Đăng ký Đăng nhập
Trang chủ Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh hải dương...

Tài liệu Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh hải dương

.PDF
77
81
148

Mô tả:

MỤC LỤC MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1 Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ....................................................................... 6 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, mối quan hệ và ý nghĩa về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự ...................................................................... 6 1.2. Khái quát lịch sử lập pháp Việt Nam về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ năm 1945 đến nay ...................................................................... 25 1.3. Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự tại một số nước trên thế giới ......................................................................................... 28 Chương 2: QUY ĐỊNH PHÁP LUẬT VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI TỈNH HẢI DƯƠNG ........................................................................................ ……..32 2.1. Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự .................... 32 2.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự tại tỉnh Hải Dương ....................................................................................... 40 Chương 3: YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ĐẢM BẢO ÁP DỤNG ĐÚNG VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ ...................... 55 3.1. Yêu cầu áp dụng đúng về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự theo tinh thần cải cách tư pháp................................................................................. 55 3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự ......................................................................................................... 58 KẾT LUẬN ..................................................................................................... 67 TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 70 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT BLHS : Bộ luật Hình sự BLTTHS : Bộ luật Tố tụng hình sự BLDS : Bộ luật Dân sự TNHS : Trách nhiệm hình sự TNDS : Trách nhiệm dân sự TAND : Tòa án nhân dân VKSND : Viện kiểm sát nhân dân VAHS : Vụ án hình sự DANH MỤC BẢNG, BIỂU Bảng 2.1: Số liệu về công tác giải quyết, xét xử sơ thẩm các loại án của TAND tại tỉnh Hải Dương từ năm 2013 đến năm 2017........................... 41 Bảng 2.2: Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết TNDS từ năm 2013 đến năm 2017 tại TAND tỉnh Hải Dương ................................................ 42 Bảng 2.3: Tổng hợp số vụ án hình sự có giải quyết TNDS bị kháng cáo, kháng nghị phần dân sự từ năm 2013 đến năm 2017 tại TAND tỉnh Hải Dương ................................................................................................ 42 Bảng 2.4: Số liệu thống kê kết quả thi hành án dân sự trong hình sự theo đơn yêu cầu từ năm 2013 đến năm 2017.................................................. 44 MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do Tòa án thực hiện. Yêu cầu đặt ra cho công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy đủ; xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người vô tội. Đồng thời với việc giải quyết vụ án hình sự (VAHS), pháp luật cho phép Tòa án giải quyết cả vấn đề trách nhiệm dân sự (TNDS) liên quan đến tội phạm. Yêu cầu xét xử đối với VAHS không chỉ là giải quyết tốt về mặt hình sự mà cần giải quyết tốt cả vấn đề dân sự có liên quan. Trong thực tế, việc giải quyết TNDS trong VAHS còn có những hạn chế nhất định, thậm chí cách hiểu và áp dụng còn lúng túng từ các cơ quan xét xử. Các Tòa án thường chú trọng đến phần hình sự mà ít chú trọng đến phần dân sự có liên quan trong vụ án. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về TNDS trong VAHS còn những sai sót nhất định đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết để đưa ra các biện pháp khắc phục. Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu về nội dung TNDS trong VAHS tuy đã có những bài viết, luận văn nghiên cứu về vấn đề này nhưng những nghiên cứu đó chưa thật sự sâu sắc, đầy đủ, chủ yếu chỉ dừng lại ở các bài báo hoặc trong công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử của Tòa án. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về "Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020" yêu cầu: “Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà án trong việc bảo vệ các quyền đó...”[15]. Hoàn thiện các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS cũng là một nội dung quan trọng trong công tác hoàn thiện chính sách pháp luật hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Trên tinh thần đó, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa 1 những vấn đề lý luận và đặc biệt là thực tiễn về TNDS trong VAHS là rất cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá từ thực tiễn áp dụng nguyên tắc này tại tỉnh Hải Dương để đưa ra những kiến giải hoàn thiện pháp luật và các giải pháp bảo đảm thực hiện các quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc học viên được giao đề tài "Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương" làm luận văn thạc sĩ luật học. