
chọn lọc kỹ càng, giàu giá trị
biểu cảm, góp phần khắc họa
tình cảnh hiện tại, tâm trạng và
phẩm chất cao quý của Thúy
Kiều.
- Thúy Kiều là một người trọng
tình, trọng nghĩa, khiêm tốn,
khéo léo trong lời lẽ và ứng xử.
2.2.3. Lý lẽ Thúy Kiều đưa ra để
thuyết phục Thúy Vân
nhận lời trao duyên (10 câu
của Kiều là hợp lí.
thơ tiếp)
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn
thơm lây”
- Kiều đưa ra nhiều lí lẽ để thuyết
phục em:
GV: Em có nhận xét gì về ngôn từ nghệ
thuật của Nguyễn Du trong hai câu thơ Thúy Kiều cố ý ràng buộc và để
này?
mặc em định liệu mối nhân
HS trả lời.
duyên này:
GV: Qua những từ ngữ đó em đánh giá
như thế nào về con người Kiều?
HS: trả lời.
“Giữa đường đứt gánh tương
tư,
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc
em”
2.2.2. Lý lẽ Thúy Kiều đưa ra để
“đứt gánh tương tư”: chỉ mối
thuyết phục Thúy Vân nhận lời
tình dang dở của Thúy Kiều và
trao duyên (10 câu tiếp)
Kim Trọng.
“chắp mối tơ thừa”: muốn em
“Giữa đường đứt gánh tương tư,
thay mình hàn gắn lại tình cảm
…
với Kim Trọng.
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm
“mặc em”: phó mặc, ủy thác hết
lây”
cho em.
GV: Kiều đã đưa ra những lí lẽ gì để
Thái độ của Thúy Kiều vừa có ý
buộc Thúy Vân chấp nhận lời trao
van nài, vừa ép buộc Thúy Vân phải
duyên?
nhận lời.
HS trả lời.
GV giải thích, bình giảng:
10
- Nguyễn Du sử dụng từ “đứt gánh
tương tư” thay vì “gãy gánh tương
tư” vì lúc này trên vai Thúy Kiều
đang mang một đòn gánh mà trĩu
nặng hai đầu là chữ tình và chữ
hiếu. Nàng đã quyết bán mình chuộc
cha, tức là nàng chọn chữ hiếu.
Nàng trao duyên cho Thúy Vân, tức
là quyết buông bỏ chữ tình. Cho
nên, động từ “đứt” ở đây là đứt cái
dây quang gánh buộc cái giỏ chứa
đựng tương tư (tình yêu) với Kim
Trọng. Như vậy, trên vai nàng vẫn
mang cái gánh hiếu nghĩa đủ đường
để mai thôi là nàng theo Mã Giám
Sinh xuất giá, nghi gia.
GV: Vì sao tác giả không dùng từ
“nối” – “nối gánh tương tư” mà lại là
“chắp gánh tương tư”?
HS trả lời:
- Chữ “chắp” trong câu thơ “Keo
loan chắp mối tơ thừa mặc em”
cũng là một từ đắt giá. “Chắp” là
hành động làm liền lại một cái gì đó
bằng cách ghép vào nhau. Khi chắp
vá một sự vật có chỗ trống, bị thủng
hoặc rách, người ta chỉ cần lấy một
vật gì khác lấp lại hoặc làm liền lại
mà không xét đến tính đồng nhất
của vật được chắp với vật bị chắp:
một cái quần nái đen bị rách một lỗ
thì người sẽ chắp lại chỗ rách đó
bằng một mảnh vải không nhất thiết
màu đen (màu nâu, màu xám,…)
miễn là làm liền lại chỗ trống đó.
Đặc biệt, người khác nhìn vào, họ sẽ
nhận diện rất nhanh những chỗ bị
11
chắp vì có có dấu vết để lại: màu
sắc, đường nét, hình khối,… không
đồng nhất. Các sự vật được chắp lại
chỉ liền về bề mặt nhưng tính chất
bên trong của nó vẫn rất khập
khiễng. Ở hoàn cảnh này, từ “chắp”
được sử dụng phù hợp hơn các từ
“nối” (liền về về mặ và tính chất),
“kết”…Khi Thúy Kiều trao duyên
lại cho em thì Thúy Vân sẽ thay chị
trả nghĩa với Kim Trọng. Thúy Vân
và Thúy Kiều mặc dù là chị em ruột
thịt nhưng bản chất bên trong lại
khác nhau. Sự thay thế của Vân
trong mối quan hệ này rất khiêng
cưỡng và chênh lệch. Bên cạnh đó,
từ “chắp” còn thể hiện cái đức hy
sinh cao đẹp của Thúy Vân, dẫu biết
là khó lòng hòa hợp với Kim Trọng
nhưng Kiều biết em gái vẫn chấp
nhận mối nhân duyên này thay
mình.