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Việc giải quyết TNDS trong VAHS đã được nghiên cứu ở nhiều phương diện, phạm vi khác nhau nhằm làm sáng tỏ các vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn được công bố trong các công trình khoa học, giáo trình giảng dạy, bài viết, bài bình luận trên các tạp chí như: Cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có đề tài "Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự" của Nguyễn Thị Thu Hương bảo vệ năm 2009 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài “Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang” của Kim Sơn Trúc bảo vệ năm 2015 tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tại Học viện Khoa học xã hội có các Luận văn nghiên cứu liên quan đề tài này, đó là: Luận văn của tác giả Lê Mạnh Hùng với đề tài: "Khía cạnh dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng Nam" bảo vệ năm 2011; đề tài: "Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai" của tác giả Nguyễn Minh Hào bảo vệ năm 2013; đề tài “Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả Nguyễn Thanh Tùng bảo vệ năm 2016; đề tài “Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên” của tác giả Nguyễn Hải Thanh bảo vệ năm 2017. Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố các bài báo khoa học đề cập đến vấn đề TNDS trong VAHS như: Đinh Văn Quế, "Vấn đề kháng nghị 2 giám đốc thẩm về "dân sự" trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 2005; Đỗ Văn Đại, "Bàn về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự'', Tạp chí Kiểm sát, số 9, 2007; Nguyễn Xuân Đang, "Giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21, 2005; Nguyễn Văn Tuân, "Thủ tục giải quyết việc kiện dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, 2011; Hoàng Thị Sơn, "Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Luật học, số 6, 1998; Trọng Tài, "Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác định sai vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 2006; Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 26, 2010 v.v... Qua các công trình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về TNDS trong thực tiễn giải quyết các VAHS phát sinh trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Do vậy, việc giải quyết TNDS trong VAHS trên địa bàn một tỉnh cụ thể cần được quan tâm nghiên cứu để góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề dân sự trong các VAHS, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay. 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về TNDS trong VAHS, phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, đề xuất một số giải pháp đảm bảo áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS. 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau: - Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TNDS trong VAHS; - Nghiên cứu các quy định về TNDS trong VAHS theo pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa 3 bàn tỉnh Hải Dương; - Từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương, đề xuất một số yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS trong thực tiễn. 4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Luận văn nghiên cứu về TNDS trong VAHS theo luật tố tụng hình sự Việt Nam. Phạm vi không gian: nghiên cứu TNDS trong VAHS từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương. Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu việc giải quyết TNDS trong VAHS tại tỉnh Hải Dương trong 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017. 5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng một số nguyên lý, quy luật và cặp phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong nghiên cứu nội dung của luận văn. Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm: phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn. 6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực tiễn áp dụng pháp luật về TNDS trong VAHS tại tỉnh Hải Dương, góp phần làm rõ hơn những căn cứ thực tiễn hoàn thiện chế định TNDS trong VAHS. Về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo giúp các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết TNDS trong VAHS. 4 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. Chương 2: Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự và thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương. Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự. 5 Chương 1 NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ 1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, mối quan hệ và nghĩa về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự 1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự Trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại. Dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm, TNDS được phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ từ những cam kết, thỏa thuận. Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết, thỏa thuận mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm theo hợp đồng. Nếu nghĩa vụ được quy định bởi các quy định của pháp luật nói chung mà người có nghĩa vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài hợp đồng. Trách nhiệm dân sự bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm [55]. Trong Bộ luật Dân sự không đưa ra định nghĩa về TNDS nhưng về mặt khoa học pháp lý có thể hiểu TNDS là hậu quả bất lợi mà cơ quan nhà nước có thẩm quyền áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm nghĩa vụ nói riêng [29]. Trách nhiệm dân sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, phát sinh do vi phạm nghĩa vụ dân sự. Người chịu TNDS nếu không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đó thì phải chịu trách nhiệm đối với người bị hại và trước pháp luật. TNDS là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh 6 thần. Trong đó, trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường những tổn thất vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút. Người thiệt hại về tinh thần đối với người khác do xâm phạm đến tính mạng sức khỏe, danh dự, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm còn phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại. Trách nhiệm dân sự có những đặc điểm sau: 1) Là một biện pháp cưỡng chế của pháp luật được thể hiện dưới dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị hại; 2) Cùng với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự, TNDS sẽ đem lại cho người thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi; 3) TNDS do các cơ quan có thẩm quyền của nhà nước thực thi theo trình tự và thủ tục nhất định đối với những người có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác. Các yếu tố làm phát sinh TNDS gồm: 1) Có thiệt hại thực tế của bên bị hại; 2) Có lỗi của người gây ra thiệt hại; 3) Có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại thực tế. TNDS bao gồm TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Bên cạnh một số điểm chung, TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng còn có những điểm riêng. Nếu như TNDS theo hợp đồng phát sinh trên các cơ sở những thỏa thuận giữa các bên trong hợp đồng thì TNDS ngoài hợp đồng là các loại TNDS phát sinh bên ngoài, không phụ thuộc vào hợp đồng, việc phát sinh TNDS thường là bất ngờ và không ai có thể lường trước được. Căn cứ để xác định TNDS ngoài hợp đồng là hành vi vi phạm những quy định pháp luật do Nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại, vì vậy đó có thể là hành vi vi phạm những quy định pháp luật hình sự, hành chính. Đối với TNDS ngoài hợp đồng thì về nguyên tắc bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ và kịp thời, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp. 7 1.1.2. Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự Trong VAHS, hành vi phạm tội xảy ra không chỉ xâm hại đến những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn xâm hại đến các quan hệ dân sự, nên có hai loại trách nhiệm được đặt ra khi giải quyết VAHS, đó là: TNHS và TNDS. Có nghĩa là, khi giải quyết VAHS mà tội phạm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản... của cá nhân, tổ chức thì ngoài việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng, thi hành hình phạt đối với người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần TNDS trong vụ án một cách chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức. Đây là vấn đề phức tạp trong lý luận và thực tiễn hiện nay có nhiều ý kiến khác nhau. Ý kiến cho rằng, "trách nhiệm dân sự" trong VAHS chỉ bao gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại được quy định tại Điều 48 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), hay nói cách khác là "trách nhiệm dân sự" trong VAHS chỉ trong phạm vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo tinh thần và nội dung Chương XX BLDS năm 2015. Trong khi đó, tác giả Dương Văn Thắng cho rằng, vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS không phải là vấn đề dân sự thuần túy, mà vấn đề này có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thủ tục tố tụng về bồi thường trong trường hợp này cũng có những đặc điểm riêng. Do vậy, vấn đề bồi thường phải được quy định trong BLHS làm căn cứ cho việc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS [28]. Tác giả Đinh Văn Quế lại cho rằng, "dân sự" trong VAHS chỉ bao gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009), hay nói cách khác là "dân sự" trong VAHS chỉ trong phạm vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại Chương V BLDS năm 1995 (nay là Chương XX BLDS năm 2015) 8 [14]. Đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Về vấn đề này, quan điểm của Tòa án nhân dân tối cao thể hiện trong Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 về việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS, thì phần dân sự trong VAHS chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại, buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Nói cách khác, vấn đề dân sự trong VAHS chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng”. Như vậy, TNDS trong VAHS được thể hiện bằng một quy định của Điều 30 BLTTHS năm 2015 thông qua khái niệm "vấn đề dân sự trong vụ án hình sự". Đây là một khái niệm rộng và khó xác định nội hàm. Vì Điều 30 BLTTHS năm 2015 không xác định rõ giải quyết "vấn đề dân sự" là giải quyết những nội dung gì? Điều 30 BLTTHS có đoạn quy định: "... Trường hợp VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự" [16]. Do đó có thể hiểu "vấn đề dân sự" trong VAHS gồm không chỉ là bồi thường mà cả bồi hoàn. Theo tinh thần của Điều 30 BLTTHS thì "vấn đề dân sự" có thể được giải quyết cùng VAHS và cũng có thể giải quyết riêng theo thủ tục tố tụng dân sự. Về vấn đề này, tác giả Đinh Văn Quế cho rằng, "dân sự" trong VAHS không phải là tất cả những gì có liên quan đến tiền hoặc tài sản mà Tòa án xét xử và quyết định, vì trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng còn áp dụng một số biện pháp tư pháp có liên quan đến tiền 9 hoặc tài sản như: tịch thu công cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; tịch thu vật thuộc loại nhà nước cấm lưu hành; tịch thu hoặc trả lại vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái phép; tịch thu hoặc trả lại vật, tiền của người khác mà người phạm tội đã sử dụng vào việc thực hiện tội phạm... Các quyết định này tuy có liên quan đến tài sản nhưng không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong VAHS và được giải quyết theo luật hình sự và tố tụng hình sự [14]. Vì vậy, "vấn đề dân sự" không thể được quy định trong BLHS và không thể là căn cứ để giải quyết vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra, mà nó phải được quy định trong BLDS, bởi lẽ nó là "vấn đề dân sự" chứ không phải là "vấn đề hình sự", mặc dù nó có quan hệ nhất định đến VAHS. Tuy nhiên không phải tất cả những quy định của Chương XX BLDS năm 2015 về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng đều là "vấn đề dân sự" trong VAHS. Chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm gây ra và trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "vấn đề dân sự" trong VAHS hay nói một cách chính xác hơn đây là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại. Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm TNDS trong VAHS như sau: TNDS trong VAHS là việc bồi thường những thiệt hại do tội phạm gây ra. Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm của TNDS trong VAHS như sau: Một là: Giải quyết TNDS trong VAHS là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự, thể hiện chính sách pháp luật của Nhà nước ta về việc giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS. Về nguyên tắc, "phần dân sự" thì đương sự có quyền tự định đoạt, do đó vấn đề dân sự trong VAHS 10 đương sự có quyền có thể khởi kiện vụ án dân sự riêng biệt với VAHS tại Tòa dân sự. Tuy nhiên, phần dân sự của vụ án sẽ chưa được xét xử chừng nào phần hình sự của vụ án chưa được xét xử xong. Nếu đã khởi tố hình sự, tức là một khi cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố VAHS thì phải xem xét giải quyết xong vấn đề hình sự rồi mới xem xét TNDS. Do đó, để thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật của nhà nước ta, BLTTHS năm 2015 xác định việc giải quyết TNDS được tiến hành cùng với việc giải quyết VAHS. Nếu trong VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự. Hai là: Giải quyết TNDS trong VAHS chỉ có phạm vi áp dụng đối với những quan hệ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do việc thực hiện tội phạm. Trên thực tế, có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây thiệt hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm: Hành vi phạm tội xâm hại đến sức khỏe, tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh TNHS còn làm phát sinh TNDS của những người tham gia tố tụng. Hoặc những vấn đề có liên quan đến tiền và tài sản như: tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội mà có, đòi lại tài sản, đòi bồi thường thiệt hại... Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề dân sự nào liên quan đến tiền hoặc tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết cũng đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của quy định tại Điều 30 BLTTHS. Bởi lẽ, việc Tòa án áp dụng việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo quy định tại Điều 48 BLHS và xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 BLTTHS tuy có liên quan đến tài sản nhưng không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong VAHS và được giải quyết theo luật hình sự, tố tụng hình sự và trách nhiệm giải quyết thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Nói cách khác, TNDS trong VAHS bao gồm không chỉ vấn đề bồi thường mà cả bồi hoàn và được xác định trong phạm vi "trách nhiệm bồi 11 thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại Chương XX BLDS năm 2015 và đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Ba là: Trách nhiệm dân sự trong VAHS được giải quyết cùng với việc giải quyết vấn đề hình sự sau khi khởi tố VAHS. Quyết định khởi tố VAHS là văn bản pháp lý xác định có sự việc phạm tội, làm cơ sở cho các hoạt động điều tra. Do đó, khi VAHS có vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm bị khởi tố thì việc dân sự đó được xem xét và giải quyết mà không cần phải khởi kiện riêng bằng một thủ tục khác nữa. Theo thủ tục tố tụng dân sự thì vụ án dân sự chỉ được đặt ra và xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức. Trong VAHS, khi VAHS đã khởi tố vụ án mà có vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết TNDS, chứng minh có thiệt hại về vật chất, tài sản... là việc giải quyết phần hình sự của vụ án đồng thời cũng chính là việc chứng minh mức độ thiệt hại, giá trị tài sản cần được bồi thường cho người bị hại. Còn đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội phạm gây ra được xác định là nguyên đơn dân sự trong VAHS thì trong quá trình giải quyết VAHS người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, đó là việc nguyên đơn có quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này, BLTTHS năm 2015 quy định vấn đề dân sự chỉ được giải quyết cùng VAHS khi họ có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bốn là: Quá trình giải quyết TNDS trong VAHS có sự tham gia của cơ quan tiến hành tố tụng trong việc chứng minh, xác định mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Trong vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc thì nghĩa vụ chứng minh cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự, trách nhiệm của bên đi kiện. Việc giải quyết TNDS trong VAHS cũng không 12 phải ngoại lệ. Tuy nhiên, trong trường hợp TNDS được giải quyết trong VAHS, ở đây được hiểu là giải quyết việc tranh tụng dân sự trong VAHS và do Tòa hình sự giải quyết, về nguyên tắc vì là được giải quyết bởi Tòa hình sự nên khi xem xét giải quyết vụ án Tòa án phải áp dụng các quy định, trình tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự để giải quyết. Tuy nhiên, việc giải quyết TNDS trong cùng VAHS về bản chất vẫn là giải quyết mối quan hệ dân sự, do đó không thể áp dụng thủ tục hình sự để giải quyết TNDS mà phải áp dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết. Hay nói cách khác, TNDS trong VAHS phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nằm trong thủ tục tố tụng hình sự nói chung. Nếu vấn đề TNDS trong VAHS được tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự thông thường thì quá trình giải quyết vụ việc đương nhiên áp dụng thủ tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc giải quyết đó chỉ được tiến hành khi đã có bản án hình sự. Năm là: Trong quá trình giải quyết TNDS trong VAHS, Tòa án không bắt buộc phải mở các phiên hòa giải giữa các đương sự như trong tố tụng dân sự. Thủ tục mở phiên hòa giải không phải là thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải thực hiện khi chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm TNDS trong VAHS. Tại phiên tòa, Hội đồng xét xử cũng không bắt buộc phải tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết TNDS trong VAHS. Trường hợp các đương sự tự nguyện thỏa thuận được với nhau thì Tòa án công nhận việc thỏa thuận này. Tuy nhiên, Tòa án không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà chỉ ghi nhận sự thỏa thuận này vào phần quyết định của bản án hình sự. Đây là điểm khác biệt lớn so với tố tụng dân sự vì trong tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm bắt buộc phải tiến hành mở các phiên hòa giải giữa các đương sự và việc hòa giải được tiến hành trước và tại phiên tòa. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của đương sự. 13 1.1.3. Phạm vi giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một trong những nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Hiến pháp. Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm" [35]. Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự, luôn đề cao và tôn trọng quyền con người. Cùng với nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm, không để lọt tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng còn bảo đảm các quyền cơ bản của công dân không bị xâm phạm, không vì mục đích tìm ra tội phạm mà có những hành vi trái pháp luật, xâm phạm đến quyền của con người. Điều 48 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các loại biện pháp tư pháp liên quan với thiệt hại mà tội phạm gây ra, đó là: biện pháp tư pháp trả lại tài sản; biện pháp tư pháp sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại và biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi. Việc quy định các biện pháp tư pháp này là nhằm bảo vệ quyền sở hữu cũng như quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm của con người đã được Hiến pháp quy định. Khi một hành vi phạm tội xảy ra, đồng thời với quan hệ pháp luật hình sự phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội thì cũng phát sinh quan hệ dân sự giữa người phạm tội và người bị hại. Vì vậy, song song với việc giải quyết vấn đề TNHS của người phạm tội thì việc giải quyết vấn đề TNDS, để khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra cũng được BLHS quy định. Việc quy định các biện pháp tư pháp trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi là để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại. Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định các nghĩa vụ của người phạm tội liên quan đến thiệt hại về vật chất, đó là các nghĩa vụ sau: - Trả lại tài sản chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp 14 pháp: Người phạm tội phải trả lại vật, tiền đã chiếm đoạt cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp, khi vật, tiền đó còn nguyên và được thu giữ, quản lý trong quá trình điều tra hoặc người phạm tội đang cất giữ và không thuộc loại Nhà nước cấm tàng trữ, sử dụng, lưu hành. - Sửa chữa thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra: Trong trường hợp tài sản của chủ tài sản bị hư hỏng do người phạm tội gây ra thì họ phải sửa chữa thiệt hại gây ra khi có thể sửa chữa được. Việc sửa chữa thiệt hại có thể bằng cách người phạm tội sửa chữa trước khi trả lại hoặc thỏa thuận trả tiền chi phí sửa chữa cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản để họ tự mình hoặc thuê người sửa chữa. - Bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra: Đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng đến mức không thể sửa chữa được hoặc việc hoàn trả lại tài sản không thể thực hiện được do tài sản đã bị mất, bị tiêu dùng... thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại vật chất đã gây ra. Thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra theo quy định tại Điều 589 BLDS, bao gồm: Tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định. Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội phải bồi thường toàn bộ chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; chi phí phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định. Ngoài ra, người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người bị hại gánh chịu 15 (Điều 590 BLDS). Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về tính mạng thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như nêu trên; chi phí hợp lý cho việc mai táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng. Ngoài ra, người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt hại hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp nuôi dưỡng người bị thiệt hại (Điều 591 BLDS). Khoản 2 Điều 48 BLHS quy định biện pháp buộc công khai xin lỗi. Theo điều luật, người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần có nghĩa vụ bồi thường về vật chất và phải công khai xin lỗi người bị hại. Để đảm bảo thật sự phát huy tác dụng của biện pháp này, thì việc công khai xin lỗi được thực hiện tại phiên tòa trước sự chứng kiến của hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa và được ghi trong biên bản phiên tòa. Biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi thường được áp dụng đối với người phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người [26]. Như vậy, TNDS có liên quan đến tội phạm đã được quy định, đề cập đến trong cả BLHS và BLDS. Trong tố tụng hình sự, luật pháp cho phép khi xét xử VAHS thì giải quyết luôn cả vấn đề dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra có ý nghĩa không chỉ trong việc giải quyết TNDS mà còn có ý nghĩa trong cả giải quyết vấn đề hình sự, vì trong nhiều trường hợp mức độ thiệt hại đó là tình tiết để định tội, xác định mức độ lỗi và mức hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, xem xét vấn đề dân sự trong VAHS có tác dụng làm cho việc xét xử vụ án về mặt hình sự cũng như về mặt dân sự được đầy đủ, toàn diện. Mặt khác, xem xét vấn đề dân sự trong VAHS tiết kiệm thời gian và chi phí cho việc xét xử vụ án, bởi vì cùng một vụ việc không phải tiến hành giải quyết hai lần: lần 16 thứ nhất buộc tội bị cáo, lần thứ hai liên quan đến TNDS. Đồng thời, giải quyết TNDS trong VAHS tạo điều kiện cho người bị hại chứng minh là có thiệt hại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Người bị thiệt hại có nhiều điều kiện thuận lợi hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, việc bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra sẽ giải quyết như thế nào, phạm vi đến đâu và theo thủ tục nào thì Điều 30 BLTTHS chưa quy định rõ. Như ở phần trên đã phân tích, chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm gây ra và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "trách nhiệm dân sự" trong VAHS hay nói một cách chính xác hơn, giải quyết TNDS trong VAHS là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại. Theo Công văn số 121/2003/KHXX thì chỉ được tách để giải quyết phần hay một phần dân sự trong VAHS khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách ra không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây: (i) Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự. (ii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu. (iii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh theo yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng nói chung hoặc Tòa án nói riêng. (iv) Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự. Vấn đề đặt ra là khái niệm "phần dân sự" có liên quan hoặc không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của bị can, bị cáo. Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm của bị can, bị cáo, Công văn số 121/2003/KHXX có đưa ra ví dụ sau: 17
- Xem thêm -

Tài liệu liên quan