Kiều kể lại ngắn gọn chuyện
tình dang dở của mình và sự hy
sinh của bản thân vì chữ hiếu.
“Kể từ khi gặp chàng Kim,
….
Hiếu tình khôn dễ hai bề vẹn hai”
Điệp từ “khi” + biện pháp liệt
kê + yếu tố thời gian “ngày” và
“đêm”
“khi gặp chàng Kim” “Khi ngày
quạt ước” “khi đêm chén thề”
Hành động diễn ra liên tiếp, không
ngắt quãng trong khoảng thời gian
liền mạch.
“quạt ước” – “chén thề: kỉ thề
nguyền của tình yêu Kim –
Kiều.
“Sự đâu” – “bất kì”: tai biến
đột ngột ập đến nhà họ Vương
buộc nàng phải bán mình chuộc
cha.
Kiều lấy mối quan hệ huyết
thống để yêu cầu em chấp nhận.
“Ngày xuân em hãy còn dài,
…
Ngậm cười chín suối hãy còn
thơm lây”
“Ngày xuân - còn dài”: tuổi trẻ
tươi đẹp và tương lai êm đềm
của Thúy Vân.
“Tình máu mủ” – “lời nước
non”: lấy tình chị em sâu nặng
để ràng buộc em thay mình giữ
lời thề với Kim Trọng.
Thành ngữ: “Thịt nát xương
mòn” – “ngậm cười chín suối”:
12
niềm mãn nguyện, thanh thản
của Kiều, dù cho nàng có chết
cũng không quên ơn tình này.
GV bình giảng: câu thơ “Ngày xuân
em hãy còn dài” tạo nên một ẩn ý đối
lập là “Ngày xuân chị rất ngắn hoặc đã
chấm hết”. Trong thâm tâm Kiều đã
xác định mình không còn tuổi nữa, mùa
xuân cuộc đời Kiều đã chấm dứt trong
cái giây phút nàng quyết định bán mình
chuộc cha và em. Cuộc đời Kiều về
khía cạnh tinh thần coi như đã chết.
Chiều sâu của nỗi đau hiện lên. Kiều
van lạy, Kiều khẩn khoản cầu xin Vân
hãy vì sự mất mát của mình, vì tình
máu mủ mà “Xót tình máu mủ thay lời
nước non”. “Xót” có nghĩa là phải chịu
một nỗi đau đồng cảm, người ngoài
cuộc đôi khi không thể đồng cảm sâu
sắc được. Thúy Kiều và Thúy Vân là
chị em ruột thịt “Máu chảy ruột mềm”,
nên chị đau mươi phần, thì hẳn em
cũng hiểu đôi phần trong đó, nên việc
Thúy Vân nhận lời nối duyên với Kim
Trọng thay chị vừa là nghĩa tình vừa là
trách nhiệm:
13
Đây là những lí lẽ cơ bản, duy
nhất là tình cảm chị em máu mủ,
khiến Thúy Vân không thể từ
chối được.
- Ngôn ngữ trong đoạn này kết
hợp hài hòa giữa ngôn ngữ bác
học, cổ điển với ngôn ngữ bình
dân, giản dị, nôm na:
Các điển tích: keo loan, tơ
duyên.
Các thành ngữ: thịt nát xương
mòn, ngậm cười chín suối.
“Này cha làm lỗi duyên mày
Thôi thì việc ấy sau này đã em”
GV: Em có nhận xét gì về lí lẽ của
Thúy Kiều đưa ra?
Hs trả lời.
GV: Em có nhận xét gì về ngôn ngữ
được sử dụng trong đoạn trích này?
HS trả lời.
GV giải thích điển tích “Keo loan”:
- “Keo loan” bởi chữ “Loan giao”
mà ra. Nghĩa là một thứ keo chế
bằng máu chim loan.
- Sách “Hán Võ ngoại truyện” có
chép: đời nhà Hán (206 trước -196
sau D.L.), miền Tây Hải có cống
cho nhà vua thứ keo loan. Vua Võ
Đế (140-88 trước D.L.) thường bị
đứt dây cung, nên lấy keo này nối
lại. Nhờ đó mà bắn suốt ngày không
bị đứt. Vua lấy làm mừng lắm, đặt
tên thức keo đó là “Tục huyền giao”
tức là keo nối dây cung.
- Đời nhà Tống (950-1275), Đào Cốc
vâng lịnh vua đi sứ Giang Nam,
được gặp một thiếu nữ là Tần
Nhược Lan. Hai người yêu nhau và
cùng ở chung một đêm để trao đổi
tâm tình. Nhưng vì sứ mạng, Đào
phải gấp rút về triều phục lịch. Một
đêm ân ái, tình thắm duyên nồng,
giữa đường hạnh ngộ, mới gặp gỡ
lại chia phôi, mối ân tình vẫn còn
canh cánh bên lòng gây biết bao
niềm cảm xúc, nên sau khi Đào về
14
- Tâm trạng Thúy Kiều lúc ấy rất
nhẹ nhàng, thanh thản, yên tâm
và biết ơn Thúy Vân vô hạn.
-
Tiểu kết:
Nội dung: khắc họa hoàn cảnh
éo le và nỗi lòng đau khổ của
Thúy Kiều trong lúc trao duyên.
Nghệ thuật:
Ngôn ngữ được chắt lọc, giàu
sức gợi.
Kết hợp giữa ngôn ngữ văn
chương và ngôn ngữ bình dân.
Giọng điệu tha thiết, khẩn
khoản.
có làm một bài từ gởi cho người
yêu. Trong có câu: “Tỳ bà hát tận
tương tư điệu, tri âm thiểu; đãi đắc
loan giao tục đoạn huyền, thị hà
niên?”. Nghĩa là: “Đàn tỳ bà đã gẩy
hết khúc tương tư, mà người tri âm
có ít, đợi được keo loan chắp nối
dây đàn đứt, biết đến năm nào?”
Tác giả mượn dây đàn đứt vì mối
tình đứt, và mượn sự chắp dây đàn
để nói sự chắp tơ tình.
GV: Tâm trạng của Thúy Kiều khi ấy là
như thế nào?
HS trả lời.
Tiểu kết:
Nàng Kiều trong đoạn “Trao duyên”
không giản đơn chỉ là một con người
hành động. Nàng Kiều của Nguyễn Du
còn luôn sống với những tâm tư, tình
cảm thầm kín của mình. Nguyễn Du đã
thâm nhập vào thâm cung của nội tâm
nhân vật, miêu tả nàng Kiều với tất cả
trạng thái tình cảm phong phú, phức tạp
như một con người thật ở ngoài đời.
Kiều khẩn thiết nhờ em thay mình trả
nghĩa cho Kim Trọng nhưng cũng
không hề giấu giếm nỗi đau không
cùng “Giữa đường đứt gánh tương tư”
của mình, không che giấu tình cảm sâu
nặng của mình đối với chàng Kim “Kể
từ khi gặp chàng Kim/ Khi ngày quạt
ước khi đêm chén thề”. Nỗi đau của
Kiều trong “Trao duyên” cũng là nỗi
đau của nhân phẩm bị chà đạp, của giá
trị con người bị giày xéo. Tiếng khóc ở
15
đây là tiếng khóc cho mình, cho người,
khóc cho cuộc đời, cho nỗi đau nhân
thế. Tố Hữu từng viết “Tố Như ơi, lệ
chảy quanh thân Kiều”. Dòng lệ đó đòi
công bằng và chính nghĩa phải lên
tiếng, đòi công lý và tự do phải hành
động. Tất cả đều nhằm khẳng định
phẩm giá con người.
3. Củng cố và dặn dò
3.1. Củng cố:
- Em hãy tưởng tượng bản thân mình là Thúy Kiều trong đêm trao duyên và
viết một đoạn văn ngắn khoảng 10 đến 20 về nỗi lòng của mình khi phải xin
em gái trả nghĩa cho Kim Trọng.
3.2. Dặn dò
- Học bài và soạn phần còn lại của đoạn trích.
D. RÚT KINH NGHIỆM
…………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
GVHD
Người soạn
Lê Sỹ Đồng
16
- Xem thêm